TẢN MẠN ĐÔI ĐIỀU ...
“Đi
đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta
đôi vầng nhật nguyệt”
Đó là một đoạn lời ca trong ca khúc
của Trịnh Công Sơn mà tôi rất ưa thích, ưa thích là bởi vì ý tình trong
đôi câu hát đó rất thích hợp với tâm trạng của những kẻ như tôi bây giờ. Giá
như nếu có bảo ngồi xuống và muốn nửa
đời nhìn lại thì
có lẽ tôi cũng có thể làm được chuyện đó rồi đấy. Có cả một quãng đời niên
thiếu chôn chặt đầy ắp những kỷ niệm thân yêu hương vị quê nhà. Có cả một thời
thanh xuân rong ruổi xây đắp bao mộng ước trong những ngày du học nơi xứ Phù
Tang. Rồi hơn một nửa phần đời còn lại lưu lạc trên xứ sở này. Chỉ mới kể ra
ngần ấy thì đã thấy trong óc có bao nhiêu điều để nhớ, trong tim có bao nhiêu
điều để thương, có bao nhiêu hoài bão ước mơ được vun trồng chất ngất và cũng
có biết bao mất mát trong thoáng chốc nát lòng. Ấy vậy mà thỉnh thoảng vào
những hôm thời tiết Cali trở lạnh đột ngột như hôm nay, thành phố như đang co
ro trong cái không khí ướt át, sau một cơn mưa đầu mùa vừa đổ xuống lúc đêm
khuya, còn vương vãi những đám lá vàng khô phủ đầy hai bên hè phố. Chen chân
giữa hàng người qua lại, nhìn ngắm thiên hạ đã bắt đầu khoác thêm ít quần áo
lạnh, khiến người ta cũng thấy được đôi chút cảm xúc buổi giao mùa. Xa xa một
quán ăn góc đường, mùi phở Bắc thoang thoảng từ đâu đó đưa lại đột nhập qua
khứu giác. Chao ôi! bình dị thôi, nhưng đó phải chăng là giấc mơ thật giản dị
mà cũng không kém phần thần tiên của bao người Việt sống tha hương, từ những
vùng xa xôi hẻo lánh chỉ mong thỉnh thoảng có dịp ghé về thăm, để tìm lại chút
hương vị quê hương trong cái địa danh: khu
phố Little Saigon?
Quả đúng như vậy! Vào những buổi
sáng chớm thu trở lạnh như hôm nay, có chút nắng vàng vương ngoài ngõ, trên cao
bầu trời thu xanh ngắt, có một chút gió heo may héo hắt trở về, lòng chùng
nhưng thanh thản như đôi phím đàn lâu ngày bám bụi thời gian. Khoác thêm chiếc
áo lạnh lên người, ghé qua một góc phố quen thuộc, tìm vào một quán phở thân
quen, ngồi xuống và... cứ để mọi sự việc tuần tự bắt đầu: Tôi đón lấy tờ thực
đơn từ tay người hầu bàn mang đến như một thông lệ cố hữu, chỉ cần lướt qua đấy
chiếu lệ, rồi bảo: “Anh
cho tôi một tô chín nạm và nhớ nước dùng phải thật trong đấy nhé.”
Trong lúc chờ đợi, vẩn vơ nhìn qua bãi đậu xe rộng thênh thang còn vắng người
qua lại, đôi đũa và cái thìa cũng vừa được lau chùi lại sạch sẽ nằm ngay ngắn
trên bàn chờ đợi. Cùng lúc ấy người hầu bàn cũng vừa bưng ra tô phở nóng hổi,
khói đang bốc lên nghi ngút, trông hấp dẫn quá. Ôi thật là tuyệt!
Có những cái thú lắm lúc chỉ giản
dị có thế, ấy vậy mà ba mươi năm trước đây, ai đó thì không biết thế nào, chứ
riêng tôi mỗi khi có muốn nghĩ đến một tô phở đúng mùi vị quê hương, muốn
thưởng thức một bát phở đúng nghĩa với đầy đủ gia vị, thêm vài ngọn rau thơm,
ngò gai húng quế, thêm tí tương đen tương đỏ thì quả là một chuyện xa vời. Dạo
ấy thử hỏi có ai là người đào đâu ra được một bát phở đượm quốc hồn quốc túy
như thế giữa cái thành phố Tokyo, một nơi chốn phồn hoa đô hội vào bậc nhất thế
giới, suốt ngày những chuyến tàu xanh, tàu đỏ, tàu vàng bận rộn như mắc cửi,
chật ních toàn những người là người, mà lúc nào ai nấy cũng vẫn chỉnh tề
nghiêm túc.
Quán Kirakunam của bà Định
nằm trên con đường từ nhà ga Okubo đến trường Nhật Ngữ Kokusai, là tiệm ăn duy
nhất ở Tokyo, hàng ngày có bán một ít thức ăn bình dân theo kiểu Việt Nam, mà
đám thực khách chủ yếu của bà là những anh chị em du học sinh chúng tôi, họa
hoằn lắm bà mới có được một bữa bán phở, và hương vị phở của bà chỉ là chất
liệu còn rơi rớt lại, từ ký ức nơi một người đàn bà Việt lấy chồng Nhật, theo
chồng hồi hương chắc cũng đã lâu lắm rồi. Đám anh em chúng tôi thỉnh thoảng vẫn
đến quán Kirakunam, có người chắc cũng vì mến bà trong cảnh ngộ một người đồng
hương xa xứ, hoặc giả lâu ngày quá cũng muốn tìm lại chút hương vị nước mắm
quốc hồn quốc túy. Những chén nước mắm nhỏ xíu được bà pha chế rất khéo, loang
loãng hương vị mùi nước mắm thêm chút đường, tí tỏi ớt, điểm thêm ít sợi cà rốt
thái nhỏ, khiêm tốn tươi màu theo phong vị Nhật Bản rất mực khiêm cung! Trong
chúng tôi, cũng có kẻ đến thăm quán ăn của bà thường xuyên hơn, chắc chắn không
phải vì nhớ đến hương vị của những món ăn ngon, những bữa phở hay tài nấu nướng
của bà mà có lẽ vì hình bóng hai nàng con gái xinh đẹp tuổi đôi mươi, mang
trong người hai dòng máu Việt Nhật rất thùy mị đoan trang.
Chắc cũng phải mất mấy năm sau đó,
đám sinh viên chúng tôi mới có được một nơi chốn tụ họp, câu lạc bộ Phan Sào
Nam do sứ quán tổ chức được thành hình, tọa lạc gần cư xá Komaba, nơi đây lâu
lâu mới có những bữa phở định kỳ bán giá tượng trưng cho sinh viên. Bây giờ tôi
không còn nhớ câu lạc bộ ấy sinh hoạt được bao lâu và tôi ăn phở ở đấy được mấy
lần. Miếng ăn nhớ lâu, cơ cầu
nhớ dai! Câu
phương ngôn ấy không biết xuất phát từ bao giờ, ai nói ra, mà sao đúng thế.
Đúng vừa vặn văn phong từng khúc ruột, đúng da diết như nỗi nhớ cồn cào than
vãn của những cái dạ dày đã quá cưu mang những gói ramen tinh khiết những ngày cuối tháng. Cái nhớ cứ không chịu nằm
yên, cái nhớ dai dẳng lan man rồi lây qua đến cái nhớ không khí ấm cúng gia
đình. Cũng có khi cái nhớ quay quắt vùng lên như thèm một ánh mắt, một nụ cười
gợi lại cả một mối tình êm dịu mà kín đáo nơi quê hương. Nhưng rồi một hôm cái
nhớ ấy thực sự bùng lên mãnh liệt khi tôi có người bạn ở quê nhà gửi sang tặng
cuốn sách Miếng
Ngon Hà Nội của
Vũ Bằng. Ôi thôi, dù đã biết biệt ly nhớ nhung từ đây, mà giờ như lại được tăng
thêm cường độ qua từng trang sách, từng dòng chữ của Vũ Bằng. Cái tri âm vô
hình, vô ảnh làm mắt tôi như dính chặt vào từng trang sách, từng dòng chữ, từng
món ăn khi nghe ông kể, dù chỉ là những món ăn rất xoàng xĩnh giản dị, mới
thoáng nghe thì chỉ tưởng là những món quà thôn dã, nhưng qua mảnh đất ngàn năm
văn vật ấy, hình như đã được nâng cấp lên hàng nghệ thuật, được gói ghém bằng
cả tấm lòng thương nhớ quê hương. Nỗi nhớ nhung người vợ hiền, với đôi bàn tay
khéo léo, đã cho ông được thưởng thức những miếng ngon đất Bắc, đồng thời cũng
chính người đàn bà tuyệt vời, đảm đang nội trợ ấy, đã cho ông nguồn cảm hứng để
viết lên cuốn sách này. Một kẻ xuôi Nam, nhớ về những buổi tối mùa thu se lạnh,
đìu hiu trên đất Bắc, nhớ da diết người vợ hiền còn ở lại đất Thăng Long...
Tất cả những tâm sự khắc khoải ấy của Vũ Bằng đã được lọc lõi, giàn trải trên
giấy bút và trở thành lời hay ý đẹp trong văn học, như người nhạc sĩ trong một
đêm về sáng, vào giây phút xuất thần đã dồn hết cảm xúc, thiết tha viết lên
được ca khúc để đời... Thử hỏi như thế làm sao không động lòng trắc ẩn những kẻ
xa nhà như chúng tôi.
Dạo đó tôi mê Món Ngon Hà Nội của Vũ Bằng, mê phở, món quà hàm thụ của
ông. Phải nghe ông tả về phở, món quà căn bản của Hà Thành mới thấy được cái
ngon lạ lùng đến thế nào: “...Thật
thế, phở đối với một hạng người không còn là một món ăn nữa, mà là một thứ
nghiện, như nghiện thuốc lào, thuốc lá, trà tươi, thuốc phiện, ...từ ở
đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí quyến rũ ta như mây khói chùa
Hương đẩy bước chân ta, thúc bách ta phải trèo lên đỉnh núi để vào chùa trong
rồi lại ra chùa ngoài... Một bó hành hoa xanh như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào
một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm, chín có, tái có, sụn có, mỡ gầu có,
vè cũng có...” Hãy để ông vẽ thêm những nét tinh tế đáng
yêu trong trí tưởng tượng của người đọc thì mới thấy bức tranh phở của ông lâm
ly và tuyệt kỹ đến thế nào: “...
Cứ nhìn bát phở không thôi, cũng thú. Một nhúm bánh phở; một ít hành hoa thái
nhỏ, điểm mấy ngọn rau thơm biêng biếc; mấy nhát gừng màu vàng tươi thái mướt
như tơ; mấy miếng ớt mỏng vừa đỏ màu hoa hiên vừa đỏ sẫm như hoa lựu... ba bốn
thứ màu sắc đó cho ta cái cảm giác được ngắm một bức tranh lập thể của một họa
sĩ trong phái văn nghệ tiền tiến dùng màu sắc hơi lố lỉnh, hơi bạo quá, nhưng
mà đẹp mắt.” Nhưng
trên hết mọi điều, bên cạnh cái khoan khoái khi thưởng thức một bát phở ngon
đắc ý như thế ông vẫn không quên nhắn nhủ: “Quả
vậy, ăn một bát phở như thế, phải nói rằng có thể “lâm ly” hơn là nghe thấy một
câu nói hữu tình của người yêu, ăn một bát phở như thế, thú có thể ví như sau
một thời gian xa cách, được ngã vào trong tay một người vợ đẹp mà đa tình vậy.”
Không phải chỉ Vũ Bằng mới có những
áng văn ẩm thực hay như vậy, thời còn trung học khi mà những tác phẩm của các
nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn còn là sách gối đầu giường, nhà văn Thạch Lam
cũng đã tả về phở trong “Hà Nội 36 Phố Phường”, ông viết:“Phở là một thứ quà
thật đặc biệt Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ
ở Hà Nội mới ngon”, nhưng phải thành thật mà nói gánh phở của Thạch Lam
bình dị quá, không thể nào so sánh được với gánh phở của Vũ Bằng đượm tình hơn,
phở Thạch Lam không để lại cái cảm giác lưu luyến trong lòng thực khách hay cái
khao khát nhớ nhung vào những hôm trở trời, se se lạnh, để thấy bâng khuâng
trong lòng một nỗi nhớ xa xăm.
Dạo mới đặt chân đến Mỹ, gia đình
tôi cũng như hàng vạn gia đình Việt Nam khác, được định cư tản mát đến tận
những nơi vô cùng xa xôi hẻo lánh. Trong những thành phố nhỏ, chỉ có chừng một
dúm người Việt, xa hẳn những nơi tập trung buôn bán thực phẩm của người Á Đông.
Ấy vậy mà chỉ một thời gian ngắn sau đó, hầu như nhà nào cũng biết nấu phở, mọi
người hỏi nhau, mách cho nhau những công thức chế biến phở, rủ nhau đến những
khu chợ Tàu, xa hàng mấy tiếng đồng hồ lái xe để khuân về nào là những thùng gia
vị, thực phẩm khô, nào là từng nhúm bánh phở khô con con, khi ấy còn được buộc
đơn sơ bằng những sợi cao su mộc mạc.
Tôi còn nhớ có những quán phở tị
nạn tại gia, chỉ mở vào buổi sáng chủ nhật cuối tuần rất được chiếu cố. Đó là
nơi chốn hẹn hò tại nhà một gia đình nào đó, mà chủ nhân là người có chút biệt
tài nấu nướng, chỉ cần thêm vài cái bàn, dăm ba cái ghế và số thực khách vỏn
vẹn là những người Việt Nam cùng quen biết trong tỉnh. Thật khó mà nhớ hết
hương vị khác nhau của những bát phở tị nạn ngày xa xôi đó. Cái lúc mà lòng
người còn đơn giản chân tình, vị giác vẫn còn dễ dãi, thì sự đòi hỏi cầu kỳ,
khó tính đã không có cơ hội để nhen nhúm. Chỉ cần nhìn thấy bát phở nóng đang
bốc khói nghi ngút là đã đủ để ấm lòng. Trong cái cô đơn lạnh lẽo, những ngày
đông tuyết phủ trên xứ lạ quê người, thì dù bát phở kia có thiếu đi vài ngọn
ngò gai hay húng quế, nước dùng kia có hơi quá tay mùi hồi, hay non tay mùi quế
thì có xá chi? Tình người Việt Nam lãng đãng nhẹ bay như hương vị phở, xa quê
hương nhưng thơm ngát hơn bao giờ.
Bây giờ ngồi trong quán phở, thực
khách đủ hạng người, lác đác có cả những khuôn mặt bản xứ cũng đang hứng thú
làm quen với nét ngon và lạ của văn hóa ẩm thực xứ mình. Tôi nhìn đĩa rau thơm
đầy ắp, không thiếu một mùi vị nào từ những cọng giá sống trắng muốt, mập mạp
dòn tan, vài miếng chanh mọng nước đến những ngọn húng quế, dăm lá ngò gai tươi
mát như mới được hái từ nông trại đưa về, chỉ mộc mạc có thế nhưng có ai biết
đâu cuộc hành trình này cũng lắm gian nan, cũng phải mất bao công khó, bao thời
gian để hôm nay mới có được một nơi chốn mang danh hiệu Little Saigon. Dạo đó
con đường Bolsa còn vắng vẻ, đây đó vài quán ăn mọc lên thưa thớt. Tôi còn nhớ
rõ một trong những quán phở đầu tiên mang tên Hội Quán Việt Nam, nơi tụ họp
thường xuyên của lớp người Việt tị nạn tiên phong. Rồi dần dà biết bao tiệm ăn,
quán phở mọc lên mà chính tôi bây giờ cũng không sao nhớ hết. Ba mươi năm những
sinh hoạt tưởng như đã gần hội nhập vào dòng chính mà hầu như những tiệm phở,
tất cả vẫn là những quán ăn bài trí rất giản dị, hao hao giống nhau từ nội dung
đến hình thức. Hình như phở thích hợp với những khung cảnh như thế, phở quen
xuềnh xoàng, phở bình dân, phở là bạn của mọi người, mọi giới. Phở không câu nệ
hình thức, chẳng thế mà ở những cao lâu tửu quán sang trọng, phở không mấy khi
có mặt. Bởi cũng lẽ dễ hiểu, phở vốn là món quà căn bản dân dã như lối nói của
Vũ Bằng: “...
người đi ăn phở - nói cho thật đúng chữ ăn phở - không kỳ quản lắm đến sự bài
trí cuả chỗ ăn, cũng như người ăn thuốc phiện, nghiện tiệm, không cứ là phải
nằm hút ở một chỗ sang trọng có dọc đẹp, đèn pha lê và tiêm móc làm bằng bạc.
Nếu ta đã thấy có những người giàu có, nghiện thuốc phiện, chui vào những cầu
gác bẩn thỉu, hôi hám để ăn thuốc mới thấy ''đã thèm'', thì ta lại cũng thấy
bao nhiêu người sang trọng lần mò tới chỗ rất tồi tàn, để ăn cho được một hai
bát phở”.
Đâu cứ phải vào tiệm phở mới tìm được một bát
phở ngon, bởi ngày trước bản chất ngon của phở thường chỉ là từ những hàng phở
gánh, phở xe mà tên gọi thường được gán cho bởi thực khách. Có khi gọi bằng tên
của con phố nơi người hàng phở đứng bán như phở Hàng Than, phở Cống Vọng, phở
Nhà Thương Phủ Doãn... Có khi gọi theo cách phục sức nữa, như cái mũ tàu bay trên đầu một anh bán phở thời Tây trước kia, đã
trở thành một thương hiệu trứ danh Phở
Tàu Bay sau
này. Thậm chí có khi chỉ là một cái tật nguyền không may của các bác bán phở
cũng được người ăn thông cảm, thân mật gọi thành tên như phở Gù, phở Sứt... Nhà
văn Nguyễn Tuân trong một bài viết về phở có những nhận xét rất tinh tế như
sau: “Cái tên càng độc, âm
ngắn cộc, càng đáng cho người mua tin cậy, cái tên một chữ như một nhát dao
thái xuống miếng thịt chín”. Không ai hơn được ông trong cung cách thưởng
thức nghệ thuật ăn uống: “Thật
ra ăn phở cho đúng, đúng cái ''gu'' của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm
hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của
phở... Theo tôi nghĩ cái nguyên tắc cơ bản của phở là làm bằng thịt bò...
Trong năm đói 1945, ở đáy nồi nước phở của thời đại, ở Hải Phòng và Hà Nội đã
có những thùng phở có cả những bàn tay trẻ con, nhưng đó lại là chuyện khác .”
Cũng một lần khác ghé vào một quán
phở trong khu Little
Saigon, tình cờ tôi phát hiện trong tờ thực đơn ngoại trừ tên những món
phở cố hữu, lại còn có thêm món phở
không người lái. Hỏi ra mới biết rõ căn nguyên và khéo khen
người chủ nhân gốc Hà Nội kia đã có óc hài ước mang tính thời sự đương thời,
khi gọi lại tên một món phở
không thịtchỉ để nhằm giới thiệu với những thực khách ngần
ngại ăn thịt vì có ý tưởng muốn giảm lượng cholesterol và chất béo trong cơ thể
mà thôi, nhưng thử hỏi có mấy ai biết và hiểu rõ lai lịch của cái tên gọi khá
là buồn cười ấy nhỉ? Phải giở lại những trang viết về phở của Tô Hoài từ
cái thời xa xưa, cái thời mà Hà Nội chìm đắm trong bom đạn chiến tranh và trong
sự khốn khó tột cùng ấy, người dân ở đây chỉ mong sao no được bụng đã là một sự
may mắn chứ còn nói đến thịt bò thì quả là một sự khan hiếm cực kì cho nên mới
nảy sinh ra nhiều loại phở chỉ có bánh với lõng bõng nước dùng nhạt
phèo... Nhưng cái sự ví von trào lộng của người Hà Nội thì khôn
cùng, chả là thời bấy giờ không lực Hoa Kỳ thường xử dụng một loại máy bay
trinh sát không cần phi công điều khiển. Người dân đất Hà Thành đã nhanh chóng
suy luận, diễn giải rằng phở mà không có thịt thì có khác chi những chiếc phi
cơ trinh sát kia không có người lái. Một khi đã vui được, cười được thì
cái sự ăn uống cho dù đạm bạc đến mấy cũng cố nuốt trôi như nước chảy theo dòng
ấy, chả thế mà có: “...
Những bác xích lô bưng ra hè một lúc ba bát phở không người lái. Cả ba bát phở
bánh cao có ngọn bày ràn rạn: chỉ một thoáng đã lần lượt ăn hết...”.
Và gần đây nhất, nhà văn Băng Sơn trong một bài viết về những nét đan thanh Hà
Nội, cũng nhắc đến hương vị của đất Hà Thành: “Hà Nội vẫn rất Hà Nội khi hương vị thơm ngon kỳ
thú của món quà không sánh đâu kịp: Phở. Có lai tạp đấy, có thời thượng đấy, có
xô bồ đấy, nhưng tinh hoa thì bao giờ cũng vẫn là tinh hoa. Người Hà Nội vẫn
tìm ra những bát phở theo sở thích riêng mình, đó là bát phở chín, dù là chín
nạm hay chín gầu, chín sụn, chín nhừ ... mặc ai ăn phở trứng tanh lòm, phở giò
cho béo bổ, hoặc ngay một món quà dân dã, rẻ đến bất ngờ là bún riêu cua, vẫn
còn nguyên hương vị của món riêu cua đồng ngọt mà thanh, sợi bún mềm mà mát,
trắng tinh như mây trời đậu xuống, bất chấp ai phàm ăn cho đầy bát những giá
đỗ, những đậu rán thái quân cờ, những thỏi giò bằng nửa cổ tay, thậm chí giầm
vào đấy quả trứng vịt lộn, để lấy lại sức đã đánh mất đêm hôm trước.”
Phở là món quà nơi nào cũng có,
nước non ngàn dặm ra đi, Phở cũng biết xuôi Nam. Ba mươi năm nhìn lại, thấy Phở
cũng đã vượt đại dương đi Tây, đi Mỹ. Phở dễ chế biến, dễ ăn, ăn lúc nào cũng
được. Nhưng có lẽ phở Hà Nội vẫn có cái duyên riêng, chẳng thế mà nhiều địa
phương làm món phở cứ phải trương cái biển lên là Phở Bắc, Phở Hà Nội, Phở
Thăng Long, Phở Hồ Tây ... mới đông khách, cũng như phải đúng Bún bò Huế, Hủ
tíu Mỹ Tho, Mì quảng Quảng Đà ... mới làm vừa lòng thực khách.
Giữa cuộc hội nhập lắm đổi thay
này, cái gọi là văn hóa hải ngoại cũng gặp nhiều thay đổi. Nhìn lại xứ sở Hoa
Kỳ này chỉ mới hơn 200 năm lập quốc, mà hầu như mọi khác biệt lớn lao về văn
hóa đã thu về một mối. Những thế hệ cha ông nào mà chẳng ra công, cố sức bảo
tồn lấy cái hồn văn hoá tinh thần thiêng liêng của mình? Những mặt trận văn
hóa, những tạp chí Văn học, Nghệ thuật, Văn chương, trò chơi chữ nghĩa cũng đã
thưa thớt người tham dự. Thực chất của vấn đề là thế hệ cầm bút lão thành đã
dần dần ra đi, bỏ lại cuộc chơi. Không chỉ riêng một hiện tượng lão hóa của các
nhà văn, nhà làm văn hóa ở hải ngoại khiến chúng ta bận tâm, mà ngay cả đến
thành phần độc giả trẻ tuổi, đấy là chưa kể các thế hệ thứ hai, thứ ba mà khả
năng am tường tiếng Việt càng ngày càng trở nên kém cỏi. Sân chơi thực sự đã có
những khoảng trống vắng to lớn khó bù đắp, vì đâu đâu cũng gặp bao chướng ngại
về khả năng truyền đạt ngôn ngữ mẹ đẻ, còn tình tự dân tộc thì như một sợi dây
xích sắt đã có những dấu hiệu từng mắt xích bị mở bung. Chút văn hóa ẩm thực
còn xót lại không ngờ vẫn còn đó, tuy âm thầm nhưng vẫn lớn mạnh và như có một
sức hấp dẫn kỳ diệu, như một thứ tình yêu tuy đến muộn màng nhưng khắng khít
với những người đàn ông luống tuổi, trong một thứ tình cảm trái mùa, nên đôi
khi ngại ngùng ít nói. Tình cảm ấy không qua bằng con đường ngoằn ngoèo tim óc
mà lại trực chỉ bằng một ngõ tắt dạ dày.
Tôi có thằng cháu trai. Cháu sinh
ra và lớn lên ở xứ Mỹ này. Một buổi chiều, cu cậu đi học xa cuối tháng bất chợt
về thăm nhà. Không sẵn sàng mà đôi khi tôi cũng thấy lười biếng khi nghĩ tới
lúc phải săn tay vào bếp sửa soạn bữa cơm tối. Tôi hỏi vui:
“Tối
nay không sẵn cơm nhà, thế con muốn hai bố con mình sẽ đi ăn gì nào?”
“Con nghĩ mình ăn
phở đi bố, lâu con cũng bắt đầu thấy thèm phở rồi.”
Nhìn thằng con trai đang tuổi
trưởng thành trên xứ người cũng đã biết nhớ phở, trong lòng tôi một cảm xúc khó
tả đang nhè nhẹ dâng tràn.
PHÙNG QUÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét