Đọc một số truyện ngắn viết về miền núi của Đỗ Bích Thúy
Nơi địa đầu Tổ quốc, mảnh đất Hà Giang mây núi mù sương với dòng sông Nho Quế uốn lượn quanh co dưới chân núi cao, vực thẳm, nơi có thung lũng hoa vàng và những cánh đồng bạt ngàn hoa tam giác mạch được bồi đắp phù sa nhờ dòng Lô giang ngày đêm cuộn chảy là nơi Đỗ Bích Thúy gắn bó máu thịt, cũng là nơi chị lấy làm bối cảnh không gian cho không ít truyện ngắn của mình. Đọc truyện của Đỗ Bích Thúy, tôi cứ bị ám ảnh mãi về cái không gian của rừng núi đại ngàn, hun hút gió, cao vút tận trời mây với những mỏm đá tai mèo sắc nhọn, ẩn hiện đâu đó những bông chuối rừng rực lửa. Và không gian ấy như một lẽ đương nhiên trở thành nền cảnh để những câu chuyện về cuộc sống và con người nơi ấy được kể, được tả một cách say sưa, đằm thắm như một sự lắng lòng, trải lòng mà viết. Mượn tên một truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy Gió không ngừng thổi làm tiêu đề cho bài viết, chúng tôi muốn nói đến những trăn trở khôn nguôi của chị về đời sống xã hội và thân phận con người ở mảnh đất Hà Giang nơi chị từng một thời gắn bó.
Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy dẫn người đọc bước vào cái thế giới đầy màu sắc của cuộc sống những con người vùng cao, đó là điều cũng thường thấy trong những tác phẩm về đề tài miền núi. Ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh êm đềm đẹp đẽ khá quen thuộc của cuộc sống vùng cao: những chàng trai múa khèn bên những cô gái Mông mặc áo váy sặc sỡ, má ửng hồng e ấp làm duyên, những nồi thắng cố nghi ngút khói bên những bát rượu say nồng, những người vợ che ô cho chồng ngủ giữa đường đi chợ về vì say rượu, những chiếc váy rực rỡ như những bông hoa nở xòe bên tảng đá nơi bờ suối, những tiếng đàn môi tha thiết gọi bạn tình… Nhưng nếu chỉ có thế, nhà văn sẽ chỉ dừng lại ở vai trò người quan sát, miêu tả bề ngoài của đời sống. Đỗ Bích Thúy không dừng lại ở việc mô tả văn hóa phong tục của đồng bào miền núi với ánh mắt tò mò lạ lẫm, làm người đọc thỏa mãn sự hiếu kỳ. Chị đã vượt qua điều đó để tìm tòi khám phá bề sâu của cuộc sống với những góc khuất của số phận con người, để người đọc cùng trải nghiệm và suy ngẫm.
Đằng sau những bức tranh đầy màu sắc về cuộc sống nơi núi rừng hoang vu, ta bắt gặp những vận động, những chuyển mình, những biến đổi đang âm thầm, len lói, và dần lấn át cái tĩnh lặng đến bình thản kia của núi rừng. Vùng núi nguyên sơ, bình lặng khuất lấp tưởng chừng cách biệt rất xa với cuộc sống bộn bề nơi đô thị cũng đã không thể đứng yên trước những tác động của xã hội, nó đang hàng ngày bị xâm lấn, tấn công và có nguy cơ bị xáo trộn và hủy hoại. Nói như Phạm Duy Nghĩa “sự xâm thực của thương trường phá vỡ trật tự rừng xanh, lối sống thực dụng làm rạn nứt nếp nghĩ truyền thống, cái xấu xa phi pháp khuấy đảo sự thanh bình của làng bản” (1). Đó là những dự báo, những cảm nhận mà Đỗ Bích Thúy đã khéo léo lồng ghép vào truyện ngắn của mình.
Những tác động của đời sống thị trường làm cuộc sống của vùng núi cao không còn bình lặng mà đổi thay từng ngày, từng giờ. Cuộc sống của những con người miền núi không còn lặng lẽ, trầm tĩnh mà chịu sự tác động ngày càng mạnh mẽ của cả cái được và cái mất, cái hay và cái dở do cơn bão kinh tế thị trường mang lại. Cuộc sống mới tiềm ẩn vô vàn những bất ổn, những nguy cơ, những hiểm họa: nạn buôn bán phụ nữ qua biên giới, tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp… Những ham muốn vật chất lấn át cả cái nghĩa, cái tình, con người trở thành nạn nhân của hoàn cảnh khách quan đồng thời là nạn nhân của lối sống thực dụng, ngày càng thiếu vắng tình người. Vấn đề này được Đỗ Bích Thúy phản ánh trong các truyện ngắn Ngoài cửa trời chưa sáng, Khách quý, Con dê bốn mắt, Mèo đen…
Cơ chế thị trường xâm thực, con người ta sống thực dụng hơn, coi trọng vật chất nhiều hơn, và vì vậy mà ngày càng thiếu vắng sự chân tình. Người ta có thể giả tạo, lừa gạt lẫn nhau, người ta lợi dụng chính cái thật bụng và dễ tin người của người dân miền núi để đạt được mục đích của mình (Khách quý, Ngoài cửa trời chưa sáng…) Thủ đoạn lừa đảo của những vị khách quá tinh vi, còn những con người nơi đây lại quá hồn nhiên, chân thật. Và nặng nề hơn là nỗi đau về tinh thần, là sự hụt hẫng, chênh vênh của con người khi đặt niềm tin nhầm chỗ. Cái tiếng nổ phành phạch từ những chiếc xe máy đắt bằng cả đôi ngựa mà vị khách quý mang tới đã phá tan sự yên tĩnh, bình lặng của núi rừng và cả cuộc sống vốn yên ổn của những nếp nhà bên triền núi.
Ngay cả những con người miền núi vốn chất phác, thật thà, cả cuộc sống vốn thanh bình, giản đơn và những mối quan hệ ân tình nơi đây cũng có nguy cơ bị biến đổi trước sự tác động mạnh mẽ của đời sống. Mối tình tay ba giữa Dí – Kía – Chay trong Con dê bốn mắt bất ngờ chấm dứt khi có kẻ thứ tư xuất hiện, một người cao to đẹp trai, giàu có. Dí đã “tận mắt nhìn thấy Kía mặt đỏ nhừ, mắt cười tít với người ta. Có con dê hay không có con dê này thì cũng thế thôi”. Dí và Chay bỗng chốc trở thành những kẻ bên lề. Cô Kía đâu cần tình yêu hẹn thề tha thiết với Dí, cũng đâu cần con dê bốn mắt của Chay. Điều Kía cần là những thứ khác cơ. Cái tấm thân tàn tạ vì nghiện ngập của Hầu Nhìa Thò (Mèo đen) là hệ quả của lối sống buông thả, thiếu trách nhiệm với bản thân. Dắt bò, dắt ngựa và tất cả những gì có giá trị của cả gia đình nướng vào khói thuốc để thỏa mãn cơn nghiện chưa đủ, hắn còn đang tâm bắt con mèo đen vốn là con vật mà đứa em gái rất thân thiết đem bán. Con mèo chết ngạt, hắn chẳng bán được đồng nào, lại tiếp tục lê lết tấm thân tàn tạ không biết đi đâu, về đâu. Con mèo đen chết ngạt nhe răng cười mãi đầy chua chát với cái cuộc đời bỏ đi của hắn.
Cuộc sống miền núi đang diễn ra sự xung đột giữa những cái mới, trong đó có không ít mặt trái, với cái cũ, những nề nếp từ lâu đời. Ban đầu chỉ giản đơn là những bất đồng, sau nảy sinh thành xung đột, mâu thuẫn khó có thể dung hòa. Trong phạm vi gia đình là xung đột, bất đồng giữa những thế hệ cùng chung sống – bất đồng về quan điểm sống, về cách sống, cách nghĩ. Người mẹ và những đứa con trong Ngải đắng ở trên núi là đại diện cho những thế hệ có những quan điểm sống trái ngược. Mẹ muốn giữ gìn, bảo vệ nề nếp, phong tục của người Tày trong đó có không ít những thói quen sinh hoạt đã không phù hợp với cuộc sống thời nay. Hai người con được học hành, làm việc trong những mối quan hệ xã hội mở rộng hơn đã có những suy nghĩ hoàn toàn khác, muốn giữ gìn phong tục, nhưng cũng sẵn sàng loại bỏ những thói quen lạc hậu. Đây là câu chuyện nhỏ của một gia đình nhưng cũng là vấn đề chung của toàn xã hội. Ngoài cửa trời chưa sáng lại là những xung đột ở phạm vi xã hội. Mượn câu chuyện của hai làng Pụ Dín và Pụ Cháng để nói về sự xâm thực của đời sống thị trường vào cuộc sống của người dân miền núi, Đỗ Bích Thúy dường như muốn truyền đi thông điệp, sự đột ngột thái quá khi tiếp nhận cái mới hay việc khư khư giữ lề thói cũ đều không phải là điều nên làm.
Sinh ra và lớn lên ở núi rừng, hiểu và yêu những nét đẹp của truyền thống văn hóa nơi đây, Đỗ Bích Thúy cảm nhận sâu sắc về sự tác động của kinh tế thị trường đối với cuộc sống miền sơn cước. Tác động của nền kinh tế thị trường khiến những giá trị cội nguồn của truyền thống đang bị lung lay và có nguy cơ bị phá hủy. Có những cái giật mình đầy thảng thốt về sự phai nhạt tình cảm của con người với quê hương. Có những cái bứt rứt đầy xót xa khi những mối quan hệ tình cảm của con người đang dần dần bị thay thế bằng vật chất. Có cả những tiếc nuối đầy thương cảm cho những số phận con người vì đồng tiền mà tha hóa, biến chất, không còn được là mình. Trong những câu chuyện của chị, cuộc sống miền núi hôm nay không còn lặng lẽ, trầm tĩnh mà chứa đựng cả những nghịch âm, biến âm, những phản đề khiến độc giả không thể yên bình, tĩnh tâm khi đọc nó. Cuộc sống luôn có cả mảng sáng và mảng tối, cả cái được và chưa được, đó là một góc nhỏ góp phần làm phong phú và toàn diện hơn cho bức tranh muôn màu của cuộc sống hôm nay.
Bên cạnh những vấn đề xã hội, Đỗ Bích Thúy quan tâm nhiều đến cuộc sống đời tư của con người miền núi. Cuộc sống vùng cao với vẻ ngoài trầm lặng tưởng như muôn đời không đổi ấy lại chứa đựng biết bao những éo le, bi kịch. Bước vào những trang viết của chị, ta dễ dàng bắt gặp “giọng buồn như cái lá rớt xuống từ lưng chừng trời không biết bay về đâu”, “tiếng thở dài như một chiếc lá lau” (Mẹ kế), những ý định dại dột, buông trôi, phó thác cho số phận “Súa cũng sẽ liệng như một chiếc lá, vàng thì rụng, gió cuốn thì bay”, những nỗi đau đớn đến tột cùng “lồng ngực Súa đã vỡ tan ra như quả lê chín rơi trúng phiến đá” (Lặng yên dưới vực sâu)… Cái tài của Đỗ Bích Thúy không phải ở việc dụng công tạo dựng những tình huống truyện đặc sắc, mà ở khả năng đi sâu miêu tả những góc nhỏ chìm khuất của tâm trạng con người. Những biến chuyển tinh vi, mong manh, những suy cảm sâu sắc đầy day dứt, những nỗi buồn vui, những nụ cười và cả những giọt nước mắt… Tất cả làm nên một nỗi u hoài, ám ảnh đến khôn nguôi. Những nhân vật chính trong truyện ngắn của chị hầu hết đều nặng một chữ Tình, và phần lớn là phụ nữ, những người đàn bà miền núi với “những cuộc đời rủi ro và số phận nghiệt ngã”, luôn phải “sống trong những nỗi khát khao lớn hơn dãy Tây Côn Lĩnh, sâu hơn đáy sông Lô – những nỗi khát khao không gì nhấn chìm được, cũng không cách gì đạt tới được”(2). Đỗ Bích Thúy nhận ra và thể hiện trong những truyện ngắn của mình những đặc điểm tâm lí, lối sống của con người miền núi một cách chân thực. Nhân vật chính của chị luôn là những người đàn bà miền núi có sức sống nội tại với những khát khao mãnh liệt ẩn tàng. Nhưng con người ta đâu chỉ sống với những khát khao, người ta phải sống nhiều với trách nhiệm, nghĩa vụ, đôi khi phải hi sinh lặng thầm, nhẫn nại và câm nín. Đỗ Bích Thúy đã phát hiện ra những bi kịch của số phận đằng sau hình ảnh của những người đàn bà miền núi với cuộc sống hàng ngày lặp đi lặp lại, đơn điệu và tưởng như lặng lẽ đến bình thản ấy. Đây đó, trong các truyện ngắn của chị, ta bắt gặp những nỗi ám ảnh đến da diết của quá khứ đã qua, còn đó những day dứt của cuộc sống hiện tại bế tắc, không lối thoát và cả những giằng níu giữa quá khứ và hiện tại như những sợi dây vô hình khiến con người chìm vào bi kịch.
Đọc tập tản văn Đến độ hoa vàng, ta càng hiểu thêm quá khứ, ký ức có ý nghĩa và có vị trí như thế nào trong cuộc sống của chị, trong tâm hồn và cả trong những trang viết của chị. Ai đó đã nói rằng, người nào không nhìn về quá khứ thì không có tâm hồn. Và trong truyện ngắn của mình, Đỗ Bích Thúy đã khắc họa những nhân vật rất nặng lòng với quá khứ, phải chăng vì thế mà những nhân vật ấy luôn day dứt, ám ảnh ta? Ngải đắng ở trên núi là những ấn tượng sâu đậm về cuộc sống đầy gian khó, thiếu thốn của vùng núi cao trong quá khứ như cái để tâm hồn con người neo đậu, bấu víu “khi nào nhớ về mẹ, tôi cũng hình dung thấy ngôi nhà với chín bậc cầu thang, nơi tôi run rẩy, chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông bão trở về”. Có những cái thuộc về quá khứ nhưng lại khiến con người ta day dứt khôn nguôi trong Gió không ngừng thổi. Những buổi chiều ngang qua cuộc đời là một chuỗi những kí ức dài và buồn, ảm đạm và lê thê như những buổi chiều hoang vu, tĩnh lặng luôn ám ảnh cuộc sống thực tại của nhân vật người phụ nữ đã bước qua phía bên kia của đỉnh dốc cuộc đời. Tráng A Khành kể về những nỗi đau từ sâu thẳm tâm hồn người phụ nữ buộc phải vùi sâu chôn chặt để đón nhận và yêu quý thằng bé còn đỏ hỏn, chỉ mong làm tròn nghĩa vụ với nhà chồng. Thằng bé lớn lên trong cái khắc khoải, lặng thầm, đau đáu về quá khứ của người mẹ nuôi. Quá khứ ám ảnh ta bởi những nỗi buồn, còn cuộc sống hiện tại cũng có biết bao dằn vặt, trăn trở. Có biết bao số phận con người đang sống trong một cuộc sống bế tắc và bi kịch. Đó là hình ảnh hai vợ chồng với một cuộc sống buồn heo hắt như một buổi chiều nhập nhoạng khi tuổi già xế bóng (Những buổi chiều ngang qua cuộc đời). Đó là mối tình câm lặng của cậu trai mới lớn dành cho người chị dâu xinh đẹp góa bụa (Sau những mùa trăng). Đó là người mẹ già suốt đời làm “cục đá kê chân cột nhà chồng” (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá). Đó là nỗi đau của lòng tự ái trẻ con có phần ích kỉ của một đứa trẻ khi chứng kiến một người phụ nữ khác thay thế mẹ sống trong ngôi nhà của mình (Mẹ kế). Và sự chôn vùi cuộc sống không tình yêu, không hi vọng trong yên lặng đến vô cùng của người phụ nữ bị bắt làm dâu nhà người, lỡ dở một mối tình tha thiết. (Lặng yên dưới vực sâu).
Tiếng dao băm bí suốt ngày đêm của Xây (Mẹ kế) không thể làm em vơi bớt đi nỗi buồn, ngược lại nó làm cho những người thân yêu của em phải sống trong dằn vặt, đau đớn. Cả ba con người trong câu chuyện này đều là người tốt, và lẽ ra đều đáng được hưởng hạnh phúc. Người mẹ kế kia không hề đối xử tệ bạc với Xây. Những phản ứng gay gắt của Xây cũng chỉ xuất phát từ tình yêu thẳm sâu dành cho mẹ và từ tính cách quyết liệt của con người miền núi, một đứa trẻ cũng không phải là ngoại lệ. Ba con người sống trong ngôi nhà ấy giống như ba ngọn lửa nhỏ, nếu chụm vào nhau thì sáng ấm gian nhà, nhưng họ lại không thể chụm vào nhau mà tách biệt mỗi người một góc, để ánh sáng ấy cứ leo lét dần rồi tắt. Cái chết của người cha có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng là lúc đứa trẻ nhận ra tấm lòng người mẹ kế. Khi Xây tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Vậy là chính những điều tưởng chừng như không có gì hệ trọng lại dồn đẩy con người ta vào bi kịch. Con người ta không biết cách vượt qua để cởi bỏ và hóa giải những cái nhỏ nhặt ấy để rồi tan vỡ hạnh phúc của cả một gia đình.
Nỗi đau thân phận của Súa (Lặng yên dưới vực sâu) là khúc hát làm dâu đau đáu đầy ám ảnh lẫn vào trong gió. Số phận người phụ nữ chỉ như hạt tuyết nhỏ nhoi, như “quả bông nở bị gió cuốn đi”, như cái nhắm mắt của cô khi nhảy xuống vực sâu phó thác cho số phận. Nhưng càng vùng vẫy thoát ra khỏi nó, cô càng bị mắc chặt vào nó. Những đứa con giống như những sợi dây buộc chặt cô vào người chồng ấy, vào gia đình ấy. Cuộc hôn nhân không tình yêu chôn vùi cả cuộc sống và tâm hồn người phụ nữ, như “bông anh túc rực rỡ mà héo úa” trong cái lặng yên đến vô cùng của vực sâu. Đọc Lặng yên dưới vực sâu, ta có cảm tưởng Đỗ Bích Thúy đang viết về câu chuyện của một thời nào đó rất xa xưa, chứ không phải là chuyện của thời nay. Dường như những tư tưởng giải phóng cho người phụ nữ, giải phóng cho cuộc sống tự do theo nguyện ước của con người… còn ở đâu đó rất xa cái xứ này. Cuộc sống ở miền núi heo hút với những trì níu nặng nề của những thói tục, những cơ tầng văn hóa cổ truyền khiến con người ta bị trói buộc trong một tấm lưới vô hình không thể nào thoát ra được. Quá khứ luôn theo đuổi đầy da diết và dai dẳng, hiện tại bế tắc không lối thoát. Người mẹ già (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá) luôn sống trong câm lặng, hi sinh và chịu đựng. Quá khứ giống như chiếc váy sặc sỡ bảy sắc cầu vồng bấy lâu được cất kín trong hòm nhưng thỉnh thoảng lại được mang ra ngắm nghía, vuốt ve. Và tiếng đàn môi thổn thức lại vọng về. Khát khao tình yêu vẫn còn đó, âm ỉ mà mãnh liệt, thôi thúc con người ta vượt qua những rào cản của nghĩa vụ và trách nhiệm để sống cho chính mình. Hình ảnh người mẹ già với bộ váy áo sặc sỡ cùng bạn tình xưa trong phiên chợ ngày hai bảy, hình ảnh mẹ già đẩy cửa bước theo tiếng gọi của tiếng đàn môi sau bờ rào đá mà May nhìn thấy vẫn chỉ là ngọn lửa bùng cháy trong một thời khắc nào đó của cuộc sống bình lặng mà thôi. Có lẽ, khi trời sáng, mẹ già lại trở về với đúng hình ảnh vốn có của mình, lầm lũi như “hòn đá kê chân cột nhà chồng” ngày này qua tháng khác. Cùng một lúc phải sống cho cả hai thời, hiện tại và quá khứ. Cùng một thời điểm phải sống là hai con người, người vợ và người yêu. Con người phải sống trong sự giằng níu giữa đôi bờ của quá khứ và hiện tại.
Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy thường có hình ảnh những cô bé câm xuất hiện trở đi trở lại đầy ám ảnh (Thơm trong Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Dí trong Lặng yên dưới vực sâu, Lam trong truyện Trong thung lũng). Những cô bé xinh xắn, đáng yêu mà gánh chịu nỗi đau nghiệt ngã của số phận, gánh cái nợ lớn cho cả gia đình. Có lẽ những ám ảnh này xuất phát từ chính tình cảm da diết khôn nguôi dành cho người chị gái câm yểu mệnh của nhà văn. Đỗ Bích Thúy đồng thời muốn khắc họa sâu sắc nỗi đau của phận người như những nghiệp chướng, những trò đùa vô tâm của số phận.
Viết về những con người nhỏ bé với niềm thương cảm xót xa, Đỗ Bích Thúy đã phản ánh sâu sắc và thấm thía trong những trang viết của mình về một cuộc sống vùng núi cao không bình lặng. Truyện ngắn về miền núi của chị không để cho chúng ta bình thản, và chúng ta cũng không thể bình thản khi đọc chúng. Còn đó biết bao những vấn đề nhức nhối của thực tại xã hội đang làm cuộc sống nơi núi rừng kia chẳng thể nào yên bình, còn đó biết bao số phận con người đang khắc khoải sống với những khát khao mạnh mẽ, mãnh liệt dù biết chẳng bao giờ đạt tới để rồi luôn phải sống trong những bi kịch đầy day dứt. Mỗi câu chuyện là một nỗi niềm riêng đầy khắc khoải, những bi kịch đớn đau, day dứt của thực tại mà con người chưa thể vượt qua. Đời sống phức tạp là đời sống đích thực của con người. Những câu chuyện của chị đâu chỉ là vấn đề của đời sống con người miền núi mà đụng chạm đến những vấn đề rất nhân bản, vấn đề của con người nói chung.
Đỗ Bích Thúy đã thể hiện một sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống, tâm tư, tình cảm, chiều sâu văn hóa và đặc trưng tư duy của con người miền núi. Nhờ vậy, những câu chuyện chị kể đều mang một vẻ đẹp riêng không thể lẫn. Nhưng đến với truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, điều có thể làm cho bạn đọc chia sẻ không phải chỉ là những vấn đề mang màu sắc dân tộc, miền núi. Chúng ta tìm đến với truyện ngắn của chị không phải chỉ đọc để biết những cái gì đó rất khác lạ thỏa mãn sự tò mò, mà tìm thấy đằng sau những cái khác lạ ấy những vấn đề sâu sắc và thấm thía của đời sống nhân sinh.
Tiếng gió đại ngàn sẽ chẳng bao giờ ngừng thổi. Và, chúng ta lại chờ đợi chị sẽ kể tiếp cho chúng ta nghe về chuyện đời, chuyện người nơi những dãy núi mờ xa.
* “Gió không ngừng thổi” là tên một truyện ngắn in trong tập Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy.
(1) Xem Phạm Duy Nghĩa: Văn xuôi về dân tộc và miền núi từ 1986 đến nay - Trang Chuyên Văn học - Văn tải đạo.
(2) Xem Đỗ Bích Thúy: “Người đàn bà” (thay lời giới thiệu cho tập truyện Người đàn bà miền núi) - Nxb. Phụ nữ, 2008.
Nơi địa đầu Tổ quốc, mảnh đất Hà Giang mây núi mù sương với dòng sông Nho Quế uốn lượn quanh co dưới chân núi cao, vực thẳm, nơi có thung lũng hoa vàng và những cánh đồng bạt ngàn hoa tam giác mạch được bồi đắp phù sa nhờ dòng Lô giang ngày đêm cuộn chảy là nơi Đỗ Bích Thúy gắn bó máu thịt, cũng là nơi chị lấy làm bối cảnh không gian cho không ít truyện ngắn của mình. Đọc truyện của Đỗ Bích Thúy, tôi cứ bị ám ảnh mãi về cái không gian của rừng núi đại ngàn, hun hút gió, cao vút tận trời mây với những mỏm đá tai mèo sắc nhọn, ẩn hiện đâu đó những bông chuối rừng rực lửa. Và không gian ấy như một lẽ đương nhiên trở thành nền cảnh để những câu chuyện về cuộc sống và con người nơi ấy được kể, được tả một cách say sưa, đằm thắm như một sự lắng lòng, trải lòng mà viết. Mượn tên một truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy Gió không ngừng thổi làm tiêu đề cho bài viết, chúng tôi muốn nói đến những trăn trở khôn nguôi của chị về đời sống xã hội và thân phận con người ở mảnh đất Hà Giang nơi chị từng một thời gắn bó.
Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy dẫn người đọc bước vào cái thế giới đầy màu sắc của cuộc sống những con người vùng cao, đó là điều cũng thường thấy trong những tác phẩm về đề tài miền núi. Ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh êm đềm đẹp đẽ khá quen thuộc của cuộc sống vùng cao: những chàng trai múa khèn bên những cô gái Mông mặc áo váy sặc sỡ, má ửng hồng e ấp làm duyên, những nồi thắng cố nghi ngút khói bên những bát rượu say nồng, những người vợ che ô cho chồng ngủ giữa đường đi chợ về vì say rượu, những chiếc váy rực rỡ như những bông hoa nở xòe bên tảng đá nơi bờ suối, những tiếng đàn môi tha thiết gọi bạn tình… Nhưng nếu chỉ có thế, nhà văn sẽ chỉ dừng lại ở vai trò người quan sát, miêu tả bề ngoài của đời sống. Đỗ Bích Thúy không dừng lại ở việc mô tả văn hóa phong tục của đồng bào miền núi với ánh mắt tò mò lạ lẫm, làm người đọc thỏa mãn sự hiếu kỳ. Chị đã vượt qua điều đó để tìm tòi khám phá bề sâu của cuộc sống với những góc khuất của số phận con người, để người đọc cùng trải nghiệm và suy ngẫm.
Đằng sau những bức tranh đầy màu sắc về cuộc sống nơi núi rừng hoang vu, ta bắt gặp những vận động, những chuyển mình, những biến đổi đang âm thầm, len lói, và dần lấn át cái tĩnh lặng đến bình thản kia của núi rừng. Vùng núi nguyên sơ, bình lặng khuất lấp tưởng chừng cách biệt rất xa với cuộc sống bộn bề nơi đô thị cũng đã không thể đứng yên trước những tác động của xã hội, nó đang hàng ngày bị xâm lấn, tấn công và có nguy cơ bị xáo trộn và hủy hoại. Nói như Phạm Duy Nghĩa “sự xâm thực của thương trường phá vỡ trật tự rừng xanh, lối sống thực dụng làm rạn nứt nếp nghĩ truyền thống, cái xấu xa phi pháp khuấy đảo sự thanh bình của làng bản” (1). Đó là những dự báo, những cảm nhận mà Đỗ Bích Thúy đã khéo léo lồng ghép vào truyện ngắn của mình.
Những tác động của đời sống thị trường làm cuộc sống của vùng núi cao không còn bình lặng mà đổi thay từng ngày, từng giờ. Cuộc sống của những con người miền núi không còn lặng lẽ, trầm tĩnh mà chịu sự tác động ngày càng mạnh mẽ của cả cái được và cái mất, cái hay và cái dở do cơn bão kinh tế thị trường mang lại. Cuộc sống mới tiềm ẩn vô vàn những bất ổn, những nguy cơ, những hiểm họa: nạn buôn bán phụ nữ qua biên giới, tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, trộm cắp… Những ham muốn vật chất lấn át cả cái nghĩa, cái tình, con người trở thành nạn nhân của hoàn cảnh khách quan đồng thời là nạn nhân của lối sống thực dụng, ngày càng thiếu vắng tình người. Vấn đề này được Đỗ Bích Thúy phản ánh trong các truyện ngắn Ngoài cửa trời chưa sáng, Khách quý, Con dê bốn mắt, Mèo đen…
Cơ chế thị trường xâm thực, con người ta sống thực dụng hơn, coi trọng vật chất nhiều hơn, và vì vậy mà ngày càng thiếu vắng sự chân tình. Người ta có thể giả tạo, lừa gạt lẫn nhau, người ta lợi dụng chính cái thật bụng và dễ tin người của người dân miền núi để đạt được mục đích của mình (Khách quý, Ngoài cửa trời chưa sáng…) Thủ đoạn lừa đảo của những vị khách quá tinh vi, còn những con người nơi đây lại quá hồn nhiên, chân thật. Và nặng nề hơn là nỗi đau về tinh thần, là sự hụt hẫng, chênh vênh của con người khi đặt niềm tin nhầm chỗ. Cái tiếng nổ phành phạch từ những chiếc xe máy đắt bằng cả đôi ngựa mà vị khách quý mang tới đã phá tan sự yên tĩnh, bình lặng của núi rừng và cả cuộc sống vốn yên ổn của những nếp nhà bên triền núi.
Ngay cả những con người miền núi vốn chất phác, thật thà, cả cuộc sống vốn thanh bình, giản đơn và những mối quan hệ ân tình nơi đây cũng có nguy cơ bị biến đổi trước sự tác động mạnh mẽ của đời sống. Mối tình tay ba giữa Dí – Kía – Chay trong Con dê bốn mắt bất ngờ chấm dứt khi có kẻ thứ tư xuất hiện, một người cao to đẹp trai, giàu có. Dí đã “tận mắt nhìn thấy Kía mặt đỏ nhừ, mắt cười tít với người ta. Có con dê hay không có con dê này thì cũng thế thôi”. Dí và Chay bỗng chốc trở thành những kẻ bên lề. Cô Kía đâu cần tình yêu hẹn thề tha thiết với Dí, cũng đâu cần con dê bốn mắt của Chay. Điều Kía cần là những thứ khác cơ. Cái tấm thân tàn tạ vì nghiện ngập của Hầu Nhìa Thò (Mèo đen) là hệ quả của lối sống buông thả, thiếu trách nhiệm với bản thân. Dắt bò, dắt ngựa và tất cả những gì có giá trị của cả gia đình nướng vào khói thuốc để thỏa mãn cơn nghiện chưa đủ, hắn còn đang tâm bắt con mèo đen vốn là con vật mà đứa em gái rất thân thiết đem bán. Con mèo chết ngạt, hắn chẳng bán được đồng nào, lại tiếp tục lê lết tấm thân tàn tạ không biết đi đâu, về đâu. Con mèo đen chết ngạt nhe răng cười mãi đầy chua chát với cái cuộc đời bỏ đi của hắn.
Cuộc sống miền núi đang diễn ra sự xung đột giữa những cái mới, trong đó có không ít mặt trái, với cái cũ, những nề nếp từ lâu đời. Ban đầu chỉ giản đơn là những bất đồng, sau nảy sinh thành xung đột, mâu thuẫn khó có thể dung hòa. Trong phạm vi gia đình là xung đột, bất đồng giữa những thế hệ cùng chung sống – bất đồng về quan điểm sống, về cách sống, cách nghĩ. Người mẹ và những đứa con trong Ngải đắng ở trên núi là đại diện cho những thế hệ có những quan điểm sống trái ngược. Mẹ muốn giữ gìn, bảo vệ nề nếp, phong tục của người Tày trong đó có không ít những thói quen sinh hoạt đã không phù hợp với cuộc sống thời nay. Hai người con được học hành, làm việc trong những mối quan hệ xã hội mở rộng hơn đã có những suy nghĩ hoàn toàn khác, muốn giữ gìn phong tục, nhưng cũng sẵn sàng loại bỏ những thói quen lạc hậu. Đây là câu chuyện nhỏ của một gia đình nhưng cũng là vấn đề chung của toàn xã hội. Ngoài cửa trời chưa sáng lại là những xung đột ở phạm vi xã hội. Mượn câu chuyện của hai làng Pụ Dín và Pụ Cháng để nói về sự xâm thực của đời sống thị trường vào cuộc sống của người dân miền núi, Đỗ Bích Thúy dường như muốn truyền đi thông điệp, sự đột ngột thái quá khi tiếp nhận cái mới hay việc khư khư giữ lề thói cũ đều không phải là điều nên làm.
Sinh ra và lớn lên ở núi rừng, hiểu và yêu những nét đẹp của truyền thống văn hóa nơi đây, Đỗ Bích Thúy cảm nhận sâu sắc về sự tác động của kinh tế thị trường đối với cuộc sống miền sơn cước. Tác động của nền kinh tế thị trường khiến những giá trị cội nguồn của truyền thống đang bị lung lay và có nguy cơ bị phá hủy. Có những cái giật mình đầy thảng thốt về sự phai nhạt tình cảm của con người với quê hương. Có những cái bứt rứt đầy xót xa khi những mối quan hệ tình cảm của con người đang dần dần bị thay thế bằng vật chất. Có cả những tiếc nuối đầy thương cảm cho những số phận con người vì đồng tiền mà tha hóa, biến chất, không còn được là mình. Trong những câu chuyện của chị, cuộc sống miền núi hôm nay không còn lặng lẽ, trầm tĩnh mà chứa đựng cả những nghịch âm, biến âm, những phản đề khiến độc giả không thể yên bình, tĩnh tâm khi đọc nó. Cuộc sống luôn có cả mảng sáng và mảng tối, cả cái được và chưa được, đó là một góc nhỏ góp phần làm phong phú và toàn diện hơn cho bức tranh muôn màu của cuộc sống hôm nay.
Bên cạnh những vấn đề xã hội, Đỗ Bích Thúy quan tâm nhiều đến cuộc sống đời tư của con người miền núi. Cuộc sống vùng cao với vẻ ngoài trầm lặng tưởng như muôn đời không đổi ấy lại chứa đựng biết bao những éo le, bi kịch. Bước vào những trang viết của chị, ta dễ dàng bắt gặp “giọng buồn như cái lá rớt xuống từ lưng chừng trời không biết bay về đâu”, “tiếng thở dài như một chiếc lá lau” (Mẹ kế), những ý định dại dột, buông trôi, phó thác cho số phận “Súa cũng sẽ liệng như một chiếc lá, vàng thì rụng, gió cuốn thì bay”, những nỗi đau đớn đến tột cùng “lồng ngực Súa đã vỡ tan ra như quả lê chín rơi trúng phiến đá” (Lặng yên dưới vực sâu)… Cái tài của Đỗ Bích Thúy không phải ở việc dụng công tạo dựng những tình huống truyện đặc sắc, mà ở khả năng đi sâu miêu tả những góc nhỏ chìm khuất của tâm trạng con người. Những biến chuyển tinh vi, mong manh, những suy cảm sâu sắc đầy day dứt, những nỗi buồn vui, những nụ cười và cả những giọt nước mắt… Tất cả làm nên một nỗi u hoài, ám ảnh đến khôn nguôi. Những nhân vật chính trong truyện ngắn của chị hầu hết đều nặng một chữ Tình, và phần lớn là phụ nữ, những người đàn bà miền núi với “những cuộc đời rủi ro và số phận nghiệt ngã”, luôn phải “sống trong những nỗi khát khao lớn hơn dãy Tây Côn Lĩnh, sâu hơn đáy sông Lô – những nỗi khát khao không gì nhấn chìm được, cũng không cách gì đạt tới được”(2). Đỗ Bích Thúy nhận ra và thể hiện trong những truyện ngắn của mình những đặc điểm tâm lí, lối sống của con người miền núi một cách chân thực. Nhân vật chính của chị luôn là những người đàn bà miền núi có sức sống nội tại với những khát khao mãnh liệt ẩn tàng. Nhưng con người ta đâu chỉ sống với những khát khao, người ta phải sống nhiều với trách nhiệm, nghĩa vụ, đôi khi phải hi sinh lặng thầm, nhẫn nại và câm nín. Đỗ Bích Thúy đã phát hiện ra những bi kịch của số phận đằng sau hình ảnh của những người đàn bà miền núi với cuộc sống hàng ngày lặp đi lặp lại, đơn điệu và tưởng như lặng lẽ đến bình thản ấy. Đây đó, trong các truyện ngắn của chị, ta bắt gặp những nỗi ám ảnh đến da diết của quá khứ đã qua, còn đó những day dứt của cuộc sống hiện tại bế tắc, không lối thoát và cả những giằng níu giữa quá khứ và hiện tại như những sợi dây vô hình khiến con người chìm vào bi kịch.
Đọc tập tản văn Đến độ hoa vàng, ta càng hiểu thêm quá khứ, ký ức có ý nghĩa và có vị trí như thế nào trong cuộc sống của chị, trong tâm hồn và cả trong những trang viết của chị. Ai đó đã nói rằng, người nào không nhìn về quá khứ thì không có tâm hồn. Và trong truyện ngắn của mình, Đỗ Bích Thúy đã khắc họa những nhân vật rất nặng lòng với quá khứ, phải chăng vì thế mà những nhân vật ấy luôn day dứt, ám ảnh ta? Ngải đắng ở trên núi là những ấn tượng sâu đậm về cuộc sống đầy gian khó, thiếu thốn của vùng núi cao trong quá khứ như cái để tâm hồn con người neo đậu, bấu víu “khi nào nhớ về mẹ, tôi cũng hình dung thấy ngôi nhà với chín bậc cầu thang, nơi tôi run rẩy, chập chững đi ra cuộc đời và từ cuộc đời đầy giông bão trở về”. Có những cái thuộc về quá khứ nhưng lại khiến con người ta day dứt khôn nguôi trong Gió không ngừng thổi. Những buổi chiều ngang qua cuộc đời là một chuỗi những kí ức dài và buồn, ảm đạm và lê thê như những buổi chiều hoang vu, tĩnh lặng luôn ám ảnh cuộc sống thực tại của nhân vật người phụ nữ đã bước qua phía bên kia của đỉnh dốc cuộc đời. Tráng A Khành kể về những nỗi đau từ sâu thẳm tâm hồn người phụ nữ buộc phải vùi sâu chôn chặt để đón nhận và yêu quý thằng bé còn đỏ hỏn, chỉ mong làm tròn nghĩa vụ với nhà chồng. Thằng bé lớn lên trong cái khắc khoải, lặng thầm, đau đáu về quá khứ của người mẹ nuôi. Quá khứ ám ảnh ta bởi những nỗi buồn, còn cuộc sống hiện tại cũng có biết bao dằn vặt, trăn trở. Có biết bao số phận con người đang sống trong một cuộc sống bế tắc và bi kịch. Đó là hình ảnh hai vợ chồng với một cuộc sống buồn heo hắt như một buổi chiều nhập nhoạng khi tuổi già xế bóng (Những buổi chiều ngang qua cuộc đời). Đó là mối tình câm lặng của cậu trai mới lớn dành cho người chị dâu xinh đẹp góa bụa (Sau những mùa trăng). Đó là người mẹ già suốt đời làm “cục đá kê chân cột nhà chồng” (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá). Đó là nỗi đau của lòng tự ái trẻ con có phần ích kỉ của một đứa trẻ khi chứng kiến một người phụ nữ khác thay thế mẹ sống trong ngôi nhà của mình (Mẹ kế). Và sự chôn vùi cuộc sống không tình yêu, không hi vọng trong yên lặng đến vô cùng của người phụ nữ bị bắt làm dâu nhà người, lỡ dở một mối tình tha thiết. (Lặng yên dưới vực sâu).
Tiếng dao băm bí suốt ngày đêm của Xây (Mẹ kế) không thể làm em vơi bớt đi nỗi buồn, ngược lại nó làm cho những người thân yêu của em phải sống trong dằn vặt, đau đớn. Cả ba con người trong câu chuyện này đều là người tốt, và lẽ ra đều đáng được hưởng hạnh phúc. Người mẹ kế kia không hề đối xử tệ bạc với Xây. Những phản ứng gay gắt của Xây cũng chỉ xuất phát từ tình yêu thẳm sâu dành cho mẹ và từ tính cách quyết liệt của con người miền núi, một đứa trẻ cũng không phải là ngoại lệ. Ba con người sống trong ngôi nhà ấy giống như ba ngọn lửa nhỏ, nếu chụm vào nhau thì sáng ấm gian nhà, nhưng họ lại không thể chụm vào nhau mà tách biệt mỗi người một góc, để ánh sáng ấy cứ leo lét dần rồi tắt. Cái chết của người cha có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng là lúc đứa trẻ nhận ra tấm lòng người mẹ kế. Khi Xây tỉnh ngộ thì đã quá muộn. Vậy là chính những điều tưởng chừng như không có gì hệ trọng lại dồn đẩy con người ta vào bi kịch. Con người ta không biết cách vượt qua để cởi bỏ và hóa giải những cái nhỏ nhặt ấy để rồi tan vỡ hạnh phúc của cả một gia đình.
Nỗi đau thân phận của Súa (Lặng yên dưới vực sâu) là khúc hát làm dâu đau đáu đầy ám ảnh lẫn vào trong gió. Số phận người phụ nữ chỉ như hạt tuyết nhỏ nhoi, như “quả bông nở bị gió cuốn đi”, như cái nhắm mắt của cô khi nhảy xuống vực sâu phó thác cho số phận. Nhưng càng vùng vẫy thoát ra khỏi nó, cô càng bị mắc chặt vào nó. Những đứa con giống như những sợi dây buộc chặt cô vào người chồng ấy, vào gia đình ấy. Cuộc hôn nhân không tình yêu chôn vùi cả cuộc sống và tâm hồn người phụ nữ, như “bông anh túc rực rỡ mà héo úa” trong cái lặng yên đến vô cùng của vực sâu. Đọc Lặng yên dưới vực sâu, ta có cảm tưởng Đỗ Bích Thúy đang viết về câu chuyện của một thời nào đó rất xa xưa, chứ không phải là chuyện của thời nay. Dường như những tư tưởng giải phóng cho người phụ nữ, giải phóng cho cuộc sống tự do theo nguyện ước của con người… còn ở đâu đó rất xa cái xứ này. Cuộc sống ở miền núi heo hút với những trì níu nặng nề của những thói tục, những cơ tầng văn hóa cổ truyền khiến con người ta bị trói buộc trong một tấm lưới vô hình không thể nào thoát ra được. Quá khứ luôn theo đuổi đầy da diết và dai dẳng, hiện tại bế tắc không lối thoát. Người mẹ già (Tiếng đàn môi sau bờ rào đá) luôn sống trong câm lặng, hi sinh và chịu đựng. Quá khứ giống như chiếc váy sặc sỡ bảy sắc cầu vồng bấy lâu được cất kín trong hòm nhưng thỉnh thoảng lại được mang ra ngắm nghía, vuốt ve. Và tiếng đàn môi thổn thức lại vọng về. Khát khao tình yêu vẫn còn đó, âm ỉ mà mãnh liệt, thôi thúc con người ta vượt qua những rào cản của nghĩa vụ và trách nhiệm để sống cho chính mình. Hình ảnh người mẹ già với bộ váy áo sặc sỡ cùng bạn tình xưa trong phiên chợ ngày hai bảy, hình ảnh mẹ già đẩy cửa bước theo tiếng gọi của tiếng đàn môi sau bờ rào đá mà May nhìn thấy vẫn chỉ là ngọn lửa bùng cháy trong một thời khắc nào đó của cuộc sống bình lặng mà thôi. Có lẽ, khi trời sáng, mẹ già lại trở về với đúng hình ảnh vốn có của mình, lầm lũi như “hòn đá kê chân cột nhà chồng” ngày này qua tháng khác. Cùng một lúc phải sống cho cả hai thời, hiện tại và quá khứ. Cùng một thời điểm phải sống là hai con người, người vợ và người yêu. Con người phải sống trong sự giằng níu giữa đôi bờ của quá khứ và hiện tại.
Truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy thường có hình ảnh những cô bé câm xuất hiện trở đi trở lại đầy ám ảnh (Thơm trong Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Dí trong Lặng yên dưới vực sâu, Lam trong truyện Trong thung lũng). Những cô bé xinh xắn, đáng yêu mà gánh chịu nỗi đau nghiệt ngã của số phận, gánh cái nợ lớn cho cả gia đình. Có lẽ những ám ảnh này xuất phát từ chính tình cảm da diết khôn nguôi dành cho người chị gái câm yểu mệnh của nhà văn. Đỗ Bích Thúy đồng thời muốn khắc họa sâu sắc nỗi đau của phận người như những nghiệp chướng, những trò đùa vô tâm của số phận.
Viết về những con người nhỏ bé với niềm thương cảm xót xa, Đỗ Bích Thúy đã phản ánh sâu sắc và thấm thía trong những trang viết của mình về một cuộc sống vùng núi cao không bình lặng. Truyện ngắn về miền núi của chị không để cho chúng ta bình thản, và chúng ta cũng không thể bình thản khi đọc chúng. Còn đó biết bao những vấn đề nhức nhối của thực tại xã hội đang làm cuộc sống nơi núi rừng kia chẳng thể nào yên bình, còn đó biết bao số phận con người đang khắc khoải sống với những khát khao mạnh mẽ, mãnh liệt dù biết chẳng bao giờ đạt tới để rồi luôn phải sống trong những bi kịch đầy day dứt. Mỗi câu chuyện là một nỗi niềm riêng đầy khắc khoải, những bi kịch đớn đau, day dứt của thực tại mà con người chưa thể vượt qua. Đời sống phức tạp là đời sống đích thực của con người. Những câu chuyện của chị đâu chỉ là vấn đề của đời sống con người miền núi mà đụng chạm đến những vấn đề rất nhân bản, vấn đề của con người nói chung.
Đỗ Bích Thúy đã thể hiện một sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống, tâm tư, tình cảm, chiều sâu văn hóa và đặc trưng tư duy của con người miền núi. Nhờ vậy, những câu chuyện chị kể đều mang một vẻ đẹp riêng không thể lẫn. Nhưng đến với truyện ngắn Đỗ Bích Thúy, điều có thể làm cho bạn đọc chia sẻ không phải chỉ là những vấn đề mang màu sắc dân tộc, miền núi. Chúng ta tìm đến với truyện ngắn của chị không phải chỉ đọc để biết những cái gì đó rất khác lạ thỏa mãn sự tò mò, mà tìm thấy đằng sau những cái khác lạ ấy những vấn đề sâu sắc và thấm thía của đời sống nhân sinh.
Tiếng gió đại ngàn sẽ chẳng bao giờ ngừng thổi. Và, chúng ta lại chờ đợi chị sẽ kể tiếp cho chúng ta nghe về chuyện đời, chuyện người nơi những dãy núi mờ xa.
* “Gió không ngừng thổi” là tên một truyện ngắn in trong tập Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích Thúy.
(1) Xem Phạm Duy Nghĩa: Văn xuôi về dân tộc và miền núi từ 1986 đến nay - Trang Chuyên Văn học - Văn tải đạo.
(2) Xem Đỗ Bích Thúy: “Người đàn bà” (thay lời giới thiệu cho tập truyện Người đàn bà miền núi) - Nxb. Phụ nữ, 2008.
Gió không ngừng thổi
Bế Thị Thu Huyền
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét