Thơ Mới nhìn từ sự vận động thể loại
|
||
- Thơ mới còn sử dụng nhiều thi liệu cũ, nhiều
từ Hán - Việt.
- Việc sử dụng này cho thấy ngoài cảm xúc mới,
cái tôi cá nhân thi sĩ Thơ mới vẫn luôn hoài vãng về nguồn mạch thơ ca truyền
thống.
- Các lớp từ trên các nhà Thơ mới sử dụng với
tính hàm súc và tính biểu trưng cao. Như vậy, sau quá trình tìm tòi, thử nghiệm,
có sự phá phách tan tành buổi đầu của văn xuôi, ngôn ngữ Thơ mới đã đạt đến
độ điêu luyện, tinh xảo ở các bình diện từ, ngữ và cú pháp. Để nâng cao sự
hàm súc, điêu luyện, tinh xảo, Thơ mới lại “nương tựa” vào lớp từ cũ, dụng
công khai thác nó một cách hữu ích.
- Qua việc sử dụng các lớp từ trên, các nhà
Thơ mới đã gián tiếp “buộc” lớp công chúng mới khi tiếp nhận Thơ mới, ở một
góc độ nào đó, phải trở về tìm hiểu thơ cũ, văn hóa truyền thống. Bởi vì, nếu
không hiểu căn nguyên những “Nhị hồ”, “Mạnh lệ quân”, “A Phòng”, những “Thôi
Oanh Oanh - Trương Quân Thụy”, “Ngưu Lang - Chức Nữ”... thì làm sao hiểu hết
được dụng ý, trường thông tin và giá trị biểu cảm mà các thi sĩ Thơ mới đang
nói tới.
Đi
sâu tìm hiểu việc sử dụng lớp từ cũ ở một số bài thơ, nhà thơ, chúng ta càng
thấy rõ hơn tần số xuất hiện khá cao của chúng. Buổi đầu, để khẳng định cái
mới, đề cao Thơ mới, người ta cho rằng Thơ mới đã đoạn tuyệt với
thơ cổ. Thực ra, trong quá trình vận động, Thơ mới luôn tiếp nối văn mạch của
thơ cổ, tiếp thu tinh hoa thơ cổ. Chịu ảnh hưởng thi ca Pháp nhưng Thơ mới có
liên hệ sâu sắc với Đường thi. Cái ánh trăng lặng lẽ trong vườn hoa của Thái
Can là hơi hướng ánh trăng của Dương Bật trong Ký nhân.
Gặp
em thơ thẩn bên vườn hạnh,
Hỏi
mãi mà em chẳng trả lời.
Từ
đó bắc nam người một ngả:
Bên
vườn hoa hạnh bóng giăng soi
Ngôn ngữ thơ của Huy Cận có sự kết hợp nhuần
nhuyển, hài hòa những yếu tố truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương
Tây, lối ví von so sánh của ca dao tục ngữ, ngôn ngữ tượng trưng của Đường
thi và chủ nghĩa tượng trưng của thi ca Pháp: “Một buổi trưa không biết ở
thời nào/ Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao/ Có cu gáy, có bướm vàng nữa
chứ/ Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự... (Đi giữa đường thơm). Ngôn ngữ khắc
họa không gian trong thơ Huy Cận có những vùng chạm đến không gian thiêng cổ
kính: “Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa/ Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sầu
mưa/ Cùng đất nước và nặng buồn sông núi” (Mai sau), “ Lòng quê dờn dợn vời
con nước/ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” (Tràng giang).
Tràng Giang của Huy Cân có nét tinh tế
học được trong thơ Pháp nhưng cảnh tình lại là màu sắc xưa của Á Đông. Phảng
phất nhạc điệu và tứ thơ Đăng Cao của Đỗ Phủ trong hai câu thơ:
Sóng
gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con
thuyền xuôi mái nước song song
(Tràng
Giang - Huy Cận)
Phảng phất âm điệu, nỗi lòng Thôi Hiệu trong
Hoàng Hạc Lâu qua bốn câu thơ khổ cuối:
Lớp
lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim
nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng
quê dợn dợn vời con nước,
Không
khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
(Tràng
Giang - Huy Cận)
Giọng thơ Nguyễn Bính mang âm hưởng ca dao,
dân ca, mang vẻ đẹp hoài cổ. Người phụ nữ lỡ làng trong Lỡ bước sang ngang có
giọng điệu chung với thân phận nàng Kiều Nguyễn Du:
-
Em ơi, em ở lại nhà
Vườn
dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ
già một nắng hai sương.
Chị
đi một bước trăm đường xót xa.
(Nguyễn
Bính - Lỡ bước sang ngang)
Xuân
Diệu, nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới cũng là người sử dụng tài hoa
nhất các từ Hán - Việt, điển tích, điển cố. Ngay trong không khí lặng lẽ kín
đáo, trang nghiêm của Đường thi đã có cái băn khoăn, rạo rực khó nói của cái
tôi cá nhân vùa được đánh thức của thời đại
Trong
Nhị hồ - bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu giai đoạn 1936 - 1940, có 12 lần tác
giả nhắc đến các điển tích: Lạc Âm thiều, Mạnh Lệ Quân, A phòng, Cô Tô, Lộng
Ngọc, Tiêu Lang, Trần Hậu Chúa, Hậu Đình Hoa, Bao Tự, Ly Cơ, Đường Minh
Hoàng, Dương Quý Phi. Song, những mối tình xa xưa ấy lại mang ý vị tha thiết,
réo rắt của tiếng "Nhị hồ" cuộc đời, số phận, cảm xúc con người trữ
tình thời Thơ mới.
Đến
giai đoạn cuối, trong Chợ chiều của Vũ Hoàng Chương vẫn có nhiều chữ cổ: gió
sương, cô phòng, tịch liêu, tơ vương, áo thâm, chăn gấm, muôn vàn đuốc hoa...
thể hiện cái buồn man mác, ẩn chứa nhiều tâm sự.
Chợ
tàn ngàn nẻo cô phòng
Sầu
dây bàng bạc cánh đồng tịch liêu
...
Hôm nay cánh rụng lầu ngà
Một
mùa li biệt đã già nhớ thương
(Chợ
chiều - Vũ Hoàng Chương)
Nhiều
nhan đề bài thơ của Vũ Hoàng Chương gợi điển tích cổ, không khí cổ: Tiểu đăng
khoa, Hơi tàn Đông Á, Nửa truyện Hồ Ly, Tình Liêu trai, Đào nguyên lạc lối,
Nhắn về thiên cổ,...
Để
làm nên một thời đại trong thi ca, Thơ mới đã thực hiện một quá trình tích
hợp nghệ thuật độc đáo. Nó là sự kết nối, chuyển hóa nhuần nhụy hai nền văn
minh, hai nền thi ca cách xa nhau vời vợi là Pháp và Trung Hoa, trên cơ sở
nền tảng thi ca và văn hóa Việt Nam. Trong buổi giao thời nhốn nháo, pha tạp,
cái tôi trữ tình Thơ mới đã vừa nhanh chóng tiếp thu cái mới, vừa tỉnh táo
quay về quá khứ, về với truyền thống như một biện pháp thanh lọc tâm hồn
mình. Ở đó, họ thấy tự tin hơn hiện tại bởi sự hiện hữu của mình trong cái
bóng của ngày xưa. Sự khảo sát trên đã cho thấy sự trở về với ngôn ngữ thơ cổ
điển là thứ ánh sáng thi ca kì diệu soi rọi vào thế giới đầy mộng ảo, xa vời
của những ngày xưa thân ái để làm nên một thứ mĩ cảm đặc biệt thời nay (thời
Thơ mới), hay nói đúng hơn là mĩ học Thơ mới. Nó tạo thành thi pháp hiện đại,
tân kì nhưng cũng rất truyền thống, làm nên thành tựu lớn, góp phần mang lại
sức sống mạnh mẽ cho thi ca Việt Nam trong mạch chảy liên tục từ xa xưa cho
đến ngày nay. Sự trở về ngôn ngữ thơ cổ chứng tỏ sức sống mạnh mẽ của Tiếng
Việt và bề dày trầm tích văn hóa truyền thống. Vừa học tập phương Tây, vừa
tiếp thu thơ Đường, vừa sử dụng tinh hoa văn học dân tộc, các nhà Thơ mới đã
làm được bước tổng hợp quan trọng giữa văn hóa Đông Tây và truyền
thống, đưa thơ ca Việt Nam đổi mới trên con đường hiện đại hóa.
3.
KHUYNH HƯỚNG LẠ HÓA NGÔN NGỮ THƠ
3.1.
Những bước đi mới
Những
năm cuối của giai đoạn 1936 - 1940, qua giai đoạn 1941 - 1945, cái
tôi trữ tình Thơ mới chuyển sang thế phân cực. Sự phân cực này đã dẫn đến
việc ra đời có thể tạm gọi là các trường phái, các khuynh hướng thơ. Về các
trường phái, có thể nhắc đến Trường thơ Loạn (vốn có ở giai đoạn trước
trước), nhóm Xuân thu nhã tập, nhóm Bạch Nga, Dạ Đài... Về khuynh hướng, dẫu
chưa thật rõ nét nhưng có thể kể đến: Lãng mạn, Tượng trưng, Siêu thực... Đây
là một giai đoạn quan trọng trong tiến trình văn học nói chung và sự vận động
ngôn ngữ Thơ mới nói riêng. Một ý thức mới về ngôn ngữ thi ca đã nảy mầm bắt
rễ và lớn lên.
Thơ
mới đã khai thác gần như cạn kiệt tầng vỉa ngôn từ khuynh hướng lãng mạn.
Không dừng lại ở Lamartine, Victor Hugo... các nhà Thơ mới ý thức sâu sắc cá
tính sáng tạo của ''ngón nghề '' thi sĩ và sự thức nhận ngôn từ, họ biết đến
Baudelaire, Valéry, Breton... Thơ không còn là giai điệu thuần khiết của một
khúc ca mà là những nghịch âm, đảo phách của "một cách tổ chức ngôn ngữ
hết sức quái đản" ( Phan Ngọc) để thâm nhập vào địa hạt vô thức và cái
tôi siêu hình. Nhiều nhà nghiên cứu từ lâu đã coi đó cũng là sự phát triển
bình thường. Trước đây, đã có nhiều ý kiến cho rằng giai đoạn này là giai
đoạn suy tàn của Thơ mới. Người ta kết luận vậy vì có nhiều bài thơ đi chệch
chuẩn ngôn ngữ bình thường, gây khó hiểu với công chúng. Có lẽ cũng cần chấp
nhận sự thực của đời sống ngôn từ nghệ thuật, bên cạnh loại thơ đọc xong hiểu
liền của một công chúng rộng cần có loại thơ “khó hiểu” của một bộ phận bạn
đọc hẹp. Cũng giống như hội họa vậy! Chỉ có những người am hiểu mới cảm nhận
được một bức tranh siêu thực, ấn tượng. Và cũng chỉ có những bức tranh đó mới
thỏa mãn nhu cầu thị hiếu thẩm mĩ của họ. Chúng ta đặt câu hỏi: Giả sử Thơ
mới chỉ dừng lại ở 1940? Hoài Thanh đã rất có lý khi giải thích hiện tượng
ngôi sao Thế Lữ sớm bị lu mờ: "Lúc bấy giờ (khoảng 1936 - HNH) Thế Lữ
mới tìm đến Baudelaire nhưng nguồn thơ Thế Lữ đã cạn không theo kịp thời
đại" [64,264]. Con đường của ngôn ngữ thơ, về một mặt nào đó là hành
trình tìm kiếm, đuổi bắt cái mong manh, hư ảo, huyền hồ. Bởi vậy, giai đoạn
này Thơ mới đã có thêm nhiều lớp từ vựng mới. Có thể gọi như Xuân Diệu, đó là
ngôn ngữ của thế giới huyền diệu:
Hãy
tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn
vào thế giới của Du dương
Ngừng
hơi thở lại, xem trong ấy
Hiển
hiện hoa và phảng phất hương
Thế
giới Huyền diệu là sản phẩm điển hình của tư duy tượng trưng, là
thế giới của thăng hoa. Thế giới đó được các nhà Thơ mới đặc biệt thêu dệt
trong những bài thơ viết về nhạc, bằng chất nhạc của ngôn ngữ. Tư duy hiện
đại đã giúp ngôn ngữ thơ Bích Khê tạo ra trong Nhạc một thế giới biến ảo, gần
với ảo giác và hoang tưởng.
Ngôn
ngữ trong thơ Hàn Mặc Tử(*), Chế Lan Viên(**), Đinh Hùng, Bích Khê... nhóm
Xuân thu nhã tập có sự chuyển đổi từ chỗ ngôn ngữ là một dấu hiệu biểu nghĩa
đã trở thành cứu cánh của nhà thơ, có giá trị tự thân. Cái tôi thi
sĩ từ chỗ chỉ dẫn người khác hướng về một cái đẹp mới đã trở thành bản thân
của cái đẹp, là đối tượng để ngợi ca, chiêm ngưỡng. Đỗ Lai Thúy xem Đinh Hùng
là "người kiến trúc chiêm bao", Bích Khê là "sự thức nhận ngôn
từ",
(*)
(**). Sáng tác của Hàn Mặc Tử và phần lớn của Chế Lan Viên ở vào cuối giai
đoạn giữa, song biểu hiện sự lạ hóa trong ngôn ngữ thơ khá rõ nên chúng tôi
khảo sát thêm ở phần này. (Như đã trình bày, việc chia giai đoạn chỉ là tương
đối)
Hàn
Mặc Tử là "một tư duy thơ độc đáo", Xuân Thu nhã tập là "khúc
hát Thiên nga"... [155].
3.2.
Ngôn ngữ tượng trưng, siêu thực - hướng vận động cuối cùng của Thơ mới
Trong ngôn
ngữ thơ cổ, tính nhạc được tạo ra bằng những âm thanh thấp.
Vì thế âm thanh và ý nghĩa bị tách rời. Thơ mới giai đoạn cuối, ảnh hưởng tư
tưởng nghệ thuật của Baudelaire ở quan niệm "tương ứng giữa các giác
quan" nên các nhà thơ đặc biệt chú ý đến sự dao động giữa âm và nghĩa.
Âm thanh được chú ý hàng đầu như câu thơ nổi tiếng của Baudelaire:
"Những mùi hương, những màu sắc và những âm thanh
tương ứng với nhau" (Les
parfums, les couleurs et les sons se répondent). Nhạc điệu được
khai thác nhằm mục đích tạo "không khí" và sự "ám gợi"
tâm trạng nên thơ của Bích Khê riết róng "cung âm điệu" của ngôn
ngữ "đàn thơ":
...
Đàn thơ cơ hồ lên cung âm điệu,
Đây
giây trinh bạch khóc mướt trong mơ;
Đây
hồn ngọc thạch xanh sao như tờ?
Ô
côi lầu mây ánh gì kim cương
(Nhạc
- Bích Khê)
Hàn Mặc Tử đã triệt để
vận dụng tương ứng các giác quan khi cảm nhận và thể hiện thế giới với những
cảm xúc, cảm hứng dâng lên tột độ:
- Ta muốn hồn ta trào ra
đầu ngọn bút
Mỗi
lời thơ đều dính não cân ta
Bao
nét chữ quay cuồng như máu vọt
Cho
mê man chết điếng cả làn d
(Rướm
máu - Hàn Mặc Tử)
Xúc
cảm bùng lên, say mê tuôn trào. Sự tương ứng các giác quan đã có từ Xuân Diệu
với những tổ hợp từ lạ: "Long lanh tiếng sỏi", "Một tiếng cười
hương", "Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi !", "Trăng
thương trăng nhớ hỡi trăng ngần"... Sang đến Bích Khê và Hàn Mặc Tử thì
độ "chín" của nó đã tạo tích đủ lượng tương ứng đê mê.
Lời
thơ ngậm cười không rên rỉ
Mà
máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng
vang da diết dội muôn nơi
Giai
đoạn trước, Thơ mới ít có thế giới của Chúa, của Phật, của hồn ma bóng qủy.
Giai đoạn này, những hư ảo, huyền thoại... đậm đặc trong thế giới lớp từ mang
màu sắc tôn giáo của Hàn Mặc Tử; hồn của Bích Khê, Hàn Mặc Tử; ma của Chế Lan
Viên... Việc đổi mới này đã làm tăng vốn từ vựng, mở rộng biên giới từ, thơ
diễn tả được nhiều ý tứ mới. Chẳng hạn, muốn thể hiện những ước mơ khi hồn
thơ bay trong thế giới tâm linh, Hàn Mặc Tử đã kết hợp thần kỳ lớp từ mang
phép nhiệm màu bay bổng:
Dâng
hết cả! Thanh âm dường tú khí
Hồn
ta đây bất diệt với hà sa
Trí
ta sẽ cuồng lên trong khoái trá
Cho
đớp mắt, cho mê tình bản ngã
Hoan
hô cao trường thọ đến vô biên
(Trường
thọ - Hàn Mặc Tử)
Trong thế giới lòng người đã trút sạch bụi
trần là huyền thoại của việc sống trường thọ, muôn xuân đầm ấm mà tác giả
hằng khao khát:
Lạy
chín phẩm thiên thần xin chứng giám
Ta
sống mãi với muôn xuân đầm ấm
Trong
mây kinh và trong gió nguyện cầu
(Trường
thọ - Hàn Mặc Tử)
Thơ mới cũng đã có nhánh rẽ về hướng siêu thực
với các tác phẩm của Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Hàn Mặc Tử, Bích Khê...
Trường phái siêu thực đi tìm cái cảm giác ngoài thực tại đời sống con người.
Họ phủ nhận cái đích thực của hiện hữu, bước ra ngoài thực tế với tâm hồn vô
tư, không bị ám ảnh bởi các hình ảnh vật chất trước mắt. Ngôn ngữ thơ siêu
thực là ngôn ngữ ấn tượng. Ấn tượng được tạo ra trong cảm giác, nô lệ của cảm
giác, không thể lấy lí trí để suy đoán được (chẳng hạn ánh trăng lọt qua
khung cửa họ có thể nói là mĩ nữ đang đến tình tự, một cành cây họ có thể bảo
là một cánh tay của nàng tiên...).
Người
trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò
má riêng tôi lại đỏ hườm
Trong Bản tuyên ngôn đầu tiên của chủ nghĩa
siêu thực, năm 1924, André Breton viết: “Sự tự động tâm thần thuần khiết qua
đó người ta dự định diễn đạt hoặc bằng ngôn ngữ, hoặc bằng tác phẩm, hoặc
bằng bất kỳ một cách nào khác, sự vận hành thực sự của tư duy”. Như vậy, chủ
nghĩa siêu thực đề cao tính tự động hoàn toàn của ngôn ngữ do vô thức tạo ra.
Hiệu lực ngôn ngữ thơ được phát ra từ cách tiếp cận ngẫu nhiên hiện thực mà
không cần tính lôgic. Các con chữ có sẵn một cuộc sống độc lập. Các nhà thơ
có thiên nhãn nhìn thấu không gian, thời gian, sống được với thế giới mộng,
vô thức sẽ có được những sáng tạo làm mê hoặc lòng người. Ảnh hưởng "lối
viết tự động" này, Hàn Mặc Tử có nhiều bài thơ vượt thoát ra ngoài sự
kiểm soát của lý trí. Những vần thơ đó là sự dồn nén của bao ham muốn và khát
vọng cháy bỏng từ thân xác, trái tim, trí tuệ, tài hoa trong vô
thức, tiềm thức:
-
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm,
Cho
trăng ngập, trăng dồn lên tới ngực
Hồn
chúng tôi lặng yên trong thổn thức
Rồi
bay lên cho tới một hành tinh
(Hồn là ai - Hàn Mặc
Tử)
Bích Khê là người luôn đề
cao ý thức sử dụng ngôn từ. Ông thường dò tìm năng lực tiềm ẩn của từng con
chữ, xét chúng trên cả các mặt: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa... Nhưng nhà thơ
cũng chịu ảnh hưởng lối viết tự động siêu thực để rồi có những ngôn từ tự
nhiên thốt ra làm mê hoặc lòng người:
Nhạc khiêu vũ đâu đây làn
sóng múa
Tôi tưởng chừng da thịt
biến ra thơm
Những đầu lâu rã hết khí
xanh dờn
Những xiêm áo bay rờn
trong cảnh mộng
Cả địa ngục đi vào trăm
lỗ hổng
Bắn tinh ra trộn trạo
giữa nguồn hương
Ở thơ Hàn Mặc Tử và Bích
Khê, nổi lên cái tôi điển hình là con người tâm linh với những đối cực ám ảnh
giữa sự sống - cái chết, tình yêu - đổ vỡ, điên loạn - siêu thoát, cô đơn -
hòa hợp, hiện thực - huyền ảo. Do đó, ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử,
Bích khê có cả tượng trưng siêu thực, chứa đựng cả niềm kinh dị lẫn thiêng
liêng, cả cái đẹp đẽ và cái tầm thường chung sống trong một thế giới biểu
tượng khó nắm bắt. Thế giới đó của Hàn Mặc Tử là Máu - Hồn - Trăng - Xuân,
của Bích Khê là Giai nhân - Nhạc - Ngọc - Hồn. Ở đây, cái tôi siêu hình của
con người tâm linh đa chiều kích được phân li thành muôn mảnh để làm cuộc
viễn du tinh thần, soi sáng bao niềm bí ẩn của con người như cõi vô thức,
tiềm thức.
...
Hồn sao không động mà say!
Chà!
Đôi chim khướu nó bay tung trời...
Nhạc
đâu bỗng vót từng khơi,
Hồn
theo với nhạc, hồn ơi là hồn
Buồn
thôi như rượu thấm dồn,
Lên
men nồng khướt, xoay tròn trên không.
Như
vậy, những năm trước 1940, lối viết tự động đã xảy ra với quá trình sáng tạo
thi ca của Hàn Mặc Tử, Bích Khê... theo tiền đề siêu thực từ thời Baudelaire,
Rimbaud. Điều bí mật ngôn ngữ theo quan niệm của Bích Khê “Lời truyền sóng
đánh điện khắp muôn trời - Chữ bí mật chứa ngầm hơi chất nổ” đã được Lê Đình
Kỵ lí giải thêm: “Bí mật, nhưng phải gây nên sức nổ dây chuyền của cái lạ
lẫm, cái tiềm thức, cái vô thức qua những ấn tượng, những liên tưởng đột
xuất, bất ngờ, xóa tan mọi khoảng cách, đem nhích lại gần nhau giữa những cái
xa lạ, vô can... chữ vừa là phương tiện, vừa là cứu cánh” [70,327]. Giai đoạn
từ 1940, tiếp tục xu hướng đó, các nhà thơ nhóm Xuân thu nhã tập đã "kết
nạp vào cái tôi cá nhân hiện có của Thơ mới những tín điều huyền diệu, linh
thiêng, khó nắm bắt, có màu sắc siêu nhiên" [44,36]. Đỗ Lai Thúy gọi
Xuân thu nhã tập là " Khúc hát Thiên nga". Khúc hát Thiên nga là
tiếng kêu cuối cùng của con Phượng Hoàng để rồi từ đống tro hồi sinh một Thi
Điểu mới. Thi Điểu mới đó chính là Nguyễn Xuân Sanh với Buồn xưa mà một thời
đã từng được làm dẫn chứng cho thứ thơ bí hiểm, hũ nút(!?) Ở Buồn xưa không
có tính liên tục của dòng cảm xúc và mạch liên tưởng quen thuộc trong thơ
trung đại hay Thơ mới buổi đầu. Các con chữ, hình ảnh không đứng cạnh nhau
theo thế tương cận của ý trước gọi ý sau hay cấu trúc ngữ pháp lôgic mà chúng
đứt đoạn, gãy vụn như một sự ghép chữ ngẫu nhiên. Buồn xưa được sáng tác theo
lối viết tự động của thơ siêu thực. Siêu thực là một thực tại nằm ở cõi vô
thức, thường được biểu hiện bằng trạng thái mộng và mơ. Như những giấc mơ,
cõi mộng biến ảo, các từ ngữ không cần lôgic vẫn đứng cạnh nhau: Hồn và Xanh,
Rượu và Hát, Ngón và Hường, Nhài và Đàn, Rót và Nguyệt… Chính việc làm bất
bình thường, phi lý này đã kiến tạo nên nhiều hình ảnh khác lạ, bùng nổ nhiều
ngữ nghĩa mới lạ trong thơ. Không có sự ràng buộc cú pháp, không có sự liên
hệ ngữ nghĩa, câu thơ của Buồn xưa đưa đến cho người đọc nhiều lối nghĩa thú
vị. Mỗi con chữ độc lập riêng có thể kết hợp với các con chữ khác trước nó,
sau nó, cách quãng với nó hay ở bên ngoài để phát triển thành nhiều nghĩa
mới. Câu thơ "Buồn hưởng vườn người vai suối tươi - Ngàn mây tràng giang
buồn muôn đời" có thể tạo tác: Buồn (nỗi buồn) - hưởng (là âm hưởng) -
vườn người (chung của loài người) - vai (luôn chạy xuống hai bờ vai) - suối
tươi (như dòng suối không bao giờ cạn)/ Ngàn mày (bờ mắt ướt) - tràng giang
(như dải sông rộng) - buồn muôn đời (gợi nỗi buồn muôn đời). Câu thơ
"Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi " có thể hiểu : Hoa Quỳnh, buổi
chiều, đọng nhạc, trầm, trên mi mắt; Hoa Quỳnh buổi chiều, đọng, nhạc trầm
thơm ngát, mi đắm say; Nhạc, trầm, mi buổi chiều như đọng trên Hoa Quỳnh...
Đọc Buồn xưa bằng cách đồng tạo tác ngôn từ, người đọc có thể tìm thấy ở đó
bóng giai nhân trong quá khứ với những giấc mơ kí ức "Hồn xanh ngát chở
dấu xiêm y", "Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu", "Nhài đàn
rót nguyệt vú đôi thơm". Chân dung người đẹp hiện về trong nỗi nhớ của
thi nhân với những hình bóng siêu thực: Mi mắt (trầm mi), trang phục (xiêm
y), giọng nói (rượu hát), tóc (say tóc), vú ( vú đôi thơm), vai (vai suối
tươi), môi (môi gợi), ngực (ngực giữa thu), da (da lộng). Như vậy cái tôi
linh thiêng với cái tôi không xác thực trong quan niệm của nhóm Xuân thu nhã
tập đã góp một tiếng nói khác vượt thoát khỏi nội dung trữ tình của Thơ mới
đương thời, mở rộng sự sáng tạo không cùng của thi ca. Theo họ, thơ không cần
lúc nào cũng rõ nghĩa vì nó không chủ động trong địa hạt ý nghĩa; không phải
lúc nào cũng sáng sủa vì nó không vụ phát biểu cái phần sáng sủa của tâm
linh, nó giữ phần sâu kín, nó giữ phần sâu sắc; không phải lúc nào cũng theo
lí luận vì nó chịu sức chi phối của những quy luật vô hình; Không lúc nào
cũng chỉ để bảo một cái gì, và nó không vụ ích lợi thực tế. Nhóm Dạ Đài cũng
có Bản tuyên ngôn tượng trưng: "Thế cho nên chúng tôi - thi sĩ tượng
trưng - chúng tôi có nói cũng chỉ là nói cái tâm trạng của thi nhân, của
những thời nhân đã có ngày cô độc. Chúng tôi sẽ nối lại: - nghiệp dĩ của một
Baudelaire - Tâm sự một Nguyễn Du - sự nổi loạn và Ra - đi của một Rimbaud -
nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn..." [99,1234]) gợi mở sự tìm kiếm mới
lạ. Quan niệm này, đã giúp các nhà thơ nhóm Xuân thu nhã tập, Dạ Đài khơi
ra nhiều đường hướng mới cho ngôn ngữ thơ hiện đại. Tuy nhiên, công cuộc đổi
mới thi ca của họ đang dang dở, tuyên ngôn hiện đại nhưng thành tựu sáng tác
còn ít, nhiều sáng tác thử nghiệm quá huyền bí, lơ lửng trên bầu trời không
tưởng nên có nhiều ý kiến cho đó là thứ thơ hũ nút.
Như
vậy, những năm 1941 - 1945 là giai đoạn phân hóa của cái tôi trữ tình. Đây
cũng là bước vận động mới của Phong trào Thơ mới. Đoạn đầu là bước
hội nhập Đông - Tây, truyền thống và hiện đại. Đoạn sau dẫm theo kịp bước các
chủ nghĩa hiện đại từng đi qua.
Nguồn: Thơ Mới
1930-1945 – Nhìn từ sự vận động thể loại. Khảo luận của Hoàng
Sỹ Nguyên. NXB Văn học, 7-2010.
|
Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014
Thơ Mới nhìn từ sự vận động thể loại
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Du Tử Lê, Từ Công Phụng - Con dế buồn tự tử giữa đêm sương
Du Tử Lê, Từ Công Phụng Con dế buồn tự tử giữa đêm sương! Du Tử Lê viết bài thơ 67, Khúc Thêm Cho Huyền Châu vào năm một ngàn chín trăm sá...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét