Khúc nhạc Trịnh giữa lòng Sài Gòn…
trên cung đàn đá
trăm thanh
Những mặt nước mùa xuân, những mùa hạ
khói mây, những mặt đường lặng câm, những con đường trút lá vàng, những quán
không, những xe ngựa ngược xuôi, những đường trần phù du ôm tóc ngắn, những dấu
chân địa đàng du mục trời mây, những thận phận, tình yêu và chiến tranh cùng
nỗi đau của người mẹ hái trái bí non mang ra phố trong một ngày giã biệt quê
nghèo khói lửa, những em bé lõa lồ khóc tuổi thơ bay… băng qua linh hồn trưa
vắng, băng qua ngón tay phù vân, băng qua nỗi vui buồn của người nghệ sĩ và
băng qua những phút giây ngắn ngủi, hữu hạn trong một cuộc tình cờ nơi mặt đất
quạnh quẽ này… Tôi nhớ mãi rằng có một buổi trưa Sài Gòn như thế!
Người ta vẫn thường nghe nhạc của ông trên nền guitar với những
thang âm dìu dặt, những cung bậc thăng trầm réo rắt, những giọt buồn trắc ẩn và
thệnh thang về một khoảng trời xanh mây biếc âm âm chiều vàng xứ sở nhiệt đới
vui buồn chiến tranh và hội ngộ, đoàn tụ và tha hương, lưu vong và trở về…
Dường như tất cả những âm ba, dư sóng của đời sống này, mặt đất này,
tình yêu này, nỗi đau này đi qua ca từ của Trịnh đều gắn với hơi thở bập bùng
của chiếc đàn nhỏ rất Tây mà cũng rất Việt, dường như ông sáng tác nhạc là để
hát cùng guitar, và trong một ý nghĩa nào đó, guitar sinh ra để hội ngộ
với ca từ của ông cùng tiếng hát Khánh Ly. Giữa một buổi trưa “nắng vàng in
trên tóc”* trên đường phố Sài Gòn xe ngựa ngược xuôi, người chưa kịp nhìn mặt
người đã vội chào nhau bằng một tiếng không lời phía tít mù xa thẳm trí nhớ…
Vòng qua những phố dài, hẽm nhỏ và ngõ cụt, đến Đền Thánh Trần – nơi có một cây
đàn đá, một niềm tin sắt đá, cùng những con người dạn dày sương gió nắng mưa
như núi đá ngồi gõ nhịp đàn, thả lơi bàn tay, buông rơi vài giọt… Trịnh giữa
đời… trên thân đàn đá…
Nghệ sĩ Đức Lộc đang phối ngẫu
trên cung đàn đá 100 thanh.
trên cung đàn đá 100 thanh.
Nói về Trịnh, e rằng đã rất nhiều người; viết về ông, có lẽ con
số bài viết không dưới vài ngàn, hát ca khúc của ông và hát về ông, con số ấy
lên hàng triệu, và hiểu thấu ông, con số ấy sẽ chẳng bao giờ có. Và, với một
bài ngắn của một người có tuổi đời còn rất nhỏ, kiến thức cũng hạn hẹp (trên
mọi nghĩa) trước ông, trước cuộc đời, người viết chỉ xin giải bày những cảm
nhận (cũng rất riêng tư) những gì mình nghe thấy, cảm nghiệm thông qua lần mục
kích sở thị những cung bậc của Trịnh thánh thót, ngân nga trên thân đá, trên
đôi bàn tay chai sần vì đá của những nghệ sĩ đã bỏ gần hết cuộc đời của mình để
chế tác, thử nghiệm và trải nghiệm âm thanh của đá, âm thanh của máu lệ và âm
thanh của trần lụy trên nỗi im lặng của đá, trên nỗi tịch lặng ẩn mình sau câu
chữ Trịnh Công Sơn.
2.
Họ sống trong một căn nhà giọt nát giữa lòng Sài Gòn, căn nhà
nằm liền kề với đền thờ Đức Thánh Trần [cũng giọt nát và ngồi trong nhà có thể
nhìn thấy một ít trời xanh qua những lổ thủng], cây đàn đá nằm chiếm gần hết
không gian của con người, một cây đàn chia làm hai thớt âm dương, được đặt hai
bên bàn thờ theo hướng Đông – Tây tượng trưng cho năm mươi người con theo cha
về biển (Đông) và năm mươi người con ở lại cùng mẹ nơi rừng núi (Tây) theo
truyền thuyết Trăm Trứng Nở Trăm
Con, tượng trưng cho tính hợp nhất Âm Dương Ngũ Hành bởi kết cấu chất
liệu và cấu trúc cung bậc của cây đàn.
Họ đã mày mò suốt hai hai mươi chín năm (1981 – 2009) sưu tầm
từng viên đá, nghiên cứu âm thanh, chế tác bầu cộng hưởng, tạo thân đàn, cân
chỉnh âm thanh, cung bậc để cho ra đời chiếc đàn đá duy nhất và lớn nhất Việt
Nam (cho đến thời điểm hiện tại) có một trăm thanh, có thể phối ngẫu ngũ âm
phương Đông với thất âm Tây phương một cách hài hòa, tròn trịa… Họ làm như vậy
để làm gì ư? Khó mà nói cho trọn vẹn, vì tính thực tiễn của cây đàn hầu như
không có [xét trên mặt thương mại], vì không ai dám mua một chiếc đàn nhìn sồ
sề, cục mịch và nặng nề về nhà đặt ở phòng khách, càng không có mấy người chơi
được đàn đá ngoài chính họ, và nếu muốn học để biểu diễn trên đàn đá thì đó là
chuyện vô cùng khó, ngay bản thân người chế tác đôi khi còn lúng túng khi chơi…
(Và tấm bằng xác nhận Kỷ Lục độ lớn và tính độc nhất của cây đàn đá chỉ mang
lại cho họ một chút niềm vui nhỏ về mặt tinh thần, không hơn không kém…). Nhưng
họ đã làm, với nguyện vọng duy nhất: chơi những ca khúc Trịnh Công Sơn cùng một
ít bản sonnatte dòng cổ điển, và họ đã làm với sự trả giá không hề nhỏ tí nào.
Nghệ sĩ Chí Trung đang phối ngẫu
trên cung đàn đá 100 thanh.
trên cung đàn đá 100 thanh.
3.
Đầu
năm 1981, khi đến báo cáo công trình sáo trúc 16 lỗ trước Viện Âm nhạc Việt
Nam, họ (Nguyễn Chí Trung – Nguyễn Đức Lộc) đã gặp nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, ông
nhạc sĩ Chủ tịch hội đồng thẩm định nghệ thuật [cho chương trình báo cáo của
họ] và là Chủ tịch Hội đồng khoa học về đàn đá đã trao cho họ một thanh đá phát
ra âm thanh của nốt sol với lời nhắn gửi duy nhất là hãy nghiên cứu và chế tác
loại nhạc cụ này. Và thú đam mê của họ trỗi dậy. Nhưng thú đam mê không đồng
hành với những gì liên quan tới nó, họ không có kinh phí để trang trải cho quá
trình sưu tập đá, vợ anh Chí Trung vào cuộc, chị đến Hội Phụ nữ phường, chạy
vạy, vay cho anh mười triệu để lo liệu “việc lớn”. Suốt hai mươi mấy năm ròng,
hai anh Trung và Lộc hết đi tìm đá lại ngồi mày mò đục đá, tiện đá thành từng
thanh nhỏ rồi chỉnh âm, điều âm… Cho đến ngày cây đàn đá trăm thanh ra đời…
Đúng 28 năm dài, 29 năm ngắn. Món nợ mười triệu đồng vẫn còn là nỗi lo và căn
nhà mỗi lúc một thêm giọt nát…
4.
Nhưng khi hỏi về cây đàn đá, dường như niềm vui của một “hành
giả đi trọn con đường” hiện lên trong nét cười của họ, cái nghèo lấp lánh nước
mắt và hạnh phúc của một kẻ trót sinh ra trong thân phận “đến khi thác xuống
vẫn còn vương tơ” trỗ dài trong câu chuyện buồn vui với nhạc Trịnh Công Sơn…
Xác Lập Kỷ Lục - Bộ đàn đá
nhiều thanh nhất Việt nam.
nhiều thanh nhất Việt nam.
5.
Giữa trưa Sài Gòn nắng như rót lửa, họ nhuễ nhại mồ hôi và mĩm
cười, nhìn cây đàn một lúc và bắt đầu những giai điệu âm trầm réo rắt một thời.
Những mặt nước mùa xuân, những mùa hạ khói mây, những mặt đường lặng câm, những
con đường trút lá vàng, những quán không, những xe ngựa ngược xuôi, những đường
trần phù du ôm tóc ngắn, những dấu chân địa đàng du mục trời mây, những thận
phận, tình yêu và chiến tranh cùng nỗi đau của người mẹ hái trái bí non mang ra
phố trong một ngày giã biệt quê nghèo khói lửa, những em bé lõa lồ khóc tuổi
thơ bay… băng qua linh hồn trưa vắng, băng qua ngón tay phù vân, băng qua nỗi
vui buồn của người nghệ sĩ và băng qua những phút giây ngắn ngủi, hữu hạn trong
một cuộc tình cờ nơi mặt đất quạnh quẽ này… Tôi nhớ mãi rằng có một buổi trưa
Sài Gòn như thế!
- Chú thích: * Trích thơ từ Một Buổi Trưa – Mưa Nguồn – Bùi Giáng –
Một buổi trưa nắng vàng in trên tóc/ Mây trên trời xuống phủ ở trên vai/ Màu
phương cảo mờ phai trên nét ngọc/ Bước ngại ngùng nẻo mộng mấy lần sai/ Em có
định sẽ cùng ai kể lể/ Một nỗi đời hư huyễn giữa chiêm bao/ Vừng hiu hắt nguyệt
hờn mây nhỏ lệ/ Một mùi hương hồng tụ ở phương nào/ Đường đi xuống khung đời
sương lổ đổ/ Hờn dung nhan em có chịu bên người/ Con mắt ấy một lần không khép
lại/ Cánh la đà sao chẳng chịu đưa tin… Dẫm trang đời lá rụng úa thu phai.
Phương Ngạn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét