Nhớ 5 năm ngày mất nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
(01/ 04/ 2001 - 01/ 04/ 2006)
1. Sáu mươi ba năm "ở trọ" trần
gian, Trịnh Công Sơn đã để lại cho đời một gia tài âm nhạc đồ sộ, vô giá
(anh sinh ngày 28/ 2/ 1939, mất ngày 01/ 4/ 2001). Chẳng thế, mà có người
không ngần gại xếp anh trong nhóm "tứ trụ" với những tài năng âm
nhạc khác của Việt Nam, như Văn Cao, Dương Thiệu Tước, Phạm Duy. Còn riêng
anh, khi nói về Văn Cao, anh tự đánh giá mình hết sức khiêm tốn. Anh nói:
"Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi
giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong thân
phận riêng tư.". Nhưng có một điều dễ nhìn nhận khi anh còn sống hay
khi anh về bên kia cuộc đời, tôi nghĩ, người đời biết anh nhiều hơn Văn Cao.
(Là người Việt Nam, ai cũng biết bài Quốc ca, nhưng có thể nhiều người
không biết bài ấy của Văn Cao, và ngoài bài Quốc ca ra, người thuộc nhạc
Văn Cao ít hơn). Có thể nói không quá đáng rằng, từ những "công dân
hạng một" đến hàng "thứ dân", ai cũng biết anh, ai cũng
thuộc đôi ba câu nhạc của anh. Phải chăng vì anh gần gũi như một "sở
thích" của họ. Lúc sống anh cũng chỉ có một tâm nguyện: "Ôi nhân
loại, còn người trong tôi.". Tài năng âm nhạc của anh, chắc rồi, người
đời sẽ còn nói nhiều. Vẫn biết không thể tách nhạc và lời trong những sáng
tác của anh. Chúng như hình với bóng và cả hai đều ở mức hoàn hảo, tuyệt
vời. Nói như Văn Cao: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca
(Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái
nào là chính, cái nào là phụ.". Vì nhiều lý do, bài viết này, chúng
tôi chỉ khảo sát phần lời, từ trong nhạc của anh. Chắc rằng, sẽ là thiếu
sót, vì chúng tôi đã tước đi phần nhạc, một phần hồn khác, không thể thiếu
được trong nhạc và lời của Trịnh Công Sơn.
2. Có thể nói, lời, từ trong nhạc Trịnh Công
Sơn cũng chính là tâm nguyện của anh về cuộc sống. Anh không viết lời vì bị
câu thúc bởi nhạc. Lời, từ trong nhạc anh không có những lời sáo rỗng, vô
hồn, to tiếng, đại ngôn, vì anh viết nên nó bằng chính nỗi niềm thật trong
sáng, không vụ lợi, không vị nhân; dẫu nỗi niềm ấy đôi lúc nghe như có phần
tuyệt vọng, nhưng cũng như anh đã có lần tâm sự, đó còn là nỗi lòng tiếc
nuối khôn nguôi với buổi chia lia cuộc đời này. Anh tâm sự: "Mỗi bài
hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về
những nỗi niềm tuyệt vọng và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối
với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ
những buồn vui cùng mọi người.".
2.1. Xét về mặt nội dung của lời, từ, nhiều
người cho rằng, khoảng 600 bài nhạc của Trịnh Công Sơn thì đó cũng chính là
600 bài thơ của anh. Chỉ với số lượng thôi, tôi nghĩ, anh cũng xứng đáng
được liệt vào hàng các nhà thơ lớn đương đại. Trong số này có rất nhiều bài
nhạc mà lời, từ rất đặc sắc. Trong nhiều bài nhạc, lời, từ của anh đậm tính
nhân văn, chất triết lý nhân bản hết sức quí. Nói chung, người nghe thích
và quí trọng nhạc anh, vì ngoài phần nhạc nhẹ nhàng, đơn giản như gió
thoảng, mây bay có sức len lỏi vào tận ngõ ngách mọi tâm hồn của con người,
thì phần lời trong nhạc anh lại nêu bật được hình ảnh, thân phận con người
trong cõi sống "nhọc nhằn đáng yêu" mà anh cùng nhiều người vẫn
cho như thế. Lời ca trong "Một cõi đi về" cũng đã nói lên điều
đó: "Bao nhiêu năm rồi còn mãi đi xa. Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi
mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi
về.". Trong kiếp sống ngắn ngủi của con người, anh không kêu gọi con
người sống gấp, sống vội, bằng cách cố vun vén cho mình mọi điều, mọi thứ;
mà trái lại, anh khuyên họ nên sống giàu lòng nhân ái, đầy sự độ lượng, vị
tha. Lời trong bài "Ngụ ngôn mùa đông" và phần lớn những bài
trong "Ca khúc Da vàng" của anh đều nêu bật tấm lòng yêu thương
con người, tâm lý chán ghét chiến tranh của anh, vì chiến tranh suy cho
cùng chỉ mang lại thiệt thòi, chết chóc cho dân lành vô tội: "Một ngày
mùa đông, Một người Việt Nam, Thôi lên đồi non, Súng từ thị thành, Súng từ
ruộng làng, Nổ xé da con, Phố chợ thật buồn, Cuộn dây gai chắn, Chắc mẹ
hiền lành, rồi cũng tủi thân.".
Có lẽ, anh mang nặng nỗi niềm đau nhân thế
và ý nghĩa triết lý cuộc đời của tôn giáo nên lúc sống anh vẫn thường nói
về cái chết. Anh không sợ nó mà như sẵn sàng đón nhận nó, đôi khi có phần
mong đợi: "Hòn đá lăn bên đồi, Hòn đá rớt xuống cành mai, Rụng cánh
hoa mai gầy, Chim chóc hót tiếng qua đời, Người ôm lấy muôn loài, Nằm trong
tiếng bi ai." (Ngẫu nhiên). Đó còn là giấc mơ về cõi bên kia vĩnh
hằng: "Đường nào dìu tôi đi đến cơn say. Một lần nằm mơ tôi thấy tôi
qua đời. Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy. Giật mình tỉnh ra, ồ nắng lên
rồi.". Hay trong bài "Cát bụi" anh sáng tác trước: "Bao
nhiêu năm làm kiếp con người. Chợt một chiều tóc trắng như vôi. Lá úa trên
cao rụng đầy. Cho trăm năm vào chết một ngày.".
Ý nghĩ vần thường trực trong anh là cuộc đời
ngắn ngủi, thế nên anh cũng sống hết mình với nó, nhưng hình như vẫn phảng
phất trong anh một nỗi buồn mênh mang có lý do và đôi khi cũng vô cớ. Có
điều, nỗi buồn không đến mức làm con người lạnh đi, bi quan; trái lại, nỗi
buồn làm tấm lòng con người ấm lại, nhân ái, bao dung hơn: "Người ngồi
xuống xin mưa đầy. Trên hai tay cơn đau dài. Người nằm xuống nghe tiếng ru.
Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ." (Mưa hồng).
Trong gia tài âm nhạc của anh, người ta tìm
thấy thân phận và tình yêu, nhưng như anh nói, thân phận thì mong manh,
tình yêu lại vô cùng. Anh chỉ mong cứu vớt thân phận bằng tình yêu, anh tâm
sự: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu
hạn, tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình
yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời.". Tình yêu trong
nhạc anh là một tình yêu nhân thế. Anh đau với nỗi đau của con người: Anh
thương các cụ già trong cơn hoạn nạn. Anh thương những người mẹ mất con
trong cơn chạy loạn. Anh thương từng người nghèo khổ không chốn nương thân.
Anh thương những em bé mồ côi, bơ vơ, thiếu thốn. Anh thương cả những xác
thân vô thừa nhận. Hàng loạt những bài trong "Ca khúc Da vàng"
như: "Du mục", "Người già em bé", "Hát trên những
xác người", "Đại bác ru đêm"... là những bài ca mang nặng
tình nhân thế trong tài sản âm nhạc của anh. Anh viết trong bài "Hát
trên những xác người": "Xác người nằm quanh đây trong mưa lạnh
này. Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây. Xác nào là em tôi dưới hố
hầm này...".
Quan niệm cuộc sống này là cõi tạm bợ,
"quán trọ", một quan niệm thường trực trong ý tưởng của anh. Đôi
khi nó làm cho anh cảm thấy buồn vì sự bất lực của con người trước cuộc
đời, nhưng đôi khi anh thấy bình tâm hơn vì kiếp con người. Trong nhiều bài
nhạc, anh đã đề cập tới ý nghĩa triết lý nhân sinh này: "Ở trọ",
"Biết đâu nguồn cội", "Cát bụi", "Ngẫu
nhiên"... Trong bài "Phúc âm buồn", anh viết: "Còn
bao lâu cho thân thôi lưu đày chốn đây. Còn bao lâu cho thiên thu xuống
trên thân này. Còn bao lâu cho mây đen tan trên hồn người. Còn bao lâu tôi
xa em, xa anh, xa tôi.". Hay trong bài "Biết đâu nguồn
cội": "Tôi vui chơi giữa đời, Ối a biết đâu nguồn cội.
Tôi thu tôi bé lại, Làm mưa tan giữa trời.".
Tình yêu quê hương trong nhạc Trịnh còn là
phố xá, nhưng phố trong nhạc anh cũng phảng phất một nỗi buồn mà căn nguyên
khó lượng định: có khi đó là phố buồn của chiến tranh: "Đàn bò
vào thành phố không còn ai hỏi thăm..." (Du mục); có khi phố
buồn vì vắng bóng của người thân thương, nhưng vẫn còn đó những kỷ niệm một
thời: "Em còn nhớ hay em đã quên. Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt
nắng. Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân. Nhớ đèn đường từng đêm thao thức.
Sáng cho em vòm lá me xanh." (Em còn nhớ hay em đã quên); có
khi là phố xưa ẩn chứa nỗi buồn muôn thuở của thời gian: "Còn
lại đây những sớm mai buồn. Vì phố xưa cỏ lá mong manh." (Tưởng
rằng đã quên); hay "Về trên phố cao nguyên ngồi, Tiếng gà trưa
gáy khan bên đồi, Chợt như phố kia không người, Còn lại tôi bước
hoài." (Lời gọi thiên thu); có thể là ấn tượng về một lần tới
thăm phố cổ Hà Nội: "Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây
bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu." (Nhớ
mùa thu Hà Nội).
2.2. Về mặt nghệ thuật của lời, từ, có thể nói
không quá đáng rằng, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi
ra." (Nguyễn Xuân Khoát); ấy vậy mà, đó không phải là những lời dễ
dãi, vô hồn; trái lại, đó là những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ.
2.2.1. Trước hết đó là nghệ thuật dùng chữ
(từ) của anh. Chữ dùng của anh, tôi nghĩ nó chính xác, độc đáo đến độ ta
không thể thay, chữa chữ nào khác hay hơn được. Có rất nhiều bài nhạc thể
hiện tài năng siêu hạng trong việc dùng từ của anh.
Bài "Ở trọ", chữ "trọ"
và chữ "đậu" được nhắc đi nhắc lại trong mỗi đôi câu nhạc, làm
toát lên ý tưởng triết lý căn bản của toàn bài. "trọ" và
"đậu" cũng là nhờ, tạm bợ; nhưng "trọ" có thể là qua
đường, dửng dưng; mà "đậu" có hàm sự nhờ vả, biết ơn. Chữ dùng
làm cho lời ý không nghèo nàn, lặp lại khiên cưỡng, mà có tác dụng trợ
nghĩa cho nhau: "Con chim ở đậu cành tre. Con cá ở trọ trong khe nước
nguồn; Sương kia ở đậu miền xa. Cơn gió ở trọ bao la đất trời; Mây kia ở
đậu từng không. Mưa nắng ở trọ bên trong mắt người; Trăm năm ở đậu ngàn
năm. Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn...".
Trong bài "Em còn nhớ hay em đã
quên" chữ "trói chân" được anh dùng quá khéo để diễn đạt lại
ý của người xưa "vũ vô kiềm toả năng lưu khách."; rồi hình ảnh
đường phố ngập mưa làm anh nghĩ tới "dòng sông" thì không còn sự
diễn đạt nào có thể nói là chính xác hơn": "Em còn nhớ hay em đã
quên, Trong lòng phố mưa đêm trói chân. Dưới hiên nhìn nước dâng tràn, Phố
bỗng là dòng sông uốn quanh.".
Bài "Ngẫu nhiên" với những triết
lí khái quát cao: điều tưởng chừng "ngẫu nhiên" có tính "qui
luật" này, được anh diễn đạt nghe "hiển nhiên", nhưng không
phải ai cũng nhận ra được. Và có nhận ra, thì cũng không dễ gì có được
những phân định rạch ròi và chính xác trong từng khía cạnh của nhận thức
như anh: "Không có đâu em này. Không có cái chết đầu tiên. Và có đâu
bao giờ. Đâu có cái chết sau cùng. Tự mình biết riêng mình, Và ta biết
riêng ta.".
Bài "Diễm xưa" với những chữ dùng
chọn lọc và những kết hợp từ linh hoạt của anh, đã gợi cho người nghe có
được những cảm nghĩ đời thường cùng những suy tư triết lí, nhân tình thế
thái hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh đời vừa thực vừa ảo tuyệt
đẹp: "Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động. Làm sao em biết bia đá không
đau. Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
Để người phiêu lãng quên mình lãng du.".
Bài "Đại bác ru đêm" có những câu,
chữ dùng thể hiện kỹ năng dụng ngôn điêu luyện mà không mấy thi sĩ tài hoa
Việt Nam vươn tới: "tương lai rụng vàng, kinh không mang lời
nguyện, trẻ thơ quên sống, từng đêm nghe ngóng, ru da thịt vàng, nghe quen
như câu ca dao buồn, trẻ con chưa lớn để thấy quê hương...": "Đại
bác đêm đêm dội về thành phố. Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe. Đại
bác đêm đêm tương lai rụng vàng. Đại bác như kinh không mang lời nguyện.
Trẻ thơ quên sống, từng đêm nghe ngóng... Đại bác đêm đêm dội về thành phố.
Người phu quét đường dừng chổi lắng nghe. Đại bác đêm đêm ru da thịt vàng.
Đại bác nghe quen như câu ca dao buồn. Trẻ con chưa lớn để thấy quê
hương...".
2.2.2. Nói về sự kết hợp từ, có lẽ phải nói,
anh là người tạo ra những cách kết hợp từ "kì diệu"
nhất. Bởi, anh là một nhạc sĩ nên anh không có sự ám ảnh về nỗi sợ sức nặng
ngôn từ có thể đè bẹp người làm thơ. Và do đó, trong cảm hứng âm thanh dào
dạt, anh đã đến được ranh giới tận cùng sự kết hợp cần có của từ ngữ, nên
ai cũng thấy lạ, cảm nhận được một ít hương vị của sự kết hợp kì thú mà anh
mang lại và cũng không ai vì cảm mến anh mà bỏ qua những lỗi dùng từ của
anh, nếu đó là những kết hợp "quái dị" mà ta vẫn bắt gặp ở một số
sáng tác hiện nay. Có thể dẫn ra đây hàng loạt cách kết hợp từ độc nhất vô
nhị trong nhạc anh, chẳng hạn: "Đường về tình tôi có nắng rất
la đà; Môi nào hãy còn thơm. Cho ta phơi cuộc tình... Khi về trong mùa
đông. Tay rong rêu muộn màng... Không còn không còn ai. Ta trôi
trong cuộc đời; Tôi xin năm ngón tay em thiên thần. Trên vùng ăn năn qua
cơn hờn dỗi; Tim em người trọ là tôi. Mai kia về chốn xa xôi cũng gần; Bầy
vạc bay qua. Kêu mòn tịch lặng... Từ độ chim thiêng. Hót lời mệnh bạc. Từng
giọt vô biên. Trôi chìm tiếng tăm; Những tim đời đập lời hoang phế.
Dưới mặt trời ngồi hát hôn mê; Bao nhiêu năm em nợ ngọt ngào. Trả nợ một
đời chưa hết tình sâu; Ôi áo xưa lồng lộng, Đã xô dạt trời chiều, Như từng
cơn nước rộng. Xóa một ngày đìu hiu; Sợi tóc em bồng trôi nhanh trôi nhanh.
Như dòng nước hiền; Hồn ta gió cát phù du bay về; Nghe xót xa hằn lên tuổi
trời. Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người;
Hàng cây đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô; Ta nghe nghìn giọt lệ. Rớt xuống
thành hồ nước long lanh; Ngày mưa tháng nắng còn buồn. Bàn tay nghe ngóng
tin sang; Cúi xuống cho máu ngược dòng, Cho nước sông cạn nguồn, Cho cây
khô trên cành trút lá bơ vơ; Ta thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ
khô,... với mặt trời lẻ loi; Tìm lại trên sông những dấu hài...
Tìm trong
sương hồng trong chiều bạc mệnh trăng tàn nguyệt tận chứa từng tuyệt vọng;
Có những nghìn năm xưa hoá thân em bây giờ; Bỏ mặc tôi là tôi là ai?... Bỏ
mặc hư vô bỏ ngậm ngùi; Sống có bao năm vui vui buồn buồn người người ngợm
ngợm; Muốn nói đôi câu giữa chốn thương đau chim xanh bạc đầu cây xanh bạc
đầu vội vàng tôi theo; Bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm... Bàn tay em
trau chuốt thêm cho ngàn năm; Cuộc tình nào đã ra khơi khi ta còn mãi nơi
đây; Em ra ngoài ruộng đồng hỏi thăm cành lúa mới... Em hôn một nụ hồng hỏi
thăm về giọt nắng; Buồn đi trong đêm khuya... Buồn rơi theo đêm mưa; Người
hãy nhớ mang theo hành trang qua khoang trời vắng chân mây địa đàng; Thôi
em đừng bối rối. Trong ta chiều đã tàn; Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ;
Đôi khi nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím; Mẹ già cười xanh như
lá mới trong khu vườn; Mẹ vỗ tay reo mừng xác con. Mẹ vỗ tay reo mừng chiến
tranh. Người vỗ tay cho đều gian nan. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người
vỗ tay xa dần ăn năn; giọt nước mắt vui lay lòng gỗ đá; Mặt đất ưu từ đã nở
nụ cười. Cùng xương khô lên tiếng nói. Đời sống ấm êm nhân danh con
người...".
Trong
lối kết hợp từ, dùng chữ được gọi là "kì diệu" của anh, chúng tôi
xin dừng lại để phân tích một số cách kết hợp mà chúng tôi cảm nhận được và
nhận ra nhiều điều thú vị trong đó, không chắc rằng đã cảm được hết ý anh,
như:
Trịnh
Công Sơn viết: "Đường về tình tôi có nắng rất la đà". "Nắng
rất la đà" là nắng gì? Phải chăng là "nắng say" mà trong
đường tình (đường về tình tôi) rất có thể có nắng làm say lắm chớ!
Trịnh
Công Sơn viết: "Môi nào hãy còn thơm. Cho ta phơi cuộc tình". Chữ
"phơi" dùng trong trường hợp này rất hay, nhưng hiểu là phơi như
"phơi áo quần" thì lại dỡ. Anh muốn nói "phơi" phải
chăng là "phơi bày" mà phơi bày lại là một cách thổ lộ tình yêu
chân thật, như một kiểu trải lòng với người mình yêu.
Trịnh Công Sơn viết: "Bầy vạc bay qua.
Kêu mòn tịch lặng". Lối kết hợp hai thành tố "tịch" và
"lặng" để tạo thành "tịch lặng" rất tuyệt. Nó như nói
lên được cái gì đó của trạng thái "cô độc và lặng lẽ". Hai thành
tố này vừa mang nghĩa riêng vừa như hỗ trợ nghĩa cho nhau. Rồi lại
"mòn tịch lặng", "mòn" là hao mất đi một ít. Như vậy,
"mòn tịch lặng" là không còn sự cô độc và lặng lẽ nguyên sơ nữa,
ấy là có một tí động. Một ít động do tiếng "kêu của bầy vạc bay
qua" làm khuấy động đêm vắng và cô đơn của nhạc sĩ.
Trịnh Công Sơn viết: "Từng giọt
vô biên. Trôi chìm tiếng tăm". Triết lí thời gian được
anh diễn tả hết sức hình ảnh: "thời gian qua đi như từng giọt,
từng giọt tạo thành biển cả có thể nhấn chìm tất cả".
Trịnh Công Sơn viết: "Tin buồn
từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người". Mỗi chúng ta khi sinh ra
trên cõi đời này là được mẹ cho tin buồn về kiếp con người nặng những buồn
vui, lo toan mà chúng ta phải chấp nhận gánh vác.
Trịnh Công Sơn viết: "Hàng cây
đưa em đi về giọt nắng nhấp nhô". Lối kết hợp từ lạ gây nhiều
thú vị, có thể hiểu được: cái lung linh của nắng rọi qua những hàng cây kẽ
lá bị xao động bởi gió và sự chuyển động của người mà tạo thành giọt, tạo
cảm giác nhấp nhô.
Trịnh Công Sơn viết: "Tìm trong
sương hồng trong chiều bạc mệnh trăng tàn nguyệt tận chứa từng tuyệt
vọng". Ý tưởng của nghệ sĩ, ở một lúc nào đó là hơi "bi
quan", nhưng nếu để nói cái bi quan mà nói như vậy thì còn gì bằng, có
thể tạm hiểu: tìm một ảo giác đẹp trong một khoảnh khắc buồn ở một con
người buồn thì biết làm sao đây?! "...chiều bạc mệnh trăng tàn
nguyệt tận chứa từng tuyệt vọng" thì còn lời lẽ nào để miêu
tả cho hơn về nỗi khổ đau đã đến hết giới hạn của sự tận cùng.
Trịnh Công Sơn viết: "Muốn nói
đôi câu giữa chốn thương đau chim xanh bạc đầu cây xanh bạc đầu vội vàng
tôi theo". Hình ảnh "chim xanh bạc đầu, cây xanh bạc
đầu" chỉ lạ chớ không quá khó hiểu và nghệ sĩ một phút nào đó như nhận
ra mình cũng là "đồng hành tri âm, tri kỷ" nên anh "gấp rút
đi theo": "vội vàng tôi theo".
Trịnh Công Sơn viết: "Đôi khi
nắng khuya chưa lên mà một loài hoa chợt tím". Người ta bảo
làm gì có "nắng khuya", cũng như hoa thì trời sinh có một màu nào
đó, chớ làm gì có "một loài hoa chợt tím". Nhưng chắc gì trên đời
này cái gì không có. Mà nếu có thì cũng hợp lí thôi: không phải hi vọng nào
của con người cũng thành hiện thực, một ít lúc "đôi khi" hi vọng
mòn mõi nào đó của ai chưa thành "nắng khuya chưa lên"
thì niềm vui hi vọng đã sớm thành nỗi buồn "mà một loài hoa chợt
tím" lắm chớ ?!
Trịnh Công Sơn viết: "Mẹ già cười xanh
như lá mới trong khu vườn". Tại sao không là "cười tươi, cười
vui..." mà là "cười xanh"? "Cười xanh" ý nghĩa
hơn. Nó cũng là tươi vui, nhưng còn ẩn chưa niềm hi vọng, cái mới bắt đầu.
Trịnh Công Sơn viết: "Mẹ vỗ tay reo
mừng xác con. Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh. Người vỗ tay cho đều gian
nan. Người vỗ tay cho thêm thù hận. Người vỗ tay xa dần ăn năn.". "vỗ
tay" để biểu thị mừng, nhưng anh lại viết "reo mừng xác
con". Ai muốn con mình chết, nhưng chẳng may chết mà tìm được xác thì
mừng quá đi chớ. Và cũng không loại trừ, trước cái chết của con, và sự đổ
nát quá lớn, bà mẹ già đã rơi vào trạng thái "tâm thần" không còn
có ý niệm vui và buồn, nên "reo mừng xác con", "reo mừng
chiến tranh". Sức mạnh tố cáo chiến tranh ở những biểu hiện bất thường
này là cực lớn. Rồi cũng có những cái vỗ tay không phải để thêm hạnh phúc,
tình thương, thêm lòng hướng thiện, mà không khéo thì "cho đều gian
nan, cho thêm thù hận, xa dần ăn năn".
2.2.3. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ, đồng
thời cũng là một họa sĩ. Có lẽ, nhờ tài năng ở cả hai loại hình nghệ thuật
này hỗ trợ nên anh cũng thành công trong việc thể hiện lời nhạc của mình
bằng một thứ ngôn từ giàu hình ảnh, đầy tính hình tượng. Nghe lời nhạc của
anh, ta như thấy được từng hình ảnh, nhìn được từng bức tranh được vẽ bằng
chất liệu ngôn từ. Anh có những so sánh hình ảnh, cách thể hiện mà ai cũng
thầm phục sự tinh tế trong cái nhìn, cách cảm của anh. Ở khía cạnh nghệ
thuật này, không thể kể ra đây hết được những hình ảnh nghệ thuật ngôn từ
của anh, chỉ xin nêu một số hình ảnh mà Trịnh Công Sơn dùng để thấy được
tài năng của anh: "Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên đường.
Một đàn gà sao tiếng gáy đánh thức bình minh; Ngày vui con nước trôi nhanh.
Người đi như nước qua đêm; Thấy đời mình là những quán không. Bàn im hơi
bên ghế ngồi; Khi tình đã vội quên. Tim lăn trên đường mòn. Trên giọt máu
cuồng điên. Con chim đứng lặng câm... Đời sao im vắng. Như đồng lúa gặt
xong. Như rừng núi bỏ hoang. Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng
câm; Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai vươn hình hài lớn
dậy. Ôi cát bụi tuyệt vời. Mặt trời soi một kiếp rong chơi; Trên hai vai ta
đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về; Con sông là quán
trọ. Và trăng tên lãng du... Cây trưa thu bóng dài. Và tôi thu bóng tôi;
Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ. Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa; Những sông
trôi âm thầm. Đám rong rêu xếp hàng. Những mặt đường nằm câm. Những mặt
người buồn tênh. Sóng đong đưa linh hồn. Có mưa quanh chỗ nằm. Mãi một đời
về không. Trong chập chùng thác nguồn... Xe ngựa về ngủ say... Bóng đổ một
mình tôi; Bên sông chiều mưa tới. Bên ta cụm khói rời. Nghe bên
ngày nắng mới. Em đi bằng bước chân vui. Sau lưng ngày con gái. Môi son
đừng biếng lười. Cho ta còn mãi mãi. Chút buồn phấn hương bay; Mái nhà năm
xưa tóc em còn bay; Nhớ Sài Gòn mưa rồi lại nắng. Nhớ phố xưa quen biết tên
bàn chân.
Nhớ đèn đường từng đêm thao thức. Sáng cho em vòm lá me xanh; Một
người về đỉnh cao. Một người về vực sâu, Để cuộc tình chìm mau, như bóng
chim cuối đèo; Thành phố hoang vu, Như một lần qua cuộc tình; Tình yêu như
vết cháy trên da thịt người... Tình yêu như trái phá, con tim mù lòa...
Tình yêu như trái chín trên cây rụng rời... Tình yêu như nỗi chết cơn đau
thật dài... Tình yêu như cơn bão đi qua địa cầu... Tình yêu cho anh đến bên
cơn muộn phiền... Tình yêu như đốt sáng con tim tật nguyền...Tình xa như
trời, Tình gần như khói mây, Tình trầm như bóng cây. Tình reo vui như nắng.
Tình buồn làm cơn say... Hồn mình như vá khâu. Buồn mình như lũng sâu...
Cuộc tình lên vút cao. Như chim mỏi cánh rồi. Như chim xa lìa bầy. Như chim
xa lìa trời. Như chim bỏ đường bay... Nghìn trùng như vết sương. Lạnh lùng
như dấu chim. Tình mong manh như nắng. Tình còn đầy không em?... Vội vàng
nhưng chóng quên, Rộn ràng nhưng biến nhanh. Tình cho nhau môi ấm, Một lần
là trăm năm; Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ, Sỏi đá trông em từng giờ.
Nghe buồn nhịp chân bơ vơ... Biển nhớ tên em gọi về, Chiều sương ướt đẫm
cơn mê. Trời cao níu bước sơn khê... Cồn đá rêu phong rủ buồn, Đèn phố nghe
mưa tủi hờn, Nghe ngoài trời giăng mây luôn; Nắng có hồng bằng đôi môi em.
Mưa có buồn bằng đôi mắt em. Tóc em từng sợi nhỏ. Rớt xuống đời làm sóng
lênh đênh... Gió sẽ mừng vì tóc em bay. Cho mây hờn ngủ quên trên vai. Vai
em gầy guộc nhỏ. Như cánh vạt về chốn xa xôi; Mưa vẫn mưa bay trên tầng
tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao. Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ.
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu; Áo xưa dù nhàu cũng xin bạc đầu gọi mãi
tên nhau; Hà Nội mùa thu cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau
phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu...".
Có
rất nhiều hình ảnh được tạo nên bằng sự so sánh tuyệt vời của anh. Điều này
nói lên cái "thiên phú" ở anh. Cái thiên phú trong việc nhìn ra
sự tương đồng, tương ứng giữa các sự vật. Nhờ đó mà lối diễn đạt của anh
linh hoạt và phong phú hơn người khác. Tôi rất "mê" những so sánh
này:
Anh
viết: "Ngày vui con nước trôi nhanh. Người đi như nước qua đêm".
Tôi cũng đồng cảm với anh về "con nước trôi nhanh" thì vui hơn
nước chảy chậm, còn "người đi như nước" thì vô số kể, làm sao mà
có thể đếm cho hết được.
Anh viết: "Đời sao im vắng. Như
đồng lúa gặt xong. Như rừng núi bỏ hoang. Người về soi bóng mình. Giữa
tường trắng lặng câm" thì quá đủ để nói về sự "im
vắng" của một khoảnh khắc cuộc đời nào đó trong anh. Anh so sánh
"như đồng lúa gặt xong". Sự tương phản rõ rệt giữa hai thời điểm
trước và sau gặt ở một cánh đồng lúa chín, càng làm tăng sự im vắng sau khi
gặt. Trước gặt thì có thể nói ai: người, chim, chuột... cũng quan tâm. Anh
ví "như rừng núi bỏ hoang", rừng núi thì đã hoang vắng rồi mà lại
"bỏ hoang" nữa thì hoang vắng phải được nhân lên. Anh liên tưởng
"Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm." thì sự trống
vắng, cô đơn là quá lớn rồi. Nếu để thử cảm giác, một lúc cô đơn nào đó bạn
hãy "Người về soi bóng mình. Giữa tường trắng lặng câm." như nhạc
sĩ đi thì chắc là bạn cũng cảm nhận được ít nhiều điều anh muốn nói.
Anh viết: "Những sông trôi âm
thầm. Đám rong rêu xếp hàng. Những mặt đường nằm câm. Những mặt người buồn
tênh. Sóng đong đưa linh hồn. Có mưa quanh chỗ nằm. Mãi một đời về không.
Trong chập chùng thác nguồn..." thì cần gì chúng ta phải nói
thêm.
Hay như những đoạn trong bài "Tình
sầu" anh viết thì cũng không cần ai phải diễn giải gì nhiều thêm: "Tình
xa như trời, Tình gần như khói mây, Tình trầm như bóng cây. Tình reo vui
như nắng. Tình buồn làm cơn say... Hồn mình như vá khâu. Buồn mình như lũng
sâu...
Cuộc tình lên vút cao. Như chim mỏi cánh
rồi. Như chim xa lìa bầy. Như chim xa lìa trời. Như chim bỏ đường bay...
Nghìn trùng như vết sương. Lạnh lùng như dấu
chim. Tình mong manh như nắng. Tình còn đầy không em?...
Vội vàng nhưng chóng quên, Rộn ràng nhưng
biến nhanh. Tình cho nhau môi ấm, Một lần là trăm năm.".
Anh viết: "Tóc em từng
sợi nhỏ. Rớt xuống đời làm sóng lênh đênh.". Nếu như chúng ta tập
trung suy nghĩ và hình tượng hóa tình trạng này một chút, thì chắc sẽ chia
sẻ được với Trịnh Công Sơn hình ảnh "Rớt xuống đời làm sóng lênh
đênh.".
Anh viết: "Vai em
gầy guộc nhỏ. Như cánh vạt về chốn xa xôi." thì không có nét vẽ nào có
thể nói là chính xác, đẹp và khéo hơn.
Có rất nhiều hình ảnh được tạo nên bằng tài
quan sát nắm bắt được cái "thần" của sự vật, tưởng như bình
thường mà không phải ai cũng thấy ra, trừ phi được "con mắt nhà
nghề" nhìn tới. Anh là một trong số hiếm hoi có cái nhìn "thiên
lí nhãn" ấy. Nghe nói, lần đầu anh ra Hà Nội, không hiểu anh quan sát
thế nào mà khi viết "Nhớ mùa thu Hà Nội", anh viết: "Hà
Nội mùa thu cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ, nằm kề bên nhau phố xưa nhà
cổ mái ngói thâm nâu...". Nghe câu này thì ai cũng thừa nhận
"Đúng là Hà Nội rồi!", "Hà Nội 100%, không lẫn với địa
phương nào khác được!". Tất nhiên, điều anh đã viết thì ai cũng thấy
như dễ; nhưng trước anh, bao nhiêu người đã đến Hà Nội, bao nhiêu người đã
đến nhiều lần, bao nhiêu người là người Hà Nội, bao nhiêu người đã từng sống
ở Hà Nội mấy mươi năm, tất cả có nhận ra điều ấy không?
Anh viết trong một ca khúc khác trước đây:
"Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên đường. Một đàn gà sao tiếng gáy
đánh thức bình minh.". Nghe mấy câu nhạc này ngày còn nhỏ, tâm hồn tôi
cứ lâng lâng vì những cảnh đẹp làm nao lòng người và chắc có lẽ vì vậy mà
tôi yêu nhạc anh từ ngày còn ở tuổi thiếu niên.
2.2.4. Lời từ trong nhạc Trịnh Công Sơn
không chỉ cho thấy anh là nghệ sĩ - người có tài năng sử dụng ngôn ngữ nghệ
thuật trong sáng tác. Trong nhạc anh, người nghe còn học được cái nhìn
triết lí, đầy tính triết học. Những năm tháng học tập khi còn là sinh viên
cùng những năm sống và sáng tác đã dần làm cho anh ngộ ra nhiều chân lí của
cuộc đời. Đó là kiếp sống mong manh, phù du nhưng đáng yêu, và quí biết bao
thân phận con người; đó là tình yêu và tình nhân loại ở con người; đó là
những mặt đối lập giữa nợ và tình, tôi và ai, sống và chết, riêng và chung,
hữu hạn và vô hạn, chiến tranh và hòa bình, hạnh phúc và khổ đau... Nhiều
tên tựa bài nhạc của anh cũng đủ để nói lên điều đó: "Bên đời hiu
quạnh, Biết đâu nguồn cội, Cát bụi, Có một dòng sông đã qua đời, Còn ai với
ai, Dấu chân địa đàng, Đóa hoa vô thường, Giọt lệ thiên thu, Lời buồn
thánh, Lời thiên thu gọi, Một cõi đi về, Ngẫu nhiên, Nghe những tàn phai, Ở
trọ, Phôi pha, Phúc âm buồn, Ru ta ngậm ngùi, Tôi ơi đừng tuyệt vọng, Tuổi
đá buồn, Vết lăn trầm, Xa dấu mặt trời, Xin trả nợ người...". Anh cũng
là nhạc sĩ chiếm giải "quán quân" về nhạc tình với những bài tình
ca bất hữu và bất tử: "Biển nhớ, Diễm xưa, Hạ trắng, Mưa hồng, Nắng
thủy tinh, Nguyệt ca, Như cánh vạc bay, Nhìn những mùa thu đi, Níu tay
nghìn trùng, Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng, Ru ta ngậm ngùi, Ru tình, Tạ
ơn, Thương một người, Tình nhớ, Tình sầu, Tình xa, Tôi ru em ngủ, Trong nỗi
đau tình cờ, Ướt mi...". Anh còn là chàng du ca của một thời và sẽ của
mọi thời với tập "Ca khúc da vàng" - tập ca khúc đứng về phía con
người lên án cuộc chiến tranh, mà trong đó có những bài nhạc của anh người
nghe luôn được nhắc nhở về lòng nhân ái, tính nhân bản, như: "Ca dao
mẹ, Du mục, Người con gái Việt Nam da vàng, Đại bác ru đêm, Hãy sống giùm
tôi, Hát trên những xác người, Người già - em bé, Giọt nước mắt cho quê
hương, Ngày dài trên quê hương, Nối vòng tay lớn...".
Lời nhạc của anh, ta nghe thật thấm thía,
nhưng để ngộ được hết triết lí mà anh muốn nói không phải là điều dễ. Vì,
đây không chỉ là vấn đề của ngôn ngữ tư duy, "ngôn ngữ bác học"
mà đôi khi nó còn đòi hỏi chúng ta phải có cái Tâm, cái Tư gì đó hay ta nói
"ngôn ngữ đời sống" gì đó cũng được, một chữ dùng nữa mà tôi
không biết có chính xác lắm không, đó là "ngôn ngữ Đạo và Đời".
Có thể nói anh có một khả năng sử dụng ngôn từ có chiều sâu của sự khái
quát tư duy, nhưng lại là một lối suy tư gần gũi với mọi người. Anh viết: "Tôi
vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội", "Cho trăm năm vào
chết một ngày",
"Dưới vòng nôi mọc từng nấm mộ", "Đường
hàm oan nghe tiếng ai than thầm... Đường máu xương chờ lau hết dấu vinh
quang", "Trong cuộc bể dâu ôi trăm ngày phố xá cũng trôi
theo", "Chìm dưới đất kia, một người sống thiên thu... Chìm dưới
sương thu là một đóa thơm tho", "Trong tan hoang vẫn còn bóng mát
che ngang", "Một phố hồng một phố hư không", "Ngày sau
sỏi đá cũng cần có nhau", "Có những nghìn năm xưa hóa thân em bây
giờ", "Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời tôi", "Nắng quái yêu ma
lung linh thành trì lung linh cửa nhà. Bước tới hư vô khoác áo chân như
long lanh giọt lệ long lanh giọt lệ giọt lệ thiên thu", "Trong
xuân thì thấy bóng trăm năm", "Lặng lẽ chia xa sao lòng quá vội.
Một cõi bao la ta về ngậm ngùi", "Mây che trên đầu và nắng trên
vai. Đôi chân ta đi sông còn ở lại. Con tim yêu thương vô tình chợt gọi.
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.", "Một ngày như mọi ngày
xếp vòng tay oan trái", "Người ngồi xuống xin mưa đầy trên hai
tay cơn đau dài, người nằm xuống nghe tiếng ru, cuộc đời đó có bao lâu mà
hững hờ.", "Hòn đá lăn bên đồi hòn đá rớt xuống cành mai. Rụng
cánh hoa mai gầy chim chóc hót tiếng qua đời...", "Tôi nay ở trọ
trần gian Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời", "Ôi phù du từng tuổi
xuân đã già một ngày kia đến bờ. Đời người như gió qua.", "Người
còn đó nhưng lời nói rơi về chân đồi. Người còn đó nhưng trong tim máu tuôn
ra ngoài.", "Mùa xanh lá vội, ru em miệt mài, còn lời ru mãi, còn
lời ru này, ngàn năm ru hoài, ngàn đời ru ai.", "Tôi là ai, là
ai, là ai... mà yêu quá đời này.", "Ôi tiếng buồn rơi đều, Nhìn
lại mình đời đã xanh rêu.", "Còn lại đây những bến hoang tàn vì
xác thân đã quá lênh đênh.", "Hai mươi năm vẫn là thuở nào. Nợ
lại lần này trong cõi đời nhau.", "Sau chinh chiến ôi quê hương
thần thoại thuở hồng hoang đã thấy đã xanh ngời liêu trai. Còn có ai trên
cuộc đời. Ôi nhân loại còn người và tôi thôi rồi lang thang như mây
trời...".
Ở
đây xin đơn cử một vài vấn đề triết lí được anh viết với ngôn ngữ bình dân,
không phải là ngôn ngữ của phong cách khoa học: khái quát, trừu tượng...
Trịnh
Công Sơn viết: "Tôi vui chơi giữa đời ối a biết đâu nguồn cội".
Tôi cũng đồng ý với anh: cuộc đời này dựa vào đâu để ta làm "điểm
mốc" mà biết nguồn cội?
Trịnh Công Sơn viết: "Cho trăm
năm vào chết một ngày". Anh muốn nói "Đời người là ba
vạn sáu ngàn ngày" nhưng nói như vậy thì vẫn thiếu và trừu
tượng, khó hiểu hơn.
Trịnh Công Sơn viết: "Dưới vòng nôi mọc
từng nấm mộ" thì suy nghĩ anh không ai phản bác, nhưng nhìn chi kết
cục sớm quá vậy anh?
Trịnh Công Sơn viết: "Chìm dưới
đất kia, một người sống thiên thu... Chìm dưới sương thu là một đóa thơm
tho". "Chìm dưới đất kia, một người sống thiên thu..." thì
đúng quá rồi, đúng với người có tín ngưỡng và không tín ngưỡng vì có ai
chết lần nữa đâu. Còn "Chìm dưới sương thu là một đóa thơm
tho" thì thú thật tôi thấy, lối diễn đạt cụ thể nhưng ý thì
khái quát quá, e rằng tôi không hiểu hết mà chỉ nhận ra khía cạnh nào đó
trong triết lí của anh về tính hai mặt của vạn vật, của cuộc đời.
Trịnh Công Sơn viết: "Trong
tan hoang vẫn còn bóng mát che ngang" thì quá rõ để nói về ước
vọng và cái tâm của anh cho cuộc đời đau khổ này.
Trịnh Công Sơn viết: "Ngày sau
sỏi đá cũng cần có nhau" thí quá đúng đi chứ. Vạn vật đâu chỉ
có đấu tranh sinh tồn mà nhiều hơn thế là sự nương tựa nhau cùng sống.
Trịnh Công Sơn viết: "Nắng quái
yêu ma lung linh thành trì lung linh cửa nhà. Bước tới hư vô khoác áo chân
như long lanh giọt lệ long lanh giọt lệ giọt lệ thiên thu" thì
câu chữ đẹp một cách huyền ảo, nhưng ý niệm về cuộc đời thì buồn quá. Chẳng
lẽ "đời là hư vô, đời là bể khổ" thật sao?
Trịnh Công Sơn viết: "Con tinh yêu
thương vô tình chợt gọi. Lại thấy trong ta hiện bóng con người.". Từ
"con người" của tiếng Việt thật là thú vị. Không biết người xưa
hữu ý hay vô tình mà từ này có hai thành tố: "con" và
"người". Đôi khi chúng ta sống đan xen giữa hai thân phận này và
bị giằn co giữa con và người, thì "con tim" trong khoảnh khắc vô
tình đã đánh thức giùm cho những ai đang để mất phần người.
Trịnh Công Sơn viết trong bài "Ngẫu
nhiên", nhưng anh không nghĩ đời là ngẫu nhiên mà theo anh nó có tính
qui luật: "Hòn đá lăn bên đồi hòn đá rớt xuống cành mai. Rụng cánh hoa
mai gầy chim chóc hót tiếng qua đời. Người ôm lấy muôn loài nằm trong tiếng
bi ai.". Hiểu được cái "ngẫu nhiên" này có thể là anh đã ngộ
được lẽ Trời hơn chúng ta.
Và vì thế, trong tâm trạng rất cô đơn, anh
đã viết bài "Em đi bỏ lại con đường" với những dòng đầy chất suy
tư, giàu chất triết lí: "Bỏ mặc vui buồn bỏ mặc ai. Bỏ mặc không chăn
bỏ mặc người. Bỏ tôi hoang vu và nhỏ bé. Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời
tôi.". Mọi cái "bỏ mặc" không "đếm xỉa" tới có lẽ
cũng "dễ chấp nhận", nhưng "Bỏ mặc tôi ngồi giữa đời
tôi." thì có ai lúc anh sống chia sẻ được cho anh?
3. Trong lĩnh vực âm nhạc, tôi xem anh là
Thần tượng. Trong lĩnh vực thi văn, tôi cũng nghĩ anh là thế. Tôi tin rằng,
rồi có ngày thế hệ trẻ sẽ được học nhạc và thơ anh.
Tư liệu tham khảo
1.Trịnh Công Sơn Tuyển tập những
bài ca không năm tháng, NXB. Âm nhạc, 1998.
2.Trịnh Công Sơn Một người thơ
ca Một cõi đi về, NXB. Âm nhạc, 2001.
3.Trịnh Công Sơn Có một thời như
thế, (Nguyễn Đắc Xuân) NXB. Văn học, 2003.
4.Trịnh Công Sơn Người hát rong
qua nhiều thế hệ, NXB. Trẻ, 2004.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét