Nguyễn Sĩ Đại và ''Sắc trời thu Hà Nội''
“Dưới sắc cờ và trời thu Hà
Nội” là tập thơ mới của Nguyễn Sĩ Đại ( Nhà xuất bản Hà Nội-2010) ra
mắt đúng vào dịp Đại lễ nghìn năm Thăng Long – Hà Nội. Cái tên của tập thơ đã
nói lên cái cốt lõi của tập thơ và đó chính là nguồn cảm hứng sáng tạo khơi gợi
những cảm xúc, thể hiện những cảm nhận tinh tế, đa chiều về Hà Nội nghìn năm
lịch sử.
Tập thơ 51 bài nhưng có
tới gần 20 bài viết về Hà Nội. Còn hình ảnh Hà Nội thấp thoáng, lung
linh trong mỗi bài như bóng Tháp Rùa ẩn hiện trong sóng biếc Hồ Gươm
thì nhiều lắm. Thế mới biết tình yêu Hà Nội trong Nguyễn Sĩ Đại sâu sắc đến
nhường nào. Dẫu rằng như anh tâm sự: “Hà Nội không phải là nơi tôi sinh
ra. Không phải ai cũng có may mắn đó. Nhưng Hà Nội là nơi tôi có những năm
tháng tuổi thơ học tập sơ tán ở trường Xuân La bên Hồ Tây mênh mông sương khói;
Hà Nội là nơi tôi bước chân vào Đại học; nơi tôi có được tình yêu; nơi tôi “Giã
trang sách trước mùa hoa phượng cháy” để lên đường vào Nam đánh giặc; nơi tôi
về bên Hồ Gươm làm báo suốt cả cuộc đời ở báo Nhân dân”.
Vâng, có mấy ai có cái may
mắn được sinh ra ở Hà Nội nhưng Hà Nội luôn trong trái tim mỗi người dân đất
Việt. Từ mối tình lớn lao ấy Nguyễn Sĩ Đại viết lên những câu thơ bằng tất cả
tình yêu sâu nặng của mình:
“Như bài thơ mang tứ
thuở dời đô
Tôi ấp ủ với mùa thu Hà Nội
Ba mươi sáu đường cờ năm ấy
Sắc đỏ bay trong mắt mẹ
sinh thành”
Câu
thơ xuyên suốt một chiều dài lịch sử của Hà Nội, sâu nặng ân tình mà chân thành
như nói về Mẹ, về Cha, về những gì thân yêu nhất.
“Lời mùa thu em lại hát tôi
nghe
Ô cửa nhỏ đóa cúc vừa trổ
thắm
Mùa thu nay tôi đã đầy đặn
lắm
Hà Nội ơi, Hà Nội giữa tay
mình…”
(Thu nay Hà Nội)
Giữa cái vừa thực vừa ảo
của hình ảnh “em” là một sắc vàng thu cúc, để rồi ta bất ngờ
trước hình ảnh “Hà Nội ơi, Hà Nội giữa tay mình…”. Viết về mối
tình lớn lao nhưng chân thật, hồn nhiên, ẩn chứa trong cái tưởng chừng nhỏ bé
lại là cái lớn lao một cách dung dị như thế phải “có nghề” mới dám viết.
Yêu Hà Nội, Nguyễn Sĩ Đại
xót xa trước những nét cổ kính mang hồn cốt Hà Nội cứ bị mất dần đi: “Chót
vót tháp truyền hình, những mặt hồ bị lấp, mở mắt nhìn không thấy một gương
xanh. Người thành phố giữa hai hàng phố hẹp, Đài Nghiên khô mực tả thanh thiên,
nước thải chôn rùa chôn cả kiếm” – (Mới và cũ, ba mươi sáu phố phường Hà
Nội).
Người ta đôi khi mải mê với
những sự phát triển kinh tế đô thị mà quên đi những cái cần phải bảo vệ. Nguyễn
Sĩ Đại thật tinh tế và sâu sắc tìm trong những rêu phong cổ kính nét đẹp mang
hồn Hà Nội: “Thì vâng đẹp, những tòa nhà đá rửa, nhưng tôi yêu những
vết mực trên tường, có khung cửa cô gái chiều tựa má, thả tóc vào
thăm thẳm trời xanh”. Anh đâu có hoài cổ đến cực đoan, mà anh có cách yêu
Hà Nội theo lối của riêng mình, một Hà Nội dân tộc và hiện đại: “Cái mới tôi
cần, vâng: Cái mới! Cho tôi hết lòng yêu nhiều cái cũ, cũ như là bạn gặp vẫn
chào tôi” – (Mới và cũ, ba mươi sáu phố phường Hà Nội). Thì Hà Nội dẫu
có hiện đại đến đâu mà nếu thiếu đi những Hà Nội trong tranh phố Phái thì rồi
mấy ai sau này biết Hà Nội xưa và nay thế nào và hình ảnh Hà Nội sẽ ra sao?
Nguyễn Sĩ Đại không chỉ
hiểu mà còn thấm vào huyết quản Hà Nội “máu và hoa” trong thăng trầm
lịch sử:
“Dẫu lịch sử ngoằn ngoèo và
khốc liệt
Áo Thăng Long lửa máu vấy
bao lần
Dẫu vua chúa có kẻ từng
theo giặc
Xe ngựa lũ bất tài nhiều
thuở nghênh ngang”
(Hà Nội tuổi ba mươi)
Bởi
tuy có vậy nhưng trong cảm nhận của Nguyễn Sĩ Đại đồng thời đó cũng là thực tế
lịch sử :
“Thì còn một Thăng Long
nguồn mạch tự nhân dân
Cô bán chiếu Hồ Tây biết
dựng nghiệp cùng chồng
Người đan sọt biết trở
thành tướng lĩnh
Xong việc rồi vua gõ mõ nhẹ
nhàng không
Để Hà Nội hôm nay mỗi góc
phố con đường
Những chứng tích dày lên
như dát ngọc”
(Hà Nội tuổi ba mươi)
Thơ đấy mà như tái hiện lại
cả một quá trình lịch sử và cái cốt cách của người Hà Nội được thể hiện sao mà
khéo đến thế!
Yêu Hà Nội, anh mang theo
cả Hà Nội vào chiến trường:
Hà Nội xa rồi, Hà Nội nhớ
tôi không
Thạch đen đá mắt lớp mười
bẻ liễu
Tôi mặc áo Tô Châu cửa ô
nhìn không nói
Đêm Trường Sơn hoa phượng
cứ rơi về”
(Hà Nội)
Cái
cách đặt câu hỏi tu từ ấy càng làm cho người đọc hiểu nỗi lòng của người lính
luôn mang theo hình ảnh quê hương. Và rồi cái ánh “mắt lớp mười bẻ
liễu” thân thương kia và mầu hoa phượng cháy đỏ trong mỗi đêm Trường
Sơn vô cùng ác liệt ấy tiếp sức cho anh cùng đồng đội chiến đấu và chiến thắng.
Từng
là người lính, Nguyễn Sĩ Đại hiểu rõ hơn ai hết cái giá để có hòa bình, anh nói
với con bằng tất cả khát khao và mong ước:
“Con hãy cùng cha ra khỏi
căn phòng
Để nhìn rõ hơn bầu trời và
mặt đất
Rồi ngày mai con vào lớp
học
Có mùa thu nay da diết ở
trong lòng”
(Với con dưới sắc cờ và
trời thu Hà Nội)
Vâng, nếu mỗi người không
ra khỏi “căn phòng” mang đầy cái tôi của riêng mình thì sao có
thể thấy được bầu trời và mặt đất, làm sao có được “mùa thu nay da diết
ở trong lòng”, giản dị như một chân lý mà đâu có kém chất thơ.
Cứ ngỡ nhà báo, lại làm ở
báo Nhân Dân thì thơ anh cũng không tránh khỏi đôi lúc mang hơi hướng tuyên
truyền nhưng thật bất ngờ khi đọc:
“Tóc em và gió hồ
Bay xanh chiều Hà Nội
Tầng không đầy bối rối
Trước một mùa cốm non
Anh đi qua mùa xuân
Anh đi qua mùa hạ
Gặp mùa thu lạ quá
Như lần đầu biết yêu”
Thực,
ảo, riêng, chung hòa quyện rất khéo léo, câu thơ tự nhiên như hơi thở, đẹp như
một ca khúc trữ tình.
Cũng
cái tứ đó, Nguyễn Sĩ Đại tâm sự với mối tình của mình, mà Hồ Gươm như một chứng
nhân đau đáu một nỗi niềm cùng anh:
“Nắng rót giơ tay là hứng
được
Chốn em đã có níu chân
người?
Hồ Gươm như thể con mắt ướt
Nằm nhớ xa xanh dưới đáy
trời”
(Hồ Gươm nước biếc chiều
nay lắm)
Tôi tin chắc nơi Hồ Gươm có
rất nhiều kỷ niệm trong anh, dẫu ai cũng hiểu Hồ Gươm với Tháp Rùa như trái tim
Hà Nội. Để dẫu khi có một mình dạo bước, anh vẫn tìm về những kỷ
niệm trong sáng đầy trong ký ức, rồi yêu người, yêu Hà Nội một cách hồn nhiên:
“Có phải em vừa đi qua đây?
Mà Hồ Gươm sóng nước dâng
đầy
Mà xôn xao gió bâng khuâng
liễu
Hà Nội muôn đời ta đắm
say…”
(Hồ Gươm nước đầy)
Như
anh từng thổ lộ: “Hà Nội là nơi tôi có được tình yêu”, tôi
hiểu đấy không chỉ là tình yêu theo nghĩa thông thường, mà lớn hơn đó là tình
yêu quê hương đất nước nhưng trong thơ anh cái chung và cái riêng hòa vào nhau,
nâng lên một tầm cao mới:
“Mùa thu dừng lại ở Long
Biên
Mùa thu dừng lại ở mắt em
Ta không đừng được, không
đừng được
Vĩnh viễn mùa thu một nỗi
niềm”
(Mùa thu dừng lại)
Anh nói mùa thu dừng lại ở…
khiến người đọc hơi ngỡ ngàng nhưng rồi khi ta đọc câu: “Ta không đừng
được, không đừng được” mới hiểu và đồng cảm cái tình thôi thúc mãnh
liệt ở trong anh với Hà Nội: “Vĩnh viễn mùa thu một nỗi niềm”.
Chính tình yêu Hà Nội vĩnh
viễn một nỗi niềm trong anh đã trở thành động lực trong suốt hành trình sống,
học tập, phấn đấu và yêu của anh. Hiểu anh, ta càng đồng cảm và chia sẻ ước
mong được cống hiến, được đóng góp cho Hà Nội:
Tôi biết Hà Nội vẫn còn em
Còn tất cả dịu dàng và mơ
mộng
Dẫu Hà Nội nhìn tôi trong
phố cao, nhà rộng
Với sông Hồng, tôi ngấn một
phù sa”
(Với sông Hồng tôi ngấn một
phù sa)
Trong
tập thơ đôi câu, đôi chỗ vẫn chưa thoát ra được sự khuôn sáo và gợn sạn, gọt
giũa chưa được công phu nhưng không vì thế mà làm giảm giá trị của tập thơ, bởi
những giá trị biểu cảm và mỹ cảm. Tập thơ “Dưới sắc cờ và trời thu Hà Nội” của
Nguyễn Sĩ Đại thêm một tiếng lòng ngợi ca Thủ đô yêu dấu. Thơ anh giầu hình
ảnh, nhịp và nhạc, luôn tìm tòi cách thể hiện, kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm
hứng trữ tình thế sự và cảm hứng trữ tình công dân, làm nên một tiếng thơ khá
độc đáo. Nhiều bài tạo nên không gian đa chiều, đem lại những hiệu quả cảm thụ
bất ngờ. Một Hà Nội bộn bề những chứng tích rêu phong cổ kính, một Hà Nội hiện
đại đang từng ngày vươn tới những tầm cao, một Hà Nội vẹn nguyên trong tâm hồn
những người dân đất Việt hiện lên tinh khôi như mối tình đầu và những con người
Hà Nội đang ngày đêm lặng thầm cống hiến vì một Hà Nội dân tộc và hiện đại.
Hoàng Đạo Chúc - Trần Vân Hạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét