Đó là những này mưa dài.
Đêm mưa hôm đó tôi đứng giảng
bài cho một lớp của trường bổ túc văn hóa. Tiếng mưa rơi vang động, dữ dằn
trên mái tôn làm mờ tiếng nói của tôi. Ngực tôi mòn đi vì cố nói thật to. Dưới
chân tôi là nền đất nhão, đất bết vào dép thành những mảng bè ra. Bên ngoài
trời tối đen. Thỉnh thoảng, qua ánh chớp, tôi thấy những hạt mưa trong vắt
rơi mau. Tôi nhìn xuống những học sinh của tôi. Tất cả học sinh trong phòng
nhỏ này đều cố gắng một cách nhọc nhằn để hiểu những lời giảng, ghi nhớ những
ký hiệu được quy ước. Ngoài phố kia, vẫn trong đêm mưa này, người ta đang ngồi
nhâm nhi cà phê, người ta đang ở trong phòng tắm hơi sang trọng, người ta
đang yêu nhau... - Dòng đời đang tuôn chảy một cách náo nhiệt, rát bỏng. Nó
quay con người, nó cuốn con người tuôn theo dòng chảy ấy. Thế mà, thầy trò
chúng tôi vẫn trong căn phòng tẹp nhẹp này như biệt lập với dòng đời có thực
kia... Liệu sự cố gắng của chúng tôi có vô vọng không? Câu hỏi tự dưng vang
trong đầu tôi, khiến tôi thả rơi viên phấn. Nó rơi nhẹ nhàng xuống nền đất ướt
không một tiếng động. Nhưng cái vạch trắng theo đường rơi của nó cứ dính vào
đầu tôi. Dường như tất cả những ánh mắt phía dưới đều nhìn thấy cử chỉ ấy của
tôi. Chúng tôi cùng im lặng. Sự im lặng đẫm đầy cô đơn, có thể bật khóc được.
Chúng tôi im lặng như thế
cho đến lúc ra về. Trời đã ngớt mưa. Đường phố gần như sũng nước. Tôi ngước mặt
đón những sợi mưa nhỏ. Thần kinh tôi dịu lại. Tôi nghe tiếng chân người đi
phía sau tôi đang bước nhanh lên. Một người đến bên cạnh và kêu nhỏ: “Thầy!”
Nghe giọng nói quen, tôi thốt: “À! Dũng. Đêm nay em ngủ đâu?” Dũng đáp: “Dạ,
em ngủ ở nhà người bạn”. Nơi làm việc của Dũng cách thị xã gần hai mươi cây số.
Để theo học lớp bổ túc văn hóa ban đêm này, buổi chiều Dũng phải đạp xe hết
quãng đường ấy để đến lớp. Khi tan học, Dũng tìm một nơi nào đó để ngủ qua
đêm. Sáng hôm sau, Dũng thức thật sớm đạp xe về nơi làm việc. Có nhiều buổi sớm
mai tôi gặp Dũng trên đường trở về nơi làm việc, đôi mắt Dũng còn buồn ngủ, đỏ
hoe...
Tôi định rẽ vào quán cà
phê mua một bao thuốc đen. Dũng kéo tay tôi lại: “Đừng mua ở đây. Khi đi
ngang qua người bán thuốc lá nào nghèo nhất, hãy mua. Mình mua giúp họ!” Tôi
ngạc nhiên. Chúng tôi đến góc đường trước mặt. Một em bé gái đang ngồi run
sau tủ thuốc, cả người em ướt mưa, Dũng cay đắng: “Đây là em bé nghèo nhất trần
gian”. Dũng moi tất cả tiền trong túi đặt mạnh lên tủ và tạo giọng giễu cợt:
“Đừng bán thuốc lá dỡm nhé!” Cô bé nói lính quýnh, thật tội tình: “Dạ, đâu
có”. Dũng nghiêng mặt cắm điếu thuốc vào ngọn lửa. Tôi thấy gương mặt của
Dũng đanh lại, giận giữ. Thái độ của Dũng thật quá đáng, vô lý. Chúng tôi rời
chỗ tủ thuốc. Dũng thở dài: “Đôi khi phải ngụy tạo sự giá băng mới sống được”.
Tôi: “Đóng kịch với chính mình làm chi cho khổ”.
Chúng tôi chia tay. Điếu
thuốc của tôi vẫn chưa đốt. Còn lại một mình tôi cảm thấy lảo đảo. Có một đứa
học trò bản lĩnh, dày dạn như Dũng đi bên cạnh trong những đêm buồn như thế
này, thật là sự an ủi quý báu. Hãy còn mưa lất phất trên mọi con đường. Trời
mờ sắc xám tro. Khi đi ngang tượng đài Hải Đăng, tôi thấy người đàn bà mất
trí đang ngồi nấp trong lùm cây - bà ta gí thanh củi vào hòn lửa thổi. Khói
bùng lên mù mịt. Hầu như đêm nào bà cũng trở về nơi đó, đốt lửa, rồi hơ bàn
tay trên ngọn khói. Bỗng, trong tôi, có một sự khát thèm đến rồ dại không kềm
giữ được - tôi dừng lại chỗ cái thân xác như một đống lá chuối khô mục ấy.
Tôi nghiêng mình xuống và bật ra tiếng ho...
Bà ta ngẩng lên, thấy trên
môi tôi có điếu thuốc chưa đốt, bà giơ thanh củi lên. Tôi đưa bàn tay chạm nhẹ
vào thanh củi, cúi mặt đốt thuốc. Qua ánh sáng của than hồng, trong làn khói,
đôi mắt bà như đang chìm sâu đáy nước. Bà nhìn tôi bằng đôi mắt rung rinh sâu
thẳm ấy. Chúng tôi như đang chiêm ngắm nhau - chiêm ngắm sự bất ngờ, hiếm có.
Tôi chở bé Quỳnh, con tôi
đi ăn kem. Trong quán, giữa chốn đông người, trông bé Quỳnh thật nhỏ bé,
mỏng manh. Bé mặc áo đầm trắng, thân dưới của áo bùng ra thật rộng. Bé đi lẫm
chẫm hệt như con chim bồ câu trắng. Đi. Dừng lại, nhặt chiếc bong bóng vừa rời
khỏi tay. Đi. Dừng lại nghiêng ngó. Đi. Ngóng cổ nhìn người bạn nhỏ giống nó
đang ngồi ăn kem. Đi. Đôi mắt bừng sáng, kinh ngạc khi nghe tiếng chuông cà
rem mong manh ngoài đường phố vọng lại...
Bé Quỳnh chẳng màng đến ly
kem tôi đã gọi cho bé. Bé mải mê đi tìm những đóa hoa trong chậu cảnh. Tôi để
cho bé tự do. Và, khoảng một phút tôi lịm người đi trong nỗi đau riêng, xao
lãng quên trông chừng bé Quỳnh. Khi đưa mắt tìm con, tôi chợt thấy bé Quỳnh
đang đứng trước một người ăn mày. Gã bị hủi. Gã đang ngồi trên nền nhà trong
quán. Ngón chân, ngón tay của gã đều rụng hết cả. Xương hàm tôi như bị ai siết
cứng lại, không thể bật ra tiếng kêu. Con tôi đang vung vẩy chiếc
bong bóng trong tay và bước về phía người ăn mày: “Nè! Cho chú nè!” Chiếc
bong bóng chạm vào mặt ông ta. Hai bàn tay của gã chống xuống đất, đẩy thân
mình lùi ra sau. Bé Quỳnh lại bước tới, gã lại lùi ra sau. Đôi mắt dưới đôi
mày trụi lũi của gã mở to nhìn bé Quỳnh không chớp.
Tôi bật dậy, chạy về phía
con tôi.
Tôi ôm bé Quỳnh vào lòng.
Tôi nhìn thấy hai hàng nước mắt ngắn, mỏng trên gương mặt gã. Tôi cầm lấy cái
que, mang chiếc bong bóng đặt trước mặt người ăn mày: “Chú cầm lấy. Bé Quỳnh
muốn tặng chú”. Người ăn mày nín lặng nhìn chiếc bong bóng màu rực rỡ, thật
to đang rung rinh trên nền gạch hoa.
Khi tôi bước đến quầy trả
tiền kem, cả người tôi hãy còn rung lên trong nỗi sợ hãi. Tôi siết chặt bé Quỳnh
vào ngực, quay lưng rảo bước đến chỗ gửi xe đạp. Tôi thầm khâm phục mình đã
nhanh trí một cách tuyệt vời: Để lại chiếc bong bóng cho người ăn mày. Chiếc
bong bóng đã chạm vào người gã, thì bé Quỳnh không thể cầm lấy để vung vẩy.
Nhưng trên đường về, tôi
đau đớn cả lòng, khi nghĩ đến hình ảnh trớ trêu: Gã ăn mày đói rách với chiếc
bong bóng sặc sỡ.
Những ngày mưa. Những ngày
nắng.
Tôi đạp xe một cách đều đặn
đến để dạy kèm Anh ngữ cho hai mẹ con của một người đàn bà. Căn nhà lộng lẫy
với nền thật cao, phải bước lên những bậc thang dài để qua cửa ngôi nhà ấy.
Chiếc xe đạp han rỉ của tôi xiêu vẹo tựa vào bậc thềm. Người đàn bà, mỗi khi
ngồi vào bàn học đều mặc áo ngủ. Da thịt bà trắng hồng trông thật khỏe mạnh.
Tôi giả bộ mặt trơ như đá. Và chỉ tập trung vào một công việc duy nhất là hướng
dẫn mẹ con bà học.. Một năm trôi qua, tôi dạy và tôi nhận tiền. Chỉ thế, giữa
tôi và họ không hề có một mối dây tình cảm nào chứng tỏ chúng tôi đã tiếp xúc
với nhau. Đôi khi tôi đi phố, tình cờ tôi và bà đứng cạnh nhau cùng mua hàng
chung một quầy, nhưng cả hai không hề chào nhau.
Cô bé gái của bà được mười
hai tuổi. Cũng giống mẹ. Tình cảm của nó giá lạnh đến tàn nhẫn. Dường
như không bao giờ nó biết nói một lời ngọt ngào bày tỏ sự thân thiện với người
khác. Đôi mắt nó nhìn tôi, nó cũng muốn chứng tỏ rằng, tôi dạy nó và tôi được
trả tiền. Đối với tôi, món tiền hàng tháng ấy cho là cần thiết thì nói cũng
thật cần thiết, nhưng cho là không cần thiết cũng được, chả sao! Tôi hãy còn
sự liều lĩnh, bất cần, không biết chiều lụy. Điều này giúp cho tôi sống nhiều
lắm.
Nhưng tôi chưa hiểu được một
tình trạng quái lạ: qua bao nhiêu ngày tháng rồi, chúng tôi tiếp xúc với nhau
qua những trang sách, lắng nghe từng giọng nói của nhau, cùng thực hiện những
quy định về phương pháp học tập, nhưng những lời thăm hỏi quan tâm đến hoàn cảnh
của mỗi người hoàn toàn biệt tích. Như là cả ba người chúng tôi không hề biết
đến thứ ngôn ngữ biểu lộ tình cảm ấy. Một hôm, cô bé bị bệnh nhưng cô vẫn cố
gắng ngồi vào bàn học. Trong tôi, bỗng tràn ngập một niềm thương cảm. Tôi
nói: “Nếu mệt, Tâm có thể nằm nghỉ”. Tâm cúi mặt xuống quyển sách, giọng nói
của nó xa lạ và tàn nhẫn: “Xin thầy làm công việc của thầy”. Người mẹ mở quyển
sách của bà ra: “Thôi, chúng ta bắt đầu đi...” Tôi bảo Tâm đọc một bài tập đọc
trong quyển sách của cô. Khi đọc đến cuối trang, Tâm nhìn và hất mặt với tôi:
ra dấu cho tôi hãy lật tiếp trang sách cho cô. Máu trong người tôi như sôi
lên và tôi cảm thấy môi mình rung rung. Tôi vờ ngạc nhiên, nhìn người đàn bà:
“Tay của Tâm bị đau?” Tôi cảm thấy người đàn bà như vừa bị tôi quất một roi
lên làn da trắng hồng của bà. Mặt bà hơi nhăn lại. Nhưng bà xóa ngay. Tự tay
bà lật sang trang cho con. Nhưng Tâm không đọc tiếp. Cô bé im lặng.
Đôi mắt Tâm chỉ hơi máy động. Đột nhiên, căn phòng nơi chúng tôi đang ngồi
rơi vào cõi hư vô. Hoang vắng và lặng lẽ vô cùng. Tôi hỏi bà bằng
tiếng Anh: “Bà không được hạnh phúc?” vẻ mặt thản nhiên, bà đáp lại cũng bằng
ngôn ngữ ấy với giọng điệu thật tuyệt vời: “Ô! Tôi hạnh phúc trong thế giới của
tôi”. Tôi xếp sách lại và đứng lên - tôi muốn ra ngoài với chiếc xe đạp thân
yêu của tôi. Bà như cảm biết được việc tôi sẽ không bao giờ đến đây nữa, bà lặng
lẽ theo sau có vẻ như tiễn tôi về. Tôi quay lại, bà đã đứng ở cửa ra vào. Bên
trong, Tâm đang ngồi với dáng vẻ như cũ.
Tôi không bao giờ trở lại
ngôi nhà lộng lẫy đó nữa.
Hôm ấy, trên đường về, trước
mặt tôi hiện lên hình ảnh: Tên dô-kề của trò đời đang ngồi trên lưng ngựa,
tay nó cầm roi. Đầu ngọn roi có những tia gai nhọn. Gã cười âm hiểm.
Gã vung ngọn roi quất vào mặt, vào ngực tôi từng roi đĩnh đạc, chính xác. Tôi
vùng vẫy, kêu trời. Người tôi đầy máu. Đôi mắt tôi, tuyệt vọng, luôn theo dõi
đường roi. Tôi cố quật ngã tên dô-kề và con ngựa ấy. Thích thú, gã bật lên tiếng
kêu đắc thắng. Gã thúc ngựa chồm lên, cắm những móng sắt xuống người tôi...
Trong tôi, bây giờ là hình
ảnh của bé Quỳnh
Trong tôi, bây giờ là
gương mặt của Dũng đang đanh lại, giận dữ khi nhìn cô bé bán thuốc lá ngồi co
ro dưới mưa, và Dũng bất lực không thể nào giúp đỡ gì được.
Trong tôi, bây giờ là hình
ảnh chiếc bong bóng đỏ rực rung rinh trước gương mặt đau đớn của gã cùi.
Ha! Ha! Ba phải chiến thắng
tên dô-kề ấy. Bé Quỳnh của ba, con có tin không?
Trong ba có người đàn bà mất
trí đang ngồi nép vào thềm đá cao, gí thanh củi vào hòn than. Bà phùng má thổi
đến tàn hơi - Trong đám khói mù cay xé lòng, hai bàn tay gầy của bà mãi trôi
đi...
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét