Văn Cao - Tiếng hát
Thiên Thai và Trương Chi là hai ca khúc
nổi tiếng từ nửa thế kỷ trước, cấu trúc trên hai truyền thuyết được lưu hành
lâu đời. Thiên Thai là chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi bồng lai, Trương
Chi kể lại niềm đau đớn của chàng ngư dân có tiếng hát hay, tuyệt vọng
vì tình: ai cũng hiểu như thế và hiểu đúng. Gần đây, Phạm Duy có phát
triển thêm ý nghĩa của hai bài hát, trong một loạt bài rất hay đăng trên Văn
Học (California), số 16 và 17 tháng 10, 11 năm 1987, mà Hợp Lưu
đăng kèm trong số này.
Nay chúng tôi muốn đưa
một lối nhìn khác về hai nhạc phẩm, không phải để đi tìm cái độc đáo, lập dị,
mà để đưa Thiên Thai và Trương Chi vào toàn
bộ sự nghiệp thơ – nhạc – họa của Văn Cao, như một đồng bộ thống nhất: hai bài
hát đó, chúng tôi xem như là tuyên ngôn nghệ thuật của Văn Cao – những nguyên
tắc thẩm mỹ được đưa ra từ thuở hai mươi, sẽ chung thủy với Văn Cao đến tuổi xế
chiều.
Thiên Thai mở ra bằng một tiếng hát:
Bồng lai, ở đây, chỉ là
tiếng hát: Thiên Thai là lịch sử một tiếng hát, một tác phẩm nghệ
thuật lừng danh và vô danh. Tiếng hát, không à ơi trên võng, không tỉ tê bên
gối, không ê a dưới ánh đèm màu, không rè rè qua máy phát thanh, và vang lừng
trên sóng, vượt tới vũ trụ và lấn át vũ trụ. Tiếng hát át tiếng sóng là một âm
thanh tự thức đè lên một âm thanh vô thức. Tiếng ai hát… ai hát? Ta không
biết và không cần biết. Một tác phẩm nghệ thuật, khi lìa tác giả, không còn cần
tác giả, như đứa con khi trưởng thành không còn cần mẹ như trước: chúng
ta yêuTruyện Kiều mà không cần biết Nguyễn Du. Biết, dĩ
nhiên, «thì cũng tốt thôi»nhưng không phải là điều chính yếu trong nghệ thuật. Cái sai lầm
của cô Mỵ Nương là đã muốn đồng hóa tiếng hát với người hát: «Anh Trương Chi. Người thì thậm xấu hát thì thậm
hay… Hồ nghe tiếng hát thì thương… Hồ trông thấy bóng anh chàng thì chê»như lời ca dao quê Văn Cao mà Nguyên Hồng và sau này Phạm Duy, có
kể lại. Mà không cứ gì một cô bé lầu Tây sai lầm, mà cả nền văn nghệ hiện thực
xã hội chủ nghĩa (đã) sai lầm, khi đánh giá những bài hát nói Nguyễn Công Trứ
qua Nguyễn Công Trứ, đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh qua con người Nhất Linh –
mà lại đánh giá sai.
«Thiên Thail à gì? là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi». Sự đối lập, hay song lập giữa vĩnh viễn và mong manh, giữa những
định hình và những chơi vơi, là thế giới nghệ thuật. Nụ cười mong manh trở
thành miên viễn trong bức họa La Joconde. Cái không gian như cái giây
tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu trong buổi chiều Xuân Diệu – hay
buổi chiều Nguyễn Du, bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, những
ánh sáng mong manh ấy, là cả một thiên thu.
Một mặt, nghệ thuật là
tiếng « đàn xui ai quên đời dương thế… nhớ quê chiều nào xa khơi… chắc không
đường về tiên nữ ơi», tách rời khỏi thực tế: nghệ thuật là một thế
giới riêng, với những quy luật riêng, bảo vệ và phát huy bản năng sáng tạo, độc
lập với hiện thực. Mặc khác, nghệ thuật cần bám rễ vào thực tại để phát triển,
và phả sắc, nhả hương về lại trần gian. Nói giản dị hơn: nghệ thuật cần thực
tại để nảy sinh và cần quần chúng để trưởng thành và tồn tại, nghệ thuật là ánh
trăng thanh mơ tan thành suối trần gian. Nghệ thuật là một mùa đào
dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần, là những cánh hoa trong một bức tranh
tuyệt mỹ, không nở không tàn, nhưng chỉ sống thực khi gặp cái nhìn của người
xem: sóng mắt con người đánh thức cành hoa trong hội họa, và trong ánh mắt đó,
nó sẽ nở sẽ tàn như mọi thứ hoa trần thế ; và chỉ có phút bừng sống đó,
cành hoa nghệ thuật mới đạt tới đời sống thực và có khả năng trở thành một cành
hoa lý tưởng. Trong khi chờ đợi, cành hoa huệ của Tô Ngọc Vân, cành hoa cúc của
Lê Phổ… vẫn là những hoa xuân chưa gặp bướm trần gian.
Người nghệ sĩ khi cầm
cây cọ ngòi bút tên tay đều biết rằng ái ân thiên tiên, em ngờ phút mê
cuồng có một lần – một lần thôi, nếu có. Và có thể cái phút mê
cuồng ấy không đến: phút linh cầu mãi không về như
lời thơ Hồ Dzếnh. Hoặc đến không phải nơi phải lúc. Phút mê cuồng ấy linh
thiêng, tuyệt đối, là động cơ sâu xa của sáng tạo mà mỗi nghệ sĩ, mỗi xã hội
đều có nhiệm vụ bảo vệ, vì nó chỉ có một lần. Và khi khai triển
chuyển phút có một lần thành cả một thiên thu,
người nghệ sĩ lại phải tỉnh táo: trước cái phút mê cuồng đó
để chuẩn bị, và sau đó, để hoàn tất. Lúc tỉnh táo, trước và sau đó, anh là
người thợ, phải có dụng cụ, có tay nghề. Anh đừng cả tiếng khinh thường thợ
thơ, thợ vẽ: không có người thơ trong tay, anh suốt đời chỉ nghệch ngoạc,
hoặc rung đùi đợi vợ con hầu rượu hoặc lạc rang, và chửi đời «không có trình độ».
Thiên Thailà luồng điện hai chiều: người trần thế mê hạnh
phúc bồng lai trong khi những tiên cô khao khát «khúc tình duyên»trần thế. Lưu Nguyễn khi
ở Thiên Thai đã «quên trần hoàn», khi về trần, muốn tìm lại cõi tiên thì Đào nguyên nơi
nao? . Nghệ thuật cũng vậy. Nghệ thuật là cuộc đời muốn hóa thân thành màu
sắc, âm thanh; mà cũng là những âm sắc khô cứng muốn trở lại làm hoa làm lá.
Nghệ thuật là đóa hoa mong chín mọng thành trái đầu mùa, mà cũng là quả cây
chín muộn, nhung nhớ cánh bướm hoang đường từ một mùa xuân xa vắng. Là những
lối đi trùng với lối về, nghệ thuật là cõi hẹn hò ngang trái. Mỗi ngang trái là
một chung thủy và hạnh phúc của sáng tạo nảy sinh từ sự thủy chung đó. Nghệ sĩ
cùng bầy tiên đàn ca bao năm, không còn nhớ đường về; anh sống với
nghệ thuật cũng vậy: trước giá vẽ, anh chỉ biết vui với cây cọ và màu sắc, mà
không cần nhớ cuộc sống, không nên thêm vào một bó hoa hồng để tranh dễ bán,
không nên bớt đi một đóa sen cho hợp với đường lối, lập trường. Anh vẽ cuộc
sống, nghĩa là vẽ cuộc sống trong anh; dù là vẽ cái ly trước mặt, anh vẫn vẽ ra
hàng ngàn cái ly chứng kiến đời anh, bằng một cái ly trong tâm tưởng. Tĩnh vật
trước mặt chỉ là cái cớ, làm trung gian giữa tác giả và người xem tranh. Những
mối tình lớn không cần trung gian. Những họa phẩm lớn không cần đề tài. Nhưng
ngược lại, khi rời khỏi giá vẽ, trở lại đời sống bình thường của xã hội, thì
anh lại phải sống bình thường, đau cái đau của con người, vui cái vui của vợ
con, buồn nỗi buồn của dân tộc. Nguyễn Du không lăn lóc suốt đời thì không thốt
lên được tiếng đoạn trường. Nguyễn Khuyến không lo sốt vó vì lụt lội mất mùa, phần
thuế quan thu, phần trả nợ thì không viết nổi câu nước trong
veo. Nói vậy để trả lời những người hỏi Văn Cao: Sao tài hoa xuất chúng mà
đi lãnh việc trong ban khủng bố? Sao lại không? Chẳng lẽ là tài hoa, anh
lãnh phần làm nhạc quốc ca thôi, còn việc bẩn thỉu thì để người khác làm
thay? Hỏi như thế thì khác gì trách Nguyễn Công Trứ cầm quân dẹp loạn,
hay trách André Malraux chỉ huy lữ đoàn thép Alsace Lorraine? Văn Cao có câu
thơ thật hay:
Cuộc đời ôm tôi như
trong một cái bình
Một tiếng vang vang cả
lòng cả đáy
Văn Cao là vậy, luôn
luôn là vậy, một tiếng vang vang cả lòng cả đáy, dội về biển lớn, vang
lừng trên sóng.
Thiên Thailà cõi vô thủy vô chung, không có thời gian. Mà
không có thời gian thì không có Âm Nhạc. Lô gíc. Không có khúc nghê thường. Gió
hát trầm tiếng ca, tiếng phách ròn lắng xa là nghệ thuật, là trần gian,
là ý thức của hủy thể. Âm ba thoáng rung cánh đào rơi trong
mộtmùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần. Nghệ thuật đã là rụng
chiếc lá đầu tiên xuống Đào Nguyên. Nghệ thuật là cố gắng của con người vượt
qua khỏi vật thể, tội lỗi và cái chết trong trần thế và đã đưa những khái niệm
ấy vào Thiên Thai qua Đào Nguyên Hành của Vương Duy hay chuyện Lưu
Thần, Nguyễn Triệu trong thơ Tào Đường mà Văn Cao có chịu ảnh hưởng
như anh đã ghi nhận (1944). Nhưng Lưu Nguyễn chỉ là nhân vật, nên đã thong dong
trở về trần. Còn Trương Chi là người hát, có thể là tác giả những bài hát, nên
phải trả một cái giá đắt hơn.
TRƯƠNG CHI
Có nhiều huyền thoại
Trương Chi. Tình sử Trung Quốc kể chuyện một cô gái mê tiếng hát một người lái
buôn rồi chết, tim hóa đá, cho đến khi người đàn ông trở lại, nhỏ một giọt nước
mắt, khối tình mới tan. Theo truyền thuyết Việt Nam, người đàn ông là một người
thuyền chài, có tiếng hát hay, nhưng bị chê nghèo (hoặc xấu); nhân vật nữ là cô
Mỵ Nương. Có thuyết cho là nàng chết, thuyết khác cho chàng chết, tim hóa gỗ
bạch đàn hay ngọc đá. Văn Cao nhấn mạnh hai chủ đề nhạc và giai cấp, và chuyện
chấm dứt ở cái chết của Trương Chi, chỉ còn lại tiếng hát nức nở bên sông.
Không có chuyện trái tim và nước mắt, Phạm Duy, trong Khối Tình Trương
Chi (1945) kể lại truyền thuyết từ đầu đến cuối. Hai bản nhạc đồng
thời với nhau và Phạm Duy đã có lần giải thích rất hay tác phẩm bạn mình (báo Văn
Học, đã dẫn).
Bài hát Trương
Chi mở đầu cho một thế giới sơ khai: Một chiều mưa trăng nước
chưa thành thơ, một thế giới chưa có nghệ thuật, chưa có sáng tạo ;
sau đó không gian mới rung thành tơ: con người đã phát triển được
bản năng thẩm mỹ, bằng cách tiếp thu một cách tiêu cực vẽ đẹp của vũ trụ, rồi
dần dần sáng tạo ra nghệ thuật, ôi tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Con người trước tiên tiếp xúc với vũ trụ để tự vệ và sản xuất, nhờ có nghệ
thuật, họ đã bằng những rung cảm mới, ngoài phạm vi nhu cầu tồn tại. Tương quan
giữa tiếng cầm ca và thu tới bao giờ là tương quan giữa bản
năng thẩm mỹ, bản năng sáng tạo và cái đẹp của thiên nhiên. Thiên nhiên thì vẫn
vậy thôi, hay chuyển hóa rất chậm và rất ít, theo chu kỳ, nhưng ý thức thẩm mỹ
của con người ngày càng phát triển nhanh, càng tiếng bộ, trở thành phức tạp,
tinh tế. Cho đến một lúc nào đó, con người bỗng thấy lòng chiều bơ vơ
lúc thu vừa sang… Buổi chiều. Mùa thu. Niềm bơ vơ: chúng ta đã đến
những chủ đề cổ điển của văn thơ thế giới, từ nhiều nguồn văn minh khác nhau.
Con người chủng tộc, văn hóa khác nhau có thể cùng rung cảm như nhau, vì cái
đẹp khách quan bàng bạc dưới ánh sáng hài hòa của vũ trụ và cái đẹp chủ quan ấp
ủ trong bản năng thẩm mỹ của con người, bản chất gần nhau. Từ đó, nghệ thuật là
mớ vốn chung cho toàn thể nhân loại, nó phải có tham vọng đáp ứng lại nhu cầu
thẩm mỹ của con người – dĩ nhiên là qua lăng kính ngôn ngữ, văn hóa của từng
dân tộc một. Sáng tạo nghệ thuật làm vũ trụ và con người càng ngày càng giàu có
thêm. Buổi chiều, cũng như buổi sáng, buổi trưa, không đẹp, không xấu:
buổi chiều là giờ an nghỉ, phút chia tay, một ánh trầm tư, một thoáng u hoài
trước cảnh vật phai màu nhạt sắc. Buổi chiều, một thoáng bơ vơ, trở thành một
tình cảm văn nghệ.Có nghĩa gì đâu một buổi chiều (Xuân Diệu).
Nhưng theo đà tiến hóa,
nghệ thuật – và con người nữa, cách ly ra khỏi thiên nhiên, độc lập và có khi
đối lập thiên nhiên, công phá thiên nhiên. Nghệ thuật ngày một ngày hai trở
thành một hoạt động chuyên nghiệp có quy chế trong xã hội. Ngày nay, ai thích
lời chim hót ríu rít tiếng oanh ca không nhất thiết phải thích
âm nhạc; ai yêu phong cảnh sông Lô bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm
một màu khói thu, người ấy không nhất thiết phải yêu hội họa.
Nhưng nghệ thuật, cụ thể
là âm nhạc, hội họa và văn thơ khơi sâu ý thức về cái đẹp, gọi là mỹ cảm trong
con người, giúp con người yêu thêm, yêu sâu sắc hơn ngôn ngữ và những âm sắc
thiên nhiên. Không phải tự nhiên mà con người nghe suối hát theo đôi chim
quyên hay ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn… còn nghe như
ai nức nở và than… trầm vút tiếng gió mưa… cùng với tiếng nước róc rách ai có
buồn chăng… Trong trường caNhững Người Trên Cửa Biển, Văn Cao
nói rõ hơn:
Có người không biết
trăng là đẹp
Bỗng nhiên chiều đứng
ngắm trăng lên
Nghe như ai hát trong
lòng…
Có người quên hàng chục
năm dĩ vãng
Chợt nhớ ra tất cả những
ước mơ
Của những ngày niên
thiếu
(Lá, tr.
72)
nhờ một câu thơ, một
khúc nhạc. Nghệ thuật là bội số của cuộc đời, nhân cuộc đời thành hàng vạn giấc
mơ, từ đó, Văn Cao đã có thể khẳng định những bức tranh tăng dân số
chúng ta. Và anh giải thích:
Bao tình yêu khát khao
hy vọng
Gửi từng cuộc đời nhỏ bé
Từng thế giới con con
Với tôi tất cả
vì những nhỏ bé
con con ấy lớn lên trong nghệ thuật, đều trở thành cái vung
tay hùng tráng của người gieo – (le geste auguste du semeur).
Nhưng cái đẹp trong nghệ
thuật không phải lúc nào cũng lung linh ánh trăng, long lanh tiếng suối, lóng
lánh hơi mưa, nó có thể lem nhem than khói:
Nhạc đang biến thành sự
thực quanh ta
Tôi càng yêu hơn
Những cuộc đời sau bức
tường xám xa lem nhem than khói
Những lá thuyền chen
chúc nép bên nhau
Qua chiếc lưới phới thấp
thoáng bóng người
Cả đến cuộc đời những
con hà lóng lánh
(Lá,
tr. 71)
Tác dụng của nghệ thuật
thật lớn lao trong cuộc sống của loài người. Cô Mỵ Nương vốn ở lầu Tây,
con quan Thừa Tướng ngày ngày cấm cung trong ca dao làm sao có tầm
hiểu biết như thế.
Tây hiên Mỵ Nương khi
nghe tiếng ngân hò khoan
Mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng
lả lơi
Lả lơi bên trời
Sai lầm của cô gái lầu
Tây là đã mơ người hát qua lời hát, mơ tác giả qua tác phẩm, sau đó muốn chiếm
hữu tác giả – nghĩa là chiếm hữu toàn bộ tác phẩm lẫn nguồn sáng tạo cho riêng
một mình – rồi lại chê nhặt chê khoan. Cô là hiện thân của hệ thống chính trị
cưỡng đoạt văn nghệ từ xưa đến nay. Đường Minh Hoàng yêu chuộng Lý Bạch, Louis
nâng đỡ Molière, bất quá là để mua vui như Lê Thánh Tông dùng nhạc Lương Đăng;
còn chế độ chuyên chính vô sản, từ Staline đến nay, chiếm đoạt nghệ thuật ra
sao thì chúng ta không cần dài lời. Trong bài hát, Văn Cao phớt qua hình ảnh Mỵ
Nương, chút nhan sắc của cô bé dậy thì này không đáng cho chúng ta dừng mắt lại
lâu, như lời chàng Nguyễn Huy Thiệp chịu khó quan sát, những cô gái mới
lớn hết sức đức hạnh và trong trắng lại lén lút đi đọc những chuyện nhảm nhí.
Người anh hùng của các thiếu nữ hoa niên là một gã Đông Juăng nào đó (Sông
Hương, số 42, 1990). Điều này, dĩ nhiên là không làm vinh dự cho anh Trương
Chi, anh chỉ trách ai khinh nghèo quên nhau. Quên nhau là thôi, là
hơn. Trương Chi dừng chèo là Văn Cao dừng chuyện. Không cần gì mà phải tim hóa
đá để đòi nợ nước mắt. Vì không ngọc đá nào quý bằng trái tim con người, trái
tim biết yêu, biết nhớ, trái tim ngừng đập là tan với cỏ cây. Trái tim Trương
Chi, trái tim Văn Cao không có gì sánh được. Còn món nợ kia? Ở đời, một anh «phủi»nợ, thì hết vấn đề. Hai là anh nhận nợ, thì không bao giờ anh trả
hết: chết đi, chết kiểu gì đi nữa, thì anh cũng chỉ mới thoát nợ chứ chưa phải
là trả nợ. Lẩn thẩn mà Văn Cao đòi nợ thì phiền lắm: cả nước nợ anh một bản
quốc ca, mỗi chúng ta còn nợ anh một vài bản nhạc tình, cả mấy cô tiên trên
Thiên Thai cũng còn nợ Văn Cao trái đào thơm. Năm nay bảy mươi tuổi, Văn Cao đã
ăn được trái đào thơm nào đâu? Còn quả đắng, thì suốt một đời, anh phải
ăn nhiều lắm. Văn Cao là chú đạo đồng dâng mật ngọt cho bữa tiệc trần gian rồi
suốt đời phải ăn trái đắng.
Trái tim Trương Chi thì
đã tan rã. Nhưng tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung. Đây là định mệnh
của tác phẩm nghệ thuật, là ý nghĩa đặc biệt của nhạc phẩm Trương Chi,
chứ không phải là chuyện tình lẩn thẩn. Phải hiểu như thế mới bắt được mạch thơ
Văn Cao
Đêm nay dòng sông Thương
dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván
thuyền
Ta ca trái đất còn riêng
ta
Ta ở đây không phải là
cá nhân Trương Chi, cũng không phải là Văn Cao, mà là Con Người, Nhân Loại sáng
tạo ngôn ngữ, rồi sáng tạo nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, văn minh, văn hóa để
làm chủ trái đất còn riêng ta. Con người gõ ván thuyền mà ca, giữa
cảnh trăng nước sông Thương đó, đẹp hơn cả hình ảnh Trang Sinh khi vỗ bồn mà
hát. Hát rằng: ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc
bích, tinh tú làm ngọc châu, vạn vật làm lễ tống… Mà còn thêm chi cho lắm việc (Liệt
Ngự Khấu, Ngoại Thiên). Bối cảnh có khác nhau, nhưng nội dung chính yếu của
chuyện gõ thuyền, gõ chậu mà ca không khác nhau: con người tự thức, làm chủ thể
của ý thức và ngoại vật. Tự thức ở Trang Tử là tư tưởng lớn lao của ông, tự
thức của Văn Cao là nghệ thuật của mình, là tiếng ai hát chiều nay vang
lừng trên sóng, mà cũng là tiếng sóng. Tiếng sóng Kêu khát suốt
ngày đêm – Suốt ngày đêm kêu khát. Nghệ thuật phải là những
làn môi. Những làn môi nóng bỏng căng mình chờ đợi:
Nước ngọt của dòng sông
Bao giờ đổ đầy lòng biển
TỪ SUỐI MƠ ĐẾN BẾN XUÂN
Những tình khúc đầu mùa
của Văn Cao là Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu (1939), Cung Đàn
Xưa, Bến Xuân (1942),Suối Mơ (1943) đã ghi lại những thành
công trong thời kỳ phôi thai của nhạc mới, những năm 1940 và bây giờ vẫn còn
nhiều người hát; và nghe lại, ta vẫn thấy hay, trong khi một số ca khúc đồng
thời của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Phước… đã trở thành những âm hao lạc lõng. Giải
thích hiện tượng này, Phạm Duy đã có một loại bài hát hay, và anh là người có
nhiều thẩm quyền nhất để phán: anh sống, sáng tác và và ca diễn vào thời điểm
đó, anh nắm vững lịch sử tân nhạc và tâm lý quần chúng; về nhạc thuật, Phạm Duy
là vua. Vậy chúng tôi tựa cột mà nghe Phạm Duy
Phải đợi cho tới khi tân
nhạc ra đời vào những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta mới có được một loại
nhạc tình lãng mạn do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Triệu
Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Dzoãn Mẫn…tung ra (…). Tuy nhiên, loại
nhạc tình lãng mạng đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được
phát xuất ra từ một con người tài hoa bật nhất của thế giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy
giờ. Người đó là Văn Cao.
Cái mới, điểm tiến bộ
đầu tiên Văn Cao đưa vào nhạc mới là người đàn bà đẹp, kiều diễm, trang trọng,
cao quý, khác với Cô Hái Mơ, Cô Lái Đò, Cô Lái Thuyền, Cô Hàng Bán Hoa,
Cô Hàng Cà Phê, Cô Láng Giềng trong những bài hát thịnh hành thời đó.
Xã hội Việt Nam ngày xưa không tạo cơ hội cho trai gái gặp nhau, ngoài sinh
hoạt công cộng nơi đồng án hay hội hè – vốn hiếm. Nơi công cộng, nếu không gặp
cô thôn nữ tát nước bên đàng, thì cùng là cô sơn nữ, cô hái hoa gì đó, vì trai
gái không có quy chế (statut) gặp gỡ. Phải đợi đến Văn Cao, cô gái mới đi
thẳng đến nhà người yêu bên chiếu cầu soi nước để hát
theo đàn rồi hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối. Người con gái,
có thể là khuê các, có thể ngồi trong nhà mà nhớ người yêu: Ôi
vừa thoáng nghe, em mơ ngay bước chân chàng. Đặt biệt là chữ «ngay»như một phản xạ, một tự do. Phải rồi. Cô gái
trong tình khúc Văn Cao là cô gái tự do, báo hiệu cho một nền văn minh mới. Cô
lại đẹp tuyệt vời, huyền diệu:
Chiều năm xưa
Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu xuân
Người đẹp kiêu sa này,
đi vào kháng chiến sẽ để lại những lối mòn thơm mãi dấu chân em trong
thơ Nguyễn Đình Thi; ra khỏi kháng chiến thì:
Em đài các lòng cũng
thoa son phấn
Hai bàn chân kiêu ngạo
dẫm lên thơ
trong Mê Hồn Ca của
Đinh Hùng. Nhất Linh đã bảo vệ người phụ nữ, Dương Thiệu Tước đã mơn trớn, và
Văn Cao đã kính trọng người phụ nữ.
Một đặc điểm khác trong
tình khúc Văn Cao là toàn bài hát được cấu trúc như một tác phẩm hài hòa và
toàn bích, như một bài thơ độc lập, có giá trị nhất quán và tự tại. Phạm Duy
công nhận: Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó thì bài
Suối Mơ với Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó các
nhạc sĩ còn đang lẩn quẩn trong cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn
Cao đã viết hẳn ra một Bài Thơ Bên Suối.
Cung Đàn Xưakết hợp nhuần nhuyễn những lời thơ thiết tha da
diết, xoắn sâu vào nỗi đau thương:
Cung thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu
rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ
thương dần pha phôi
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng
thầm
Buồn tê tái trong tiếng
ngân
Buồn như lúc xuân sắp
tàn
(…) Giờ còn mong chi
người hát theo đàn.
Trong thơ mới, có lẽ
ngoài Hàn Mặc Tử ra, chúng ta cũng ít khi thấy ngôn ngữ thê thiết dồn nén đến
mức ấy. Ngôn ngữ Văn Cao thật mới: trong khi các nhạc sĩ khác còn vân vê hình
ảnh hoa rụng thuyền trôi, thì Văn Cao đã có những sáng tạo:
Hồn cầm phong hương hình
bóng xuân tàn
... Hồn cầm lắng
tiếng đời
… Cánh nhạn vào mây
thiết tha
… Có một mùa đào dòng
ngày tháng chưa tàn qua một lần…
Đó là đặc sắc trong lời
ca. Về nhạc lý, chúng ta nghe Phạm Duy phê phán nhạc tình thời đó: Về
phần nhạc thuật ta thấy rằng tất cả những bài hát đó chỉ được coi như là phó
sản của những nhạc phẩm đã được sản xuất trước đây. Tất cả đều nằm trong một
khuôn khổ có sẵn (thể nhạc khiêu vũ tango hay rumba) với những âm hình(dessins
melodiques) mà ta có thể gọi được là cliches. Những tình cảm trong các bài
này cũng đều na ná như nhau, nói chung là tiếng gọi gái của những thanh niên
thất tình (Văn Học, tháng 12, 1986).
Theo Phạm Duy, phải đợi
đến Cung Đàn Xưa, Văn Cao mới đưa nhạc tình trong năm 1943
này lên tới đỉnh cao nhất của những bài ca ái tình (Văn học, số
15, 1987).
NHỮNG HÀNH KHÚC
Song song với những tình
khúc đầu mùa, mà Phạm Duy gọi bằng tiếng Pháp là le temps de
l’innocence – thời ngây thơ, vào những năm đầu thập niên 1940, một
nhạc trào khác phát triển mạnh là nhạc hùng, những bài hát khỏe, vui của hướng
đạo, học sinh, đề cao lịch sử, đất nước, sức khỏe, bắt đầu từ nhóm Đồng Vọng
của Hoàng Quý tại Hải Phòng đến Hùng Lân, Lưu Hữu Phước. Những hành khúc này có
những động cơ xã hội hay chính trị, hoặc tự nhiên hoặc có lãnh đạo.
Văn Cao là tư tưởng tự
do và tiến bộ, trong thể loại nào cũng giữ hai nét đặc biệt ấy.Văn Cao yêu lịch
sử dân tộc nhưng không nô lệ: tự hào về quá khứ đất nước anh vẫn xem như là một
kỷ niệm đã qua – và tâm thức dân tộc cần phải được vượt qua để tồn tại và tiến
hóa.
Trận Đống Đa là chiến
thắng thần tốc oanh liệt nhất của chiến thuật Việt Nam, của chiến tranh nhân
dân và phong kiến, của bạo lực và chính nghĩa, của chiến lược thuần túy. Nhưng Văn
Cao không hề bị choáng ngợp trước đỉnh cao lịch sử đó, ngược lại, trong Gò Đống
Đa, anh khẳng định:
Thề quyết phấn đấu
Đồng tâm hy sinh
Làm sao cho hơn thời xưa
Rồi cất sức sống ngày
mai…
Thăng Long Hành Khúc Ca, cũng nhắc lại chiến công Tây Sơn, Văn Cao nhìn
về toàn bộ lịch sử dân tộc qua hình ảnh cố đô:
Thăng Long thành xưa
Thăng Long ngày nao
Cờ khoe sắc phất phới
Nhưng hiện tại thì khác.
Việt Nam, lúc đó, là một nước nô lệ lầm than, lạc hậu. Hà Nội là một thủ phủ
thuộc địa:bao năm qua khắp chốn cũ cũng đã mất hết tinh anh. Dù cho bao
người bao nhiêu luyến tiếc… này phường phố cũ, này đường về ô xưa… bóng xưa
ngàn năm, thì giờ đây chỉ còn lại một u hoài xa vắng, hồ phai khi
tàn mơ. Muốn dân chúng sống yên vui, thậm chí sống oai hùng, tiếp nối với
truyền thống thì phải biết đổi mới, tiếp thu khoa học và dân chủ – những giá
trị phương Tây mà Nguyễn Trường Tộ đã trình bày – phải mở tim mở óc chờ
gió mới bay về… bao ánh sáng phương tây từ khắp chốn bay về.
Lấy một ví dụ khác: chủ đề
sông Bạch Đằng. Chiến công hiển hách này được nhiều người đưa ra như một tiêu
chuẩn, một giá trị miên viễn. Hoàng Quy, đồng hương, bạn và thầy nhạc Văn Cao
viết:
Đến bây giờ mỗi khi đi
trên sông Bạch Đằng…
Thì anh em ta vui ca
rằng:
Lưu Hữu Phước cũng cho
rằng Đằng Giang vẫn sáng để cho nòi giống soi chung, trong khi đó
Văn Cao, trên con sông quê hương thì buồn thiu:
Bạch Đằng giang sầu mơ
bên lau xanh
Với bến nước xa xôi
… Buồn ai đứng nhìn con
sông xanh biếc ngày xưa
Mà nước mắt mờ rơi…
Đã đành, ở đây lãng đãng
nét u buồn lãng mạn vẫn cố hữu trong nhạc Văn Cao, nhưng không thể phủ nhận tư
tưởng cầu tiến và duy tân của anh. Lưu Hữu Phước thường nói đến nòi giống. Có
khi rất hào hùng. Hào hùng lắm thì kỳ thị:
Đây Bạc Đằng giang sông
hùng dũng
Của nòi giống anh hùng,
giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng. v.v.. .
Thì, trong một đề tài
khác, Văn Cao thực tế và thắm thiết và thân thiết mong:
Dắt giống nòi quê hương
qua nơi lầm than
Cùng chung sức phấn đấu
xây đời mới…
Thời đó, Văn Cao đã có
cái nhìn rất thoáng, rất rộng về dân tộc trong một cộng đồng nhân loại lớn lao: Trong
Công Nhân Việt Nam (1944), bài hát chính thức của Tổng Công Đoàn Việt
Nam hiện nay, anh viết:
Ngoài kia lời non nước
đang nhắc ta
Mau nhấc cao giống nòi
Yêu mến muôn giống người
Tranh đấu cuối cùng
Là đời sống mới dâng xa
Một tình cảm tiến bộ,
lành mạnh. Nói rằng những tư tưởng kia có lãnh đạo, cũng không giảm giá cá nhân
Văn Cao. Tố Hữu cũng được lãnh đạo – và lãnh đạo kẻ khác – tuổi đời và tuổi
đảng cao hơn Văn Cao, mà tư duy chính trị, ở thời điểm đó, còn hạn chế. Tư
tưởng tiến bộ của Văn Cao đã từng lưu hương yêu dấu với suối xưa trôi
nơi đâu trong những phím tơ lưu luyến mấy cung u huyền trong tiếng
hát vọng ngàn xưa còn rung – buồn xa vắng trong tiếng thầm buồn tê tái trong
tiếng ngân – như mùa thu chết rơi theo lá vàng, tâm hồn hoài cổ ấy lao vào
những kỷ niệm vang vang hùng khí: Bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh
hùng ca ra nơi biên cương. Bao chiến mã lên đường… nhưng cái bất ngờ
là Văn Cao không dừng lại ở những «dư âm mênh mông»ấy, anh còn đòi:
Lập quyền dân tiến lên
Việt Nam
Đòi hạnh phúc đắp xây tự
do
Những yêu cầu thiết yếu
mà ngày nay, sau nửa thế kỷ xương máu và lầm than dân tộc ra vẫn chưa đạt tới.
Và vẫn còn có thể hát đắng cay: Tiếng than nơi nơi… Tháng năm dần trôi.
Về nhạc thuật, Phạm Duy đánh giá cao bàiChiến Sĩ Việt Nam: Với
tài năng tuyệt vời của một họa sĩ, Văn Cao vẽ ra hình ảnh chiến sĩ Việt Nam phi
ngựa trên đường xa (…) Tài soạn nhạc của anh tới lúc này đã bỏ xa những nhạc sĩ
chuyên nghiệp khác, đừng nói gì tới những tay soạn nhạc tài tử như Nguyễn Đình
Thi hay Đỗ Nhuận. Trong khi nhạc hùng của Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước dù hay đến
mấy cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ của những ca khúc rất chân phương, rất
cân đối, rất sách vở… thì Văn Cao trổ tài soạn nhạc hành khúc như bài Chiến Sĩ
Việt Nam này. Câu nhạc thứ hai dài dằng dặc, với nhịp điệu dồn dập, thay đổi
hơi thở luôn luôn khiến cho câu ca có sức sống mãnh liệt: « Ngựa phi nơi xa xa kìa nghe súng vang bên trời
điệu kèn rộn ràng ». Tiếp tới là sự nhắc lại đề (…) Cái hay của tác giả là đã chuẩn
bị để vào cuối câu nhạc sẽ chuyển qua một nhạc đề khác, để chứng tỏ sự phong
phú của bàn tay sáng tác(Văn
Học, số tháng 10, 1986).
(Tư liệu: 1944, Văn Cao
làm xong Tiến Quân Ca thì Nguyễn Đình Thi là người xướng âm
đầu tiên. Sau đó, cao hứng Thi rủ Văn Cao làm một bài khác, và làm xong Diệt
Phát Xít trước bài Chiến Sĩ Việt Nam của Văn Cao).
Dân quân du kích cách
mạng bùng mùa thu
Đây là hình ảnh đẹp đầu
tiên của cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Con người sống thực tại như một giấc mơ, sống lịch sử như một
nghệ thuật, sống đất nước như một bích họa: ôi còn đâu đây sắc chàm pha
màu gió… Ai về châu xưa nhớ hồi máu thắm cây rừng. Bài hát Bắc Sơn,
nguyên thủy là sáng tạo cho vở kịch Bắc Sơn của Nguyễn
Huy Tưởng, nhưng vượt khỏi đề tài, trở thành bài hát của người du kích. Cũng
như Tiến Quân Ca, lúc đầu là bài hát làm cho một khóa quân sự
kháng Nhật, sau trở thành quốc ca. Văn Cao năm 1977 đã viết một đoạn hồi ký dài
hai ngàn chữ về bài này ; quốc ca là sở hữu của dân tộc và lịch sử, chúng
tôi không bàn tới trong bài này – vì không phải nơi, không phải phép.
Cách mạng tháng Tám 1945
đã đưa dân tộc vào một khúc quanh. Văn Cao làm bài thơ Chiếc Xe Xác Qua
Phường Dạ Lạc đăng trên báo Tiền Phong, bài thơ quan trọng đầu tiên
của anh, sau đó là Ngoại Ô Mùa Đông1946 đăng trên báo Văn
Nghệ thời kháng chiến, 1948. Bài thơ mới mẻ, mạnh bạo đã có nhiều
nét báo hiệu phong cách thơ Văn Cao về sau.
Toàn quốc kháng chiến.
Hà Nội chiến đấu. Mùa Xuân về, giữa chiến hào xa. Văn Cao ra đi,
rạo rực phơi phới với hai mối tình lớn: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến
cũng là Xuân trăng mật. Bài hát Làng Tôi mang những âm hưởng
đằm thắm, dịu dàng, phấn khởi chưa từng thấy trong những ca khúc trước đó. Văn
Cao vốn tiết kiệm tâm sự, kín đáo về đời tư, nên mãi đến năm 1974, anh mới có
bài thơ về chị ấy, Khuôn Mặt Em, nhưng cũng không lấy gì làm rõ
nét. Chúng tôi chỉ phỏng đoán vì hai câu cuối:
Ôi khuôn mặt sáng trong
và bình lặng
Tôi được đầu tiên và còn
lại cuối cùng
Làng Tôilà tình khúc thiết tha dịu mát. Trăng mật của
lứa đôi soi óng ánh vào quê hương yêu dấu:
Làng tôi xanh bóng tre
Từng tiếng chuông ban
chiều
Tiếng chuông nhà thờ
rung
Đời đang vui đồng quê
yêu dấu
Tuy là một ca khúc chiến
đấu, Làng tôi theo đoàn quân du kích… nhưng âm hưởng lưu lại
một nguồn sáng lung linh dịu mát trong niềm nhớ mông mênh, như rừng
chiều nhớ cánh đồng chiều xưa… Có lúc rộn lên với Ngày Mùanhanh
nhẹn tươi vui:
Ngày màu vui thôn trang,
lúa reo như hát mừng
Với hình tượng lý tưởng súng
tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang, có thể không phản ánh lại những
gian lao của những năm chống Pháp nhưng nói lên những ước mơ của người nghệ sĩ
trong kháng chiến.
Nhưng phải đợi đến
trường ca Sông Lô, Văn Cao mới nói lên được trọn vẹn vẻ đẹp của quê
hương, hoang sơ nhưng thân mật, đơn giản mà hùng tráng, đẹp như một bức tranh.
Sông Lô là một bức tranh:
Sông Lô sóng ngàn Việt
Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u
Thu reo bến sóng vàng
Từng nhà mờ biếc chìm
trong một màu khói thu
Những nét đạm thanh ẩn
hiện trên nền màu mờ nhạt, khi nhịp điệu câu ca loang dần ra xa; những hình ảnh
liên tục tạo ra không gian mênh mông, hoang dại và huyền bí. Khí hậu lặng lẽ và
lạnh lẻo bỗng bừng lên ánh sáng ngọn lửa chiến đấu
Sông Lô sóng ngàn kháng
chiến cháy bờ lau thưa
Tiếp theo là ánh sáng
của bình minh: thiên nhiên như hồi quang ý chí con người. Bài hát trở thành lời
đối đáp giữa ánh sáng và ánh sáng
Ai qua bến nắng hồng
lặng nhìn màu nước sông Lô
Rồi vũ trụ bỗng chan hòa
âm thanh, bao la, rộn rã, của tiếng sóng reo vi vu… gió lá vi vu
Sông mênh mông như bát
ngát hát
Bao rừng thu như bát
ngát cười
Lời hát say sưa ngợi ca
đất nước và con người nhắc chúng ta khí thế lúc đó, như trong thơ Nguyễn Đình
Thi gió thổi rừng tre phất phới. Trong biếc nói cười thiết tha, hay
trong tùy bút kháng chiến của Nguyễn Tuân chúng tôi đang mơ chung một
cơn hỏa mộng…
Văn Cao vẫn bám vào hiện
thực, trong chiến thắng hân hoan, anh nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người
dân buông lưới. Phạm Lương vui bóng chuyền, lều dựng lên ven sông. Phút vẻ
vang, phút hùng tráng là chuyện cực chẳng đã phải làm, để bảo vệ cuộc sống tầm
thường, trong trần gian êm ả
Dòng sông Lô trôi
Mùa Xuân tới
Nước băng qua ngàn
Nước in ven bờ xanh ôm
bóng tre
Trận sông Lô, 1947 là
chiến công đầu tiên của quân đội Việt Nam non trẻ, đặc biệt của ngành pháo binh
mới phôi thai: thời đó, khi sử dụng đại bác bắn vào tàu địch trên sông, ta chưa
biết tính đạn đạo vòng cung, phải kê ngang nòng súng mà bắn như súng trường.
Nhưng chiến công, ngoài tầm quan trọng quân sự, đã có tác dụng tâm lý lớn lao
và gợi cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ.
Về nhạc thuật, Sông
Lô được xem như là đỉnh cao trong sự nghiệp Văn Cao. Anh đã vượt lên
khỏi những tiết tấu đơn giản của ca khúc, đi tới một hợp tấu dài hơi, với nhiều
tầng lớp nhịp độ khác nhau lôi cuốn chúng ta theo điệu nhạc, lời thơ, màu sắc,
như một dòng sông lớn.
Niềm hăng say có lúc chủ
quan và lạc quan quá mức; như Nguyễn Tuân mơ những khải hoàn môn kết
toàn bằng bích đào, Văn Cao trong giai đoạn kháng chiến gian lao, 1949
đã đòi Tiến Về Hà Nội
Năm cửa ô đón mừng đoàn
quân trở về
Như đài hoa đón mừng
Nở năm cánh đào chảy
dòng sương sớm long lanh
Ôi phố phường Hà Nội xưa
yêu dấu
Những bông hoa ngày mai
Đón tương lai vào tay.
Giọng ca đã khác với bóng
xưa ngàn năm, hồ phải khi tàn mơ. Nhưng vẫn sắc đá một niềm tin ôi
Thăng Long ngày mai, xây đắp dưới vinh quang bằng chí anh hùng.
Từ nhận xét này, chúng
ta có thể nới rộng tầm nhìn vào tác phẩm Văn Cao, về nhạc, họa cũng như thơ.
Một toàn bộ phong phú, đa dạng mà lúc nào cũng đặc sắc, chung thủy với vài ba ý
chính và một phong cách riêng. Gắn bó với thời đại, Văn Cao thường xuyên tra
vấn thân phận làm người trong và ngoài lịch sử.
Thơ, nhạc, họa Văn Cao
là những triều sóng triền miên lớp lớp xô buồn vui của đại dương vào với đất
liền. Tác phẩm Văn Cao là hơi thở cuộc sống, ngất ngây giông bão và đằm thắm
trăng sao. Nó chắt lọc nhân phẩm con người để dựng lên tinh hoa của thời đại.
Tác phẩm Văn Cao, còn
lại là đóm lửa Văn Cao. Đóm lửa đâu đây: trong bếp nghèo bến Cảng, trong
núi rừng Việt Bắc hay trong cõi biển rộng trời xa. Một ngọn lửa không quay đầu
theo gió.
Văn Cao, đóm lửa bập
bùng trong ý thức chúng ta.
Đặng Tiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét