Kể ra gần cả đời anh tôi
chỉ hai lần nhập viện và phải xa bến sông trước mặt nhà anh lâu nhất. Bất đắc
dĩ gần như bị đám cháu trong nhà, gần nhà, vừa ngọt lạt vừa trì kéo hả hơi
anh mới chịu ngồi xuồng gắn máy ra tới Bệnh viện tỉnh.
Lần thứ nhất, xa bến sông
hơn nửa tháng, tuy chưa dứt hẳn cơn bệnh hiểm nghèo nhưng anh được trở về
nhà. Những ngày đau yếu ở nhà, anh thường bước liêu xiêu tới trước mái hiên
nhìn đau đáu xuống bến sông mà ở đó chỉ một chiếc xuồng be mười kèm với cái
mui kết bằng lá dừa nước khom khom, neo đậu. Lẻ loi một cây nạng gỗ khẳng
khiu với chiếc gàu lá tát nước xuồng.
Lực bất tòng tâm là như vầy
sao? Anh nghĩ. Thường thì giữa hai vụ lúa ngắn ngày trong năm, thôi lẽo đẽo
sau vườn, ngoài ruộng, anh nhảy độp xuống xuồng chở chuối đi đổi lấy muối
Long Điền về bán kiếm lời. Loại chuối Khánh Bình được ủ chút phân dớn U Minh
ra trái no tròn, vỏ căng thâm thâm bán chạy nhất vùng biển mặn, nên mỗi chuyến
đi anh tôi mang về vài tấm lợp, vài bao xi- măng, mấy trăm viên gạch nhấp nhử
từng hạng mục sửa sang ngôi nhà mái “tôn” vách lá của anh. Anh cứ phải dạng
đôi chân trên sạp xuồng, hai tay quạt hai mái chèo theo dòng nước chảy xuôi để
dành dụm phần xăng cho chiếc máy Kô-le cũ kỹ chạy ngược dòng...
Rồi lần thứ hai nhập viện,
sức khỏe anh tụt giảm đến mức lo ngại. Nhiều lúc trong cơn mê sảng anh gọi
con giật giọng : “Thằng Bé, thằng Toàn, con Tùng chết đâu mất hết rồi, ra đây
phụ kéo chiếc xuồng xuống bến chút coi. Mau lên!”. Từ chỗ nằm nghiêng, anh cố
vặn mình ngửa người trên giường, hỏi nhỏ : “Tới đâu rồi vậy? Chợ Tắc Vân?
Không, a hây, chợ Hộ Phòng!...” Lại quát: “Dẹp hết thứ nước lọc trong chai ấy
đi, sao bằng nước mưa! Tốn kém lắm!. Chở tới đây cho tao một lu nước mưa uống
mới đã khát, thằng Bé có nghe chưa vậy?” Không chờ ai đáp, anh nhìn mọi người
chung quanh bằng ánh mắt vô cảm. Người anh gầy guộc, khô quắc nằm thiêm thiếp
như ngọn đèn leo lét sắp tắt lịm lúc nào không biết...
Rồi cho đến sáng sớm hôm ấy
tôi được chứng kiến toàn cảnh “lo lui” của một gia đình nạn nhân đau đớn và
thất vọng biết dường nào : Những gương mặt ngơ ngác, thất thần của đám cháu
tôi. Những túm ni-lông, giỏ xách, thuốc men... trở nên vô dụng lăn lóc dưới nền
gạch. Khuôn viên bệnh viện sau những cơn mưa dầm buổi sớm im vắng lạ thường.
Trên chiếc xe ba gác được một người đàn bà đẩy đi hối hả, anh nằm ngửa mặt
lên bầu trời ong ong đang rắc đầy bụi mờ. Lại mưa. Tôi lặng lẽ bước theo sau
chiếc xe ba gác dưới cơn mưa lất phất xuống tận bến sông trước cổng Bệnh viện
ở cuối đất cùng trời nầy.
Thêm một bến sông lạ lẫm
đưa tiễn người về bến sông!
Đám tang anh tôi được nhen
nhóm trên một sân phơi nối liền ra bến sông trước mặt nhà anh, giữa vườn cây
trái tối mờ, lặng lẽ. Mọi việc diễn ra như có sự xếp đặt trước của gia đình
theo lời trăn trối khiêm nhường của anh: Đơn giản từ mái che tiếp khách, từ cây
tre cây trúc trong vườn đến ông thầy cúng là ông già Ba Khía tốt bụng, năng nổ
với cái ca i-nox thường được vắt sau thắt lưng lính Mỹ chết trận làm mõ tụng
kinh. Còn mươi mười người chấp sự lễ tang toàn tốp cháu gọi tôi bằng chú Út,
cậu Út : Một thằng Đoàn con chị Ba điều khiển cánh độ tỳ. Em kế Đoàn – thằng
Thể – khư khư giữ dùi trống. Còn “Thắng Ngã Ba” thay mặt chính quyền ấp lăng
xăng hỏi tôi về vài đặc điểm gia cảnh của anh tôi để điền vào khoản chừa trống
trong bài Điếu văn viết sẵn dành cho tất cả người cao tuổi trong vùng từ trần.
Việc đâu vào đấy.
Dưới mái che ngột ngạt,
người đứng người ngồi bít hết khoảng sân phơi, tràn ra con lộ trải bê-tông chạy
vòng vèo qua xóm. Nổi bật lên giữa đám đông là chú Sáu tôi với mái tóc bạc trắng
như đội trên đầu thúng bông, lồng ngực ông già được cài vào chiếc máy trợ tim
để từ Sài Gòn ngồi suốt chuyến xe đêm về tới nơi tiễn biệt cháu. Cảm động,
nhoi nhói đau trong lòng nhiều người ở chốn quê, có cả tôi, về sự có mặt của
chú Sáu người gần gũi, san sẻ với anh chị tôi thời niên thiếu, nhiều nhất
chính là anh Tư Trí mới vừa từ trần.
Là đứa cháu trai được sinh
ra sau hai người chị gái ở làng Tường Lộc, huyện Tam Bình, Vĩnh Long, anh Trí
được sự chăm sóc, nuông chiều của ông bà nội, của chú Sáu. Và mặc dù sau nầy
có thêm hai đứa em trai – Năm Thức, Sáu Thạch – anh Tư Trí vẫn được ông bà nội
cưu mang cho đi học hết bậc Tiểu học, nói được tiếng Tây vanh vách...
Đinh ninh thằng cháu trai
cao bay xa chạy trên đường đời tại làng Tường Lộc, hoặc an cư lạc nghiệp ở
làng Bình Ninh, Thiện Mỹ, ông bà nội tôi không ngờ cha tôi im ỉm làm nghề thợ
sơn, làm cò tàu khách chạy đường Trà Ôn – Tam Bình dám làm chuyện động trời động
đất đành tạm cắt đứt con đường tiến thân của anh tôi. Ông bà nội tôi bị một
phen lo sợ cuống cuồng khi nghe tin cha tôi cùng đồng sự với dao rựa, gậy gộc
lấy đồn Mã Tà cắm trên bờ sông Trà Luộc buộc cả nhà phải đi lánh nạn.
Trên chiếc ghe lườn chở khẳm
người và đồ đạc lỉnh kỉnh, ba tôi thường đứng đăm chiêu ngắm chân trời phía
Tây vừa giục vừa khuyên anh chị tôi thay phiên nhau chèo. Dọc đường, anh Trí
thường vùng vằng đòi ăn cá hấp trên lớp lá mía, món bà nội tôi thường làm. Chị
Ba tôi hồn nhiên, liến thoắng hay đứng cầm cán chèo lái đẩy tới nhịp nhàng,
đôi chân nhún nhảy giả làm đồng nhi dâng đèn cúng để mẹ tôi đỡ buồn. Nổi lên
anh Thức, anh Thạch trên đường tản cư khăng khăng giữ lấy cây chèo mũi, ít chịu
thay chèo cho các chị. Riêng anh Thạch gồng lưng dưới trời mưa nắng, trơ trơ,
lầm lũi đứng mũi chịu sào suốt mấy ngày liền.
Chiếc ghe chậm rãi đi vòng,
đi tắt. Ghe theo sông, bám sông... Cho đến một bến sông im vắng, ghe dừng.
Đó là một vàm rạch nhỏ – Rạch
Rập – có miễu Ông Bổn nằm ở ngoại ô khu chợ Cà Mau thưa thớt dân cư. Nhờ một
ít vốn liếng của ông bà nội gởi cho, cha tôi quyết định dựng lên tại đây một
Trại mộc. Cha mẹ tôi vẫn chưa hết lo lắng nhưng tạm yên vì gia đình coi như
chấm dứt cảnh tản cư lênh đênh trên sông nước. Tôi được sinh ra trên nền đất
cạnh miễu Ông Bổn, được chào đời trong nhiều nỗi truân chuyên, nghiệt ngã
chen lẫn niềm vui, hạnh phúc của gia đình mới vừa nhen nhóm sau sự cố tản cư.
Nhưng rồi không lâu, lúc tôi chưa đầy tuổi thôi nôi, cha và hai người anh
trai – anh Trí, anh Thức – bị Tây bắt áp giải về Bạc Liêu giam cầm. Mẹ và anh
Thạch phải nhờ chiếc ghe lườn nhàn nhã neo đậu dứơi bến để lên
lên xuống xuống Bạc Liêu thăm nuôi cha và hai anh tôi. Một lần đi
như thế, sức khỏe đôi mươi mười tám của anh Thạch không vượt nổi cơn cảm lạnh
đột ngột và bị chết dọc đường!
Hơn một năm ngồi tù, cha
và hai anh tôi được thả. Lập tức, theo hướng sắp xếp của cha: Tháo dỡ Trại mộc
và rời bỏ ngay vàm Rạch Rập đi miết tới bến sông trước mặt nhà anh tôi bây giờ.
Được Cách mạng cấp cho phần
đất thênh thang tới mấy mẫu nhưng bước đầu mỗi hộ dân chỉ cần một lõm trống dựng
nhà. Dựng nhà xong, anh chị em tôi ngâm ngấm nhớ anh Thạch, tuy biết rằng anh
Sáu Thạch không về với anh em tôi nữa! Nỗi nhớ người anh em xấu số chưa
nguôi, kế đến phải tạm chia xa vài người thân quen vì chén cơm manh áo lúc bấy
giờ. Chưa kể cha tôi tìm về cơ quan Kinh tài tỉnh ở tận Kinh Năm, Cái Keo.
Còn lại nhà có cả thảy năm anh chị em mà người lớn nhất là anh Tư Trí của
tôi.
Anh Trí gồng vai gánh vác
công việc nhà càng tăng thêm tính khí nóng nảy, vội vàng và thường hay cáu gắt
với chị em tôi. Nhất là chị Tám hiền như cục đất thường hay nhớn nhác, sợ hãi
mỗi lần anh trai sai bảo. Ngược lại, chị Bảy, chị Chín ngang ngạnh, bướng bỉnh
không sợ anh nhưng vẫn thương anh vì thấy ông anh làm ăn đầu tắt mặt tối,
không rượu, không trà, không hút thuốc. Mà thật vậy, thay vì theo mẹ tôi mua
gánh bán bưng, đằng nầy anh Trí mày mò tập đóng đàn, loại đàn thông dụng nhất
thời chín năm kháng Pháp – đàn măng-đô-lin.
Không rõ anh móc nối từ
đâu có gỗ thao lao về làm thùng đàn? Còn bộ khung lẫn cần đàn chỉ dụng cây
sung, cây gừa, mù u rải rác trong nhiều khu vườn tạp. Chất keo dán gỗ là bong
bóng cá đường ở vàm biển sông Ông Đốc mang về nấu bã ra rồi đổ vào cối giã
cho đến khi bong bóng thành chất keo kết dính.
Chín năm kháng Pháp thiếu
thốn, gian khổ nhưng vui. Phong trào văn nghệ Cách mạng lan tỏa ra khắp vùng
rộng lớn. Cánh chơi đàn măng-đô-lin, ghi-ta từ ngã ba xóm thả ra vàm rạch nhập
với cánh anh Chín Lợi, Út Đính con ông Hai Thưởng và chị Hai Màu đàn hát, nhảy
múa, diễn kịch từ trong nhà ra tới sân khấu ngoài trời.
Anh Trí nhút nhát không
quen sáp vào chỗ đám đông, nhưng lạ kia, nhiều lúc anh dẹp ngang công việc
đóng đàn chạy đi nói tiếng Tây tiếng u vanh vách với vài hàng binh người Pháp
chính hiệu. Anh đối thoại trực tiếp, thậm chí còn làm phiên dịch nhiều lần
trôi chảy khi người ta cần tới anh. Cộng với thời hoàng kim của loại đàn
măng-đô-lin khiến nhiều người ngỡ ngàng và quan tâm tới “Tư Đờn” – một cái
tên mới do bà con trong vùng đặt cho anh – Trong số người đặc biệt quan tâm
anh Tư Đờn, đáng kể nhất là chị Hai Màu nhà ở giữa xóm.
So với Út Đính mặt sáng
trưng như trăng rằm, vẻ đẹp phơi bày rạng rỡ dễ nhận từ xa, ngược lại, chị
Hai Màu không trội hơn Út Đính bề nổi, chị Màu có nước da ngăm ngăm duyên
dáng bề chìm, nhìn lâu thấy ngấm nhờ mọi đường nét trên gương mặt chuẩn mực,
hài hòa từ sóng mũi thẳng, mặt trái xoan tươi tắn, đôi mắt hạt nhãn long
lanh... Cùng tuổi với chị Bảy tôi – tuổi hai mươi – nhưng chị Màu cao lớn phổng
phao, đầy đặn, khiến anh tôi để tâm nhiều đến chị.
Là thợ đóng đàn
măng-đô-lin nổi tiếng, anh tôi còn biết đánh đàn, dạy đàn. Cách vài ba hôm có
một lần chị Hai Màu tới nhà nhờ anh tập cho chị đánh đàn hoặc anh ngồi đàn
cho chị hát. Trứơc những đôi mắt tò mò, tinh nghịch của ba bà chị tôi thường
thì giữa giờ dạy đàn, hai người nhìn nhau đăm đắm. Chị Màu dạn dĩnh, hồn
nhiên, có lần nhìn anh, hỏi : “Anh Tư Đờn giỏi chữ nghĩa ghê, lại còn biết
làm tính nhân, chia, trừ, cộng, nhưng tại sao anh Tư không đi làm Kinh tài
cho dân nhờ?” Nghe hỏi, anh tôi nhún vai, lắc đầu: “Ai cũng đi làm cán bộ hết
lấy ai làm dân? Thà làm dân thường, sướng!...” Nghe vậy, chị Màu hỏi gạn :
“Không đi làm cán bộ nhưng cô Bảy nhà nầy xuống Cái Keo chỗ bác trai ở học dệt
vải được không?” Nghe chị Màu hỏi, anh tôi chúm chím cười. Anh nở gan nở ruột
vì thời quần bô áo bố mà trong nhà có người đi học dệt vải. Gái quê học dệt vải
sang không thua gái Sài Thành! Anh nghĩ. Thay vì trả lời từng câu cụt ngủn,
anh tôi đáp thao thao: “ Được thôi, là vì trước hết nhà bớt một miệng ăn, kế
nữa cô em có nghề. Làm dân thường biết thêm nghề, càng sướng cái thân. Nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh mà!” Chị Màu nén cười, thôi hỏi anh điều gì nữa rồi
tiếp tục ngồi học đàn.
Qua vài lần gần gũi, thân
tình với chị Màu, tính tình anh tôi đổi khác. Khó đăm đăm, cau có, gắt gỏng
là lẽ thường, nhưng nay đang nắn nót cần đàn, vô trục đàn, anh thường dừng
tay ngồi ngong ngóng nhìn sang bên kia sông...
Vẫn trên nền đất của ông
Hai Thưởng ngang mặt nhà tôi, ngoài anh Chín Lợi, chị Út Đính nay có thêm vài
đứa con ông Thưởng về đây mở lớp dạy học. Vẫn cánh chơi đàn ở ngã ba kéo ra.
Sân nhà ông Hai Thưởng biến thành một tụ điểm vui chơi văn nghệ.
Chị Hai Màu vài lần từ chối
không lên sân khấu ngoài trời song ca với chị Út Đính, loáng cái, chị Màu lẩn
vào đám đông rồi len lỏi xuống bến sông bơi xuồng sang nhà tôi. Ai chứ chị
Màu tới nhà tôi bằng đường sông đều bị mấy chị tôi phát hiện ra từ dưới bến :
Tiếng khua xuồng lụp cụp, chẫm rãi nghe khác lạ. Nếu không nghe được tiếng
khua xuồng cũng nhờ đêm trăng sáng, nhờ cây bần ổi lập lòe ánh đom đóm, thêm
nữa, do xuồng chị Màu khép sát sạt vào voi lá dừa nước làm vài con chim vỗ
cánh vụt bay lên. Biết mẹ tôi vắng nhà, tiếng chân chị giẫm thình thịch, gọi
tiếng lớn: “Bảy, Tám, Chín đâu? Còn ông già háp Tư Đờn ngủ, thức? Dậy hết đi!...”
Chưa nghe tiếng ai đáp nhưng nổi lên tiếng cười khúc khích, khe khẽ của mấy
người chị tôi nơi nghạch cửa. Không đợi anh tôi thắp ngọn đèn mỡ cá soi đường
như mọi khi, chị Bảy tôi tiến ra trước liền bá vai chị Màu đưa vào nhà. Gian
nhà im vắng lúc đầu hôm bỗng chốc vỡ ra tiếng cười tiếng nói toàn giọng nữ y
hệt tiếng vịt đàn tao tác lên đồng.
Anh tôi không dự vào chuyện
của phái nữ nhưng ngồi chờ chực kề bên cây đàn măng-đô-lin. Chị Màu giữ ý đợi
cho đám đông ngang sông thưa dần, tan hẳn, chị mới tự nhiên kéo mấy chị em
tôi ngồi vào chỗ chị. “Ba cây văn nghệ nghiệp dư” trong nhà tôi luôn nhường
cho chị Màu. Giọng nói thơ Bạc Liêu là đà, trầm bổng quen thuộc toát lên từ
bài ca vọng cổ bị cấm kỵ lúc bấy giờ, chị Màu dạo đầu, anh tôi nhanh nhảu lướt
mấy ngón tay trên phím đàn đuổi kịp lời ca của chị :
“Con ra, mà, mặt trận, giữ
gìn biên cương
Thà rằng chết ở chiến trường
Còn hơn, mà, chết ở trên
giường thê nhi
Phản công súng nổ đì
đùng...”
Chị Màu thường lập lại đôi
lần bài hát theo điệu nói thơ Bạc Liêu rồi chuyển sang bài khác. Anh tôi chịu
khó ngồi hằng giờ tập cho chị Màu quen với tiếng đàn, nhịp đàn. Tiếng đàn
măng-đô-lin của anh không được dòn tan, réo rắt như anh Bá, anh Xiếu ở ngã ba
xóm nhưng kết dính, nâng bổng tiếng hát trong trẻo, miên man của chị Màu.
Càng gần tới ngày hai chị
em đi học dệt vải, chị Màu thường lui tới nhà tôi, chơi thân với chị Bảy tôi.
Mỗi lần chị Màu lội xuống biền lá đốn ráng bó chổi, chị Bảy lẽo đẽo theo sau
tuốt lá ráng, gom ráng lên bờ. Chị Màu càn lướt trên thảm cỏ bắt con cào cào
làm mồi câu cá, chị Bảy lom khom vẹt vùng trên thảm bèo cám, lục bình cho chị
Màu thấy chỗ bỏ câu...
Rồi cho tới một hôm quá buổi
trưa, hai người còn nấn ná dưới lùm trâm bầu trên bờ đìa tận hậu đất vì một
câu chuyện dính dáng tới anh tôi. Chị Hai Màu chưa nói đã sụt sịt khóc : “Bảy
coi, mới nói sơ sơ nhờ ảnh lấy xuồng đưa tụi mình xuống Cái Keo, ảnh quạu...”.
Chị Màu dừng. Khi đó, chị Bảy tôi bủn rủn tay chân đánh rơi giỏ cá rô xuống đất.
Chị Bảy giục: “Rồi sao nữa, bà nói thiệt, nói mau nghe coi?” Vốn không giấu
giếm chuyện lớn chuyện nhỏ với chị Bảy, chị Màu đứng buồn buồn, kể lể một
thôi dài: “Bảy coi, ảnh quạu ngang là một chuyện, chuyện thứ hai ảnh còn than
rát ruột nào là mất mấy ngày đi, ngày ở, ngày về, thay vì ở nhà đóng hai cây
đờn đổi lúa đủ ăn tháng giáp hạt...” Chị Màu nói xong, cả hai người bạn gái đứng
trơ ra, ngơ ngác...
Nhờ ngày mở lớp dệt vải
lùi lại khá lâu khiến câu chuyện mới vừa xảy ra giữa anh tôi và chị Hai Màu
được dàn xếp êm thấm qua mấy người chị tôi. Riêng chị Hai Màu giỏi chịu đựng,
nhẫn nhịn trở lại một mực yêu quí anh tôi như lúc ban đầu.
Tưởng vậy đã xuôi chèo mát
mái, đã yên, nào ngờ lại xảy ra chuyện khác, trầm trọng và tổn thương đáng tiếc.
Đó là một lần chị Màu lỡ hẹn với anh vì chèo chống lo công việc nhà, đường xa
không về kịp, hôm sau mới trông thấy chị Màu bơi xuồng tới bến sông, từ trên
bờ anh tôi đã xỉa xói: “Dừng lại đi... Tôi cứ tưởng cô đã chết rồi! Cám ơn
cô”. Chị Màu nghe giật thót người, buông dầm, một tay đỡ lấy vành nón lá hiện
ra gương mặt ngơ ngác, đanh lại. Anh tôi vẫn chưa chịu dừng, mặt nghệch ra,
ngầu ngầu giận dữ. “Salut mademoiselle. Tu es une jemme ignorante” (Chào cô!
Cô là một người vô học). Lại thêm một câu tiếng Tây khô khốc nghe chói tay.
Chị Màu không hiểu được gì, và lần nầy chị Màu quày quả bơi đi. Không rõ vì sợ
hãi, bực dọc hay khinh khi anh tôi mà chị Màu cứ cắm cúi bơi miết, không một
lần nhìn ngoái lại bến sông, chỉ một lần thôi, vẫn không.
Anh tôi ân hận nhưng không
còn kịp nữa! Ngày chị Hai Màu và chị Bảy tôi xuống Cái Keo học dệt vải, cả
hai, lánh mặt anh lúc ra đi khiến anh tự đánh mất một dịp tặng cho chị Màu
khúc vải chăn đầm hồi còn ở làng Tường Lộc được anh cất kỹ lâu nay. Thì ra
con người ta thà cắn răng chịu đựng, vượt qua cơn đau đớn tột cùng do những vết
thương trên thân xác còn hơn buộc phải nghe những lời phỉ báng cay độc làm
băng hoại, tiêu tan tình cảm, tâm hồn con người! Anh tôi ân hận và bị ám ảnh,
đau day dứt suốt đời chỉ vì lỡ lời với người thân yêu nhất.
Gần năm mươi năm rồi chứ
ít gì. Sau khi mãn lớp học dệt vải, do hoàn cảnh bức bách chén cơm manh áo
lúc bấy giờ, gia đình chị Màu giã từ xứ sở đi tìm nơi khác sinh sống. Xa lắm.
Còn chị Ba, anh Thức, giờ đến lượt anh Trí lần lượt theo anh Thạch về cõi
vĩnh hằng. Ai cũng có mồ yên mả đẹp, còn anh Sáu Thạch của tôi... một lần
chính bến sông nầy chứng kiến cảnh bốc mộ trở về tay không và nỗi thất vọng tột
cùng của anh chị, của đám cháu tôi và bà con láng giềng đứng ngồi chờ chực
đón rước hài cốt anh Thạch về chôn cất sau vườn.
Ơi, một bến sông đã có
trăm nghìn lần vơi đầy theo nước ròng, nước lớn. Bến sông vẫn còn cái voi lá
già nua, lụ khụ. Vực đất có cây bần ổi đêm đêm lập lòe ánh đom đóm đã bị bom
Mỹ bứng đi. Thay vào vạt lá mái dầm, bèo cám, lục bình xanh rập rờn là một bến
nước rộng dài với thảm rong đá nhuốm phèn vàng ố đang lao xao sóng vỗ...
Tôi ngồi trên sạp ván lạnh
lẽo trong mui xuồng của anh tôi dưới bến sông, vừa ghi mấy dòng vắn tắt theo
yêu cầu của Thắng vừa đảo mắt tìm vài người quen năm nào thường xuất hiện trên
nền đất ông Hai Thưởng ngang mặt nhà tôi, nhất là chị Hai Màu ngồi đứng chỗ
nào, chị Màu thay đổi ra sao lúc tiễn biệt anh tôi?!...
Lễ an táng anh tôi bắt đầu
cử hành.
Buổi chiều, sau những đám
mưa tháng tám dầm dề, bầu trời trong xanh, nắng chói chang khiến trên mái che
như có ai thắp lửa. Trên nền sân phơi, người đứng người ngồi chộn rộn dịch ra
hai bên chừa lối đi cho cánh độ tỳ gồm hai mươi trai trẻ rặt người trong xóm
sầm sập tiến vào. Không đợi ông già Ba Khía chấm dứt mấy hồi kinh
dài thậm thượt cho người thân cúi lạy lần cuối cùng trước khi linh cữu được
rước ra phần mộ, “Thắng Ngã Ba” áo trắng cộc tay bỏ vào thắt lưng gọn gàng,
nhanh nhảu bước ra trước đám đông. Không khí lễ tang lặng đi một lúc. Liền đó
Thắng lấy giọng đọc hùng hồn và khá trôi chảy bài Điếu văn bằng những câu chữ
suông sẻ nhưng không thể giữ yên được đám đông. Thắng đọc xong, đám đông liền
bị cuốn vào người điều khiển dàn độ tỳ. Với hai binh khí là hai cây roi lửa
vung vẩy trên tay, mặt vẽ vằn vện, thằng Đoàn hiện nguyên hình vai Vinh Quang
mà người ta thường găp trong nhiền đám tang ở quê.
Vinh Quang đi rảo giữa hai
hàng độ tỳ, mắt nhìn nẩy lửa về hướng vai ma quỷ mà người sắm vai ma quỷ lại
là một anh chàng ăn chay trường quá chén, cố uốn lượn một cách thành thục, điệu
nghệ. Nhưng tiếc thay, giữa chừng, vai ma quỷ khuỵu xuống. Chớp lấy thời cơ, Vinh
quang vung vẩy hai roi lửa tả xông hữu đột từ ngoài sân vào tới chỗ đặt linh
cữu. Mới tập sự điều khiển độ tỳ đầu hôm sớm mai, dư biết cậu mình thích đi
sông nước, Vinh quang chăm chút hai cây roi lửa; roi lửa kết dính vào hai
cánh tay khuỳnh ra quạt hai mái chèo đi trừ khữ loài tà ma sống trên sông nước.
Lại áp sát chung quanh linh cữu, Vinh Quang nhảy múa bằng đôi chân đôi tay cứng
cáp, bằng linh thể bên trong toát lên hết trên gương mặt hung tợn, áp đảo.
Sau nốt, quỳ trước linh cữu, với hai binh khí bốc lửa phừng phừng, Vinh Quang
hô lớn : “Ta đây đã dẹp xong ma quỷ cùng cô hồn các đản trên sông ; xin được
ngày giờ rước linh cữu lên đường. Cẩn cáo!...”
Lập tức, hai hàng độ tỳ sầm
sập bước tới... Thoáng chốc, đám cháu tôi như ổ kiến vỡ, gào khóc lăn quay
hai bên linh cữu. Trên đường ra phần mộ, vài đứa cháu gái rời linh cữu, coi
như đã mất cha, chạy sấn tới ôm ghì chú Út.
Tôi bị rớt lại nơi đầu
hiên nhà, kịp nén cơn xúc động và ngẩn người vì vừa nhận ra một người khách đến
muộn. Người đến trễ tràng, trời đất ơi, đó chính là chị Hai Màu thuở nhỏ của
tôi. Chị Màu hóa thành một bà già ngồi đò dọc, cổ choàng khăn đen, đầu đội
chiếc nón lá ngơ ngác nhìn bến sông nửa quen nửa lạ. Nghiệt ngã làm sao cái số
kiếp con người hẩm hiu, bé nhỏ: Anh tôi sắp nằm yên nghỉ vĩnh viễn dưới lòng
đất, còn chị Hai Màu rong ruổi mới vừa tới bến sông!.
Khánh Bình, cuối năm 2002
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét