1. Tên của Ni sư Thích Trí Hải: Phùng Khánh, đã đi vào ký ức
tôi qua bản dịch Câu chuyện của dòng sông của Hermann Hesse vào những
năm sáu mươi của thế kỷ trước. Nửa thế kỷ đã trôi qua với bao bể dâu ghê gớm,
Người đã vân du mười ba năm (7-12-2003), tôi ngồi đọc lại những trang viết của
Người, lòng cứ tiếc sao duyên lành đến muộn.
Tháng Ba cũng chính là tháng Công Tằng Tôn Nữ Phùng
Khánh được sinh ra (9-3-1938), ở một nơi mà dấu ấn của Phật Giáo thật là đậm
nét: xứ Huế. Giữa chốn kinh đô lộng lẫy xưa, có một làng quê, đơn sơ, bình yên,
lặng lẽ: thôn Vỹ Dạ, mảnh đất đã chứng kiến cuộc vào đời của một người nữ mang
hạt mầm Bồ tát, nguyện phục vụ chúng sinh. Phùng Khánh lớn lên trong phúc ấm
gia đình, trong hương lành chánh đạo, trong giáo dục khai phóng của nhà trường:
con đường phát triển tinh thần và nghề nghiệp của Người hoàn toàn suôn sẻ. Người
đã bước chân vào con đường dạy học, một trường trung học lớn ở Đà Nẵng: Phan
Chu Trinh và chẳng bao lâu sau, từ đó, Người xuất dương du học (1960). Bên cạnh
Phật pháp, hẳn chữ nghĩa, sách vở cũng là niềm yêu của Phùng Khánh, nên ở Hoa Kỳ,
Phùng Khánh chọn học chương trình thạc sĩ ngành thư viện. Về nước, được làm việc
ngay trong Viện Cao đẳng Phật học và các chùa, một năm sau (1964), Phùng Khánh
xuất gia tại chùa Hồng Ân (Huế).
Ni sư Thích Trí Hải
Từ ngày ấy, chúng ta đã có một ni sư mang tên Trí Hải, pháp
hiệu ấy chính là cốt cách của người (những ai là phật tử cũng có thể nghiệm ra
từ bản thân mình điều kỳ diệu ấy). Bên cái minh triết tự nhiên thấm nhuần từ
kinh sách nhà Phật, Trí Hải còn được trang bị kiến thức chuyên môn hiện đại và
kỹ năng làm việc khoa học. Bốn mươi năm (1964-2003), Sài Gòn, Viện Đại học Vạn
Hạnh, Thiền Viện Vạn Hạnh và nhiều ngôi chùa khác đã in đậm dấu ấn của vị ni sư
khả kính, tài hoa này.[2] Người ra đi khi còn khá trẻ, nhưng
đã lưu lại một sự nghiệp trước tác lớn đến ngạc nhiên: 66 công trình, gồm dịch
thuật, biên soạn, và phóng tác [3], trong đó phần lớn là kinh sách Phật học
và một vài tác phẩm văn chương, tất cả đều đạt đến một sự uyên áo về tư tưởng
và trong sáng, tinh tế về văn phong.
2. Lấy nhan đề Biển tuệ, vườn từ ái, chúng tôi muốn chia
sẻ một cảm nhận, một ước mong, một hành trình của một phật tử đang làm việc
trong lĩnh vực văn chương, nghĩ về Ni sư Trí Hải, tìm hiểu một số trước tác của
Người.
Biển và Vườn, hai không gian của Tự nhiên, chất chứa
nhiều linh diệu, mà con người là kẻ nhận biết, gọi tên và nương theo các linh
diệu đó để khám phá chính mình, từng bước tìm đến tự do. Được khai mở từ Đức Phật,
con đường đến với biển tuệ, vườn từ ái luôn là nỗi hân hoan của mỗi
chúng sinh.
Chuyên chú và hân hoan đi trên còn đường ấy, đã hành đạo bằng
những hoạt động đa dạng, trong biểu hiện nhất quán, thuần thành và tỉnh thức,
Ni sư Trí Hải đã hiển hiện và lưu dấu như một Hành nhân đẹp, một Chủng tử tốt,
một Bồ tát giữa đời.
Cái uyên bác của trường quy, cái mỹ lệ của văn chương, cái
hùng biện của ngôn từ, Ni sư Trí Hải đều đã trải, nhưng hình như tất cả không
làm Người thay đổi. Trang viết, trang dịch của Trí Hải luôn trong trẻo như nước
suối nguồn, xanh biếc một tuệ giác uyên nguyên, sống động một nhịp đập của trái
tim từ bi, lân mẫn.
Theo tài liệu mà chúng tôi tiếp cận được, con đường trước tác
của Ni sư khởi đầu bằng dịch thuật. Tác phẩm đầu tiên được ra mắt mọi người
là Câu chuyện của dòng sông” [4] và sau đó là nhiều công trình khác
thuộc về văn chương, triết học [5]. Cùng với người em gái thân yêu của
mình là Phùng Thăng, Phùng Khánh đã bắt tay chuyển ngữ một tác phẩm được xem là
hàng đầu của Hermann Hesse có tên nguyên tác là Siddhartha. Những ai đã đọc nhà văn này, sẽ nhận
ra sức sống kỳ diệu của Phật Giáo trong hành trình chinh phục phương Tây, đặc
biệt là nước Đức, vốn là một trong những cái nôi của triết học. Đã có nhiều nhà
nghiên cứu trên thế giới viết về Hermann Hesse, đặc biệt là sau khi ông được giải
Nobel văn chương. Trên góc độ một độc giả phật tử Việt Nam, người viết cảm nhận
rằng cái lớn lao nhất dung chứa trong sự nghiệp văn học của Hermann Hesse chính
là nhà văn này đã hiểu thấu yếu tính của Phật Giáo, cả trong tư tưởng lẫn trong
hành ngôn. Dùng văn học để chuyển đạt triết lý và câu chuyện nhà Phật, Hermann
Hesse đã vượt qua một cách ngoạn mục cái hấp lực vốn có của nghệ thuật văn
chương. Những hư cấu tất nhiên của tiểu thuyết sẽ làm sao để không tạo nên cảm
giác đó là sự tô vẽ rườm rà. Những câu văn và hình ảnh đầy sức gợi cũng không
kéo ta đi xa sự thực, đưa ta vào những cảm xúc phù phiếm. Trong suốt lịch sử
trao truyền tư tưởng của mình, các vị Tổ sư Phật giáo đã luôn cảnh báo về nguy
cơ tiềm ẩn trong lời. Vô ngôn đã được xem là một điều kiện tối
ưu dẫn đến khoảnh khắc giác ngộ.
Tuổi đôi mươi, Phùng Khánh đã sớm nhận ra những giá trị đích
thực như vậy xuyên qua trùng trùng sách vở. Những gì Hermann Hesse tìm thấy được
qua những năm tháng dài trải nghiệm kiến thức Tây- Đông, đã được Phùng Khánh tiếp
nhận một cách tự nhiên, trẻ trung của một tâm hồn nữ Việt Nam. Khi chuyển ngữ
tiểu thuyết Siddhartha, Phùng Khánh và Phùng Thăng đã tự nhiên phả vào bản
dịch cái Phật tính mà gia đình của hai dịch giả đã thấm nhuần tự bao đời [6]. Vì vậy, thay vì giữ nguyên nhan đề
là Siddhartha của nguyên tác (có thể dịch ra là Tất Đạt Đa) hai dịch
giả đã lấy một cái tên mới: Câu chuyện của dòng sông. Hơn 40 năm qua,
Hermann Hesse và tác phẩm của ông đã trở nên quen thuộc hơn với công chúng Việt,
và không ít người sau này muốn chuyển ngữ tiểu thuyết Siddhartha nhưng
rõ ràng cái tên mà Phùng Khánh và Phùng Thăng chọn và văn bản mà hai cô làm nên
đã rất khó thay thế.
Tại sao Câu chuyện của dòng sông? Quả thật, nội
dung tác phẩm của Hermann Hesse đã nói đến “dòng sông”, nơi Siddhartha đi
qua và trở lại, sau một quá trình tu tập. Nhưng khi Phùng Khánh và Phùng Thăng
đưa dòng sông lên thành nhân vật chính, thì rõ ràng Tự
nhiên thay thế Con người. Phải chăng, trong cái nhan đề mới này, cũng
là tinh thần của tiểu thuyết, và chính xác hơn là quan niệm của nhà Phật, Siddhartha
đã tựu thành chánh quả, đã giác ngộ, nhưng Ngài không là một anh hùng tự đắc,
Ngài là người học trò hiểu thấu lời nhũ của Tự nhiên. Tôi tự hỏi con sông Hương
có vai trò gợi ý nào không với Phùng Khánh, Phùng Thăng, một thời tuổi trẻ tươi
hồng ở Huế?
Trong dịch thuật văn chương, Phùng Khánh còn có tác phẩm Bắt
trẻ đồng xanh [7], ra cùng thời điểm với Câu chuyện của
dòng sông. Khác với Câu chuyện của dòng sông, xuất bản từ 1922, đã được thời
gian khẳng định, tên tuổi tác gỉa đã vang danh như cồn sau khi nhận giải Nobel
(1946), Bắt trẻ đồng xanh của J.D. Salinger chỉ xuất hiện trước bản dịch có
14 năm (1951), và từ khi ra đời cho mãi đến 1980, nó vừa được đề cao, bán rất
chạy, vừa bị nhiều dư luận ở Hoa Kỳ lên án. Trong ba năm học cao học ở Hoa Kỳ,
hẳn Phùng Khánh đã gặp tác phẩm này cũng như đã hiểu được dư luận xung quanh
nó, thế mà cô gái trẻ tuổi đôi mươi, đang ngấp nghé đi vào thiền môn, lại chọn
dịch Bắt trẻ đồng xanh để giới thiệu với công chúng Việt Nam!
Trong những bài viết đó đây và các comments ngắn của
người đọc trẻ trên internet, khi Bắt trẻ đồng xanh được tái bản và dịch
lại [8], chúng ta vẫn nhận ra nỗi ngạc nhiên của
họ trước sự độc đáo của tiểu thuyết này. Phùng Khánh của chúng ta thật là bản
lĩnh! Cô không chỉ vượt qua các quy phạm thường tình của nhân sinh quan thông
thường, cô còn vượt qua các chuẩn mực vốn có của ngôn ngữ vốn được xem là có học,
hơn nữa, cô đã xé bỏ cái e dè vốn có của phái nữ (là con gái Huế hoàng tộc, kín
cổng cao tường) trong mình, khi chuyển đạt những ý tưởng, hình ảnh trần trụi và
những đối thoại, độc thoại thô, tục. Trong một bài viết hay và công phu về hiện
tượng The Catcher In The Rye của J.D. Salinger, Quán Như cũng đã thắc
mắc và ngạc nhiên: “Phùng Khánh dịch tác phẩm Câu Chuyện Của Dòng Sông của
Herman Hesse là điều dễ hiểu. Nhưng Bắt Trẻ Đồng Xanh? Trong câu chuyện,
Holden cũng như các thanh thiếu niên mới lớn khác văng tục “không ngừng da
non”, nghịch ngợm phá phách đủ mọi cách, đánh nhau. Trong hai ngày ở New York,
Holden giả “người lớn” vào quán rượu, say sưa, kêu một cô gái giang hồ lên
phòng vân vân… Tôi tưởng tượng nỗi bối rối của Phùng Khánh khi phải tìm một chữ
để dịch các tiếng chửi thề “goddamn” “Phony bastards” “my ass”…Tôi không nghĩ
Phùng Khánh chỉ muốn dịch một tác phẩm ăn khách” [9].
Chỉ có thể nói là Phùng Khánh đi theo tinh thần nhà Phật: phá
chấp, hay là “cái tâm không phân biệt”, nói theo Quán Như. Đôi mắt xanh trong
Phùng Khánh đã nhận ra sự nổi loạn của Holden là một phản ứng chống lại những
gì mang tính công thức, giả dối. Người Phật tử trong Phùng Khánh đã nhìn thấy
phật tính trong Holden, một tâm hồn thuần khiết, từ ái, tràn đầy “đức hiếu
sinh” “nhạy cảm đối với người khác, yêu tuổi thơ và muốn sống vô tư, tự nhiên
và trung thực” [10].
Về phương diện dịch thuật, cũng như bản dịch Câu chuyện
của dòng sông, bản dịch Bắt trẻ đồng xanh đã đạt đến một giá trị cao,
hài hòa, tinh tế cả về văn phong, nhịp điệu, ngôn ngữ đối thoại. Đặc biệt với
nhan đề của truyện, Phùng Khánh đã làm công việc chọn lựa một lần cho tất cả.
Ngoài các bản dịch tác phẩm văn chương, Ni sư Trí Hải còn diễn
giải giới thiệu các bộ kinh và phóng tác những câu chuyện mang triết lý Phật
giáo.
Từ nguồn Diệu Pháp là một công trình diễn giải mà tư tưởng
uyên áo của kinh sách đã được chuyển tải qua một ngôn ngữ trong trẻo tràn đầy
chất thơ. Những câu văn tuôn chảy nhẹ nhàng, rót vào lòng người những nguồn nước
mát lành, tinh túy.
Hãy đọc đoạn mở đầu của Từ nguồn Diệu Pháp:
“Qua Trung bộ kinh gồm 152 kinh do Hòa Thượng Minh Châu phiên
dịch, chú thích và giảng giải, chúng ta tìm thấy một nguồn sinh lực rạt rào của
kinh tạng Pàli mà các học giả đều công nhận là gần với thời Phật nhất, ghi lại
những lời dạy của Ngài qua 49 năm du hóa. Ở đây, đức Phật được làm sống lại
như một con người, và một con người tuyệt luân. Nghe Trung bộ kinh, chúng ta
như được thở lại bầu không khí trong lành vườn Cấp cô độc ngày xa xưa ấy. Chúng
ta cảm như được dự phần vào pháp hội đông đảo thính chúng của Phật gồm cả loài
Người và chư Thiên. Chúng ta như được gần gũi chư vị Thánh đệ tử quen thuộc
kính yêu mà khoảng cách thời gian dài 25 thế kỷ và không gian cả đại trùng
dương không làm cho chướng ngại”[11].
Trí Hải đã dùn g những từ “tìm thấy”, “nghe”, “thở”, “cảm” “dự
phần” “gần gũi”… để đánh thức trải nghiệm. Suốt công trình, các động từ chỉ tiếp
nhận giác quan luôn chiếm một tần số rất cao.
Những kiến thức triết học, tâm lý học, văn học đã hòa quyện
trong trang viết của Trí Hải, tạo ra một trường liên tưởng rộng rãi, cực kỳ
linh hoạt. Người dẫn chứng các tư tưởng triết học (triết học hiện sinh, phân
tâm học…) để đối chiếu. Người trích nhiều ý kiến của các triết gia và các nhà
văn (Voltaire, Molière, Thomas Hobbes, V.Hugo, Chateaubriand…) và các tác
phẩm văn chương (Say đi em của Vũ Hoàng Chương, Lời kỹ nữ, Chiều của
Xuân Diệu, Cuồng nhân nhật ký của Gogol,Truyện Kiều của Nguyễn
Du, Cây thông của Nguyễn Công Trứ, thơ của H.W. Longfellow, của
Alfred de Musset, của Keats, của Mãn Giác thiền sư…)
Đường về nội tâm gồm 47 truyện, được ghi là phóng tác.
Những thuyết thoại nghe được từ các vị thầy trong khi tu tập (tất cả đều có chú
thích rõ ràng), đã được Ni sư viết lại trong tinh thần trao truyền Phật pháp. Tất
cả đều tươi tắn như chính cuộc đời, ân cần kêu gọi chúng sinh bước vào con đường
lành của chánh pháp. Đặc biệt, đôi khi Trí Hải đưa vào truyện những chi tiết
sát với đời sống hiện tại, như Người của ngày xưa. Và cũng như Từ nguồn
Diệu Pháp, Trí Hải đưa nhiều câu ca dao, câu thơ tham gia vào trong truyện.
3. Sáu mươi sáu năm tại thế, trong đó bốn mươi năm được hành
trì Phật pháp, Ni sư Trí Hải đã có những đóng góp lớn lao cho Đạo và cho Đời. Sự
nghiệp trước tác của Ni sư trải dài trong suốt thời gian ấy, là dịch thuật,
biên soạn, hay phóng tác, hết thảy đều là những trang sách quý. Độc giả Việt
Nam, nhiều thế hệ trẻ già, từ những năm 60 của thế kỷ trước cho đến đầu thế kỷ
này, đặc biệt là tầng lớp trí thức, không ai là không nhớ đến tên Phùng Khánh
-Trí Hải [12]. Ni sư Trí Hải đã mở nhiều cánh cửa, đã
bắt nhiều nhịp cầu cho chúng sinh được cùng bước vào vui chơi khu Vườn Từ Ái,
được cùng tắm trong Biển Tuệ, với Người. Tràn đầy lòng biết ơn, bài viết này chỉ
mới chạm được đến một phần rất nhỏ trong di sản mà Người để lại. Những mong có
một dịp gần, được nghiên cứu kỹ về tất cả.
Hermann Hesse (1965, Phùng Khánh, Phùng Thăng dịch). Câu chuyện
của dòng sông. Nxb. Lá Bối, S, (1967, Phùng Khánh dịch) Bắt trẻ đồng xanh. Nxb. Thanh
Hiên, S.
http://linhsonphatgiao.com/
http://www.tuvienquangduc.com.au/
http://www.daophatngaynay.com/vn/
http://khuonmatvannghe.com/
Nguồn: Tham luận tại Hội thảo “Nữ giới Phật giáo Việt Nam:
truyền thống và hiện đại”, đã đăng kỷ yếu Hội thảo và công bố trên Tạp
chí Sông Hương năm 2016.
[1] Khoa
Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh. Pháp danh Tâm Hạnh Thi.
[2] Nguyên
thư viện trưởng và Giám đốc An sinh xã hội viện Đại học Vạn Hạnh, Phó viện trưởng
viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Nguyên Giảng sư Học viện Phật giáo Việt Nam
tại TP. Hồ Chí Minh, Trụ trì tịnh thất Tuệ Uyển Vạn Hạnh, Liên Hoa, Diệu Không.
Theo http://linhsonphatgiao.com/
[3] Theo http://phapbao.org/
[4] Câu
chuyện của dòng sông Nxb. Lá Bối 1965, tái bản 1966. Nxb. An Tiêm, 1967.
[5] Có
thể kể thêm những bản dịch chính: Con Ðường Thoát Khổ, dịch W. Rahula, Ban
Tu Thư Vạn Hạnh,1966; Câu Chuyện Triết Học, dịch cùng Bửu Ðích, Will
Durant, Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Ganhdhi Tự Truyện, dịch Ghandhi, Võ
Tánh, 1971; Thanh Tịnh Ðạo, dịch B, Buddhaghosa; Tư Tưởng Phật
Học, dịch W. Rahula, Vạn Hạnh, 1974, Giải Thoát Trong Lòng Tay, Thanh
Văn xuất bản; Ảo hóa; Nhà khổ hạnh và kẻ lang thang;Thiền đạo, Đưa vào Mật
tông… Tạng Thư Sống Chết, dịch The Tibetan Book of Living and Dying của
S. Rinpoche, 1996; Tâm Bất Sinh, dịch Bankei, Hoa Ðàm, 2005….
[6] Thân
phụ của Phùng Khánh là cụ Nguyễn Phước Ưng Thiều tự Mân Hương, pháp danh Như
Chánh, thân mẫu là cụ bà Đặng Thị Quê, Pháp danh Trừng Xuân.
[7] Jerome
David Salinger, The Catcher in the Rye, 1951. Bắt trẻ đồng xanh,
Phùng Khánh dịch, Nxb. Thanh Hiên, S. 1967
[8] Bắt
trẻ đồng xanh, Phùng Khánh dịch, Nxb. Văn học và Công ty Nhã Nam tái bản, có sửa
chữa năm 2008.
[9] “Quán
Như tên thật Phạm Văn Minh, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Sài Gòn năm 1964, và Cao
Học Giáo Dục tại Đại Học Sydney năm 1978, sống ở Úc từ trước 1975 cho đến bây
giờ. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách nghiên cứu về Phật Giáo, trong đó tác
phẩm mới nhất là cuốn Kinh tế Phật giáo”, 2012, Nguồn: http://phamcaohoang.blogspot.com/
[10] Quán
Như, Bđd, nt.
[11] Từ
nguồn diệu pháp, http://www.budsas.org/
[12]Viên
Linh, một nhà văn, đã viết: “Có một điều gì đó ngoài ý muốn xảy ra mỗi khi người
viết bài này sửa soạn viết về nhà văn nữ lớn nhất của Miền Nam những năm
’60-’70, dịch giả Phùng Khánh hay Sư Bà Thích Nữ Trí Hải”. “Trí Hải dịch nhiều
hơn sáng tác, dịch giả đúng hơn là tác giả, nhưng văn xuôi của tác giả thì cuồn
cuộn như thác nước, nhất là văn kể chuyện, và nhất là trong tập san văn hóa Tuệ
Uyển do tác giả sáng lập điều hành từ 1994 ở Sài Gòn, ra tới năm thứ chín thì
con thiên nga đầu đàn bay về cõi Niết Bàn”. http://khuonmatvannghe.com/.
Sài Gòn, 19-3-2016
Nguyễn Thị Thanh Xuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét