Lời mở đầu
Sách này mang tên "Những hiểu biết về cuộc đời" là có ý muốn
đem sinh mệnh sinh tồn, cuộc sống và cuộc đời trong giây lát không thể tách rời
với con người xác lập thành những đối tượng có thể nghiên cứu tỉ mỉ, qua việc
nhìn thấu rõ quá trình sinh mệnh, trạng thái sinh tồn và sự thay đổi cuộc sống
của con người, để giúp người ta nhận thấy tính phức tạp của đời người, phân
tích mọi mặt của cuộc sống, tiến tới tìm tòi các con đường và phương pháp làm
tiêu tan mọi đau khổ của đời người, loại bỏ mọi vất vả mệt nhọc của đời người,
vượt qua mọi bước gập ghềnh khúc khuỷu của đời người, giành được cuộc đời thuận
lợi và hạnh phúc.
Sách này tập trung khai thác và trình bày trí tuệ đời người
phong phú của các hiền triết trong và ngoài nước, giúp con người hiện đại từ
nguồn tư liệu có tinh thần tích góp vững chắc này rút ra những điều bổ ích, từ
đó nhìn thẳng vào đời người nghiệt ngã, thay đổi trạng thái sinh tồn của mình,
làm tăng thú vui của đời người, giảm bớt nỗi buồn rầu, đau khổ, buồn giận và nhạt
nhẽo của đời người.
Sinh mệnh mọi người đều có, nhưng đối với nó dễ có mấy người
thường thấu hiểu? Cuộc sống là cái theo sát mọi người, nhưng liệu có mấy người
thường xét lại mình đối với nó? Đời người là tiếng gọi chung của đời sống vật
chất, đời sống tinh thần, hoạt động cơ thể sinh mệnh, nhưng trên đời lại có mấy
người thường kiên trì nghiên cứu sâu về đời người?
Không nhìn thấu rõ đối với sinh mệnh thì không thể thật sự
quý trọng sinh mệnh; không xét lại mình đối với cuộc sống thì không thể thật sự
hiểu được phải sống như thế nào. Không tìm hiểu sâu đối với đời người thì không
thể tránh được tai họa, gian nan và ngoắt ngoéo của cuộc đời.
Cả ba điều đó đều không có, đương nhiên sẽ khó mà giành được
cuộc đời như ý, hạnh phúc và trọn vẹn.
Các nhà hiền triết thời xưa của Trung Quốc có cảm thụ nhạy
bén khác thường và tôn sùng hết sức đối với sinh mệnh. Họ xem sinh mệnh là bản
thể và bản chất của vũ trụ, đem tất cả mọi cái trên đời đều chỉ là quá trình
sinh ra, phát dục, nuôi dưỡng lớn lên và tử vong, lại sinh ra và phát triển lại
lần nữa. Cho nên, "trời đất" có hiếu sinh chi đức, con người cũng nên
có tinh thần sinh sinh bất tức, quý trọng sinh mệnh, tu dưỡng tâm tính để xứng
đáng với thiên đức.
Sinh mệnh của con người đã cao cả như thế, con người không có
lý gì không trân trọng. Tính quan trọng của sinh mệnh không chỉ ở chỗ nó đối với
con người là duy nhất, mà còn ở chỗ con người cũng cần phải trong thời hạn sinh
mệnh ngắn ngủi nên sống cho ra sống, sáng tạo ra giá trị để làm cho sinh mệnh của
mình phấn chấn và cố gắng ghi được những dấu ấn của mình trong lịch sử nhân loại,
từ đó vượt qua được thời hạn của sinh mệnh, giành được sự sống mãi với thời
gian.
Các nhà hiền triết của phương Tây thì có nhận thức sâu sắc và
vạch ra tính bi kịch đối với sinh mệnh. Nỗi khổ của sinh mệnh sinh ra, nỗi đau
buồn trong quá trình sinh mệnh, nhiều mặt đen tối của cuộc đời v.v... đều được
hiện ra trước mắt người đời. Người ta trong khi bị rung cảm, cũng nên và cần phải
thăng hoa ra một sứ mệnh và ý thức phấn chấn: tẩy rửa tội lỗi của thế gian, biến
thế giới bi thảm thành cảnh sung sướng của thế gian.
Đây là trách nhiệm và định mệnh của mỗi người có sinh mệnh
chúng ta. Mặc dù, đây hoàn toàn không phải là quá trình sinh mệnh của một người
có thể hoàn thành, thậm chí cũng không phải mấy đời người có thể làm được,
nhưng trong quá trình người trước ngã xuống người sau kế tiếp, không ngừng cố gắng
này, toàn thể sinh mệnh của loài người phát ra ánh sáng sán lạn nhất, huy hoàng
nhất, khiến cho thế giới bi thảm này có ánh sáng, có hy vọng, đồng thời có cải
thiện, có phát triển không ngừng.
Nhìn thấu rõ sinh mệnh, nắm chắc sinh mệnh, xếp sắp sinh mệnh
như thế, chắc chắn sẽ làm cho đời người đi tới huy hoàng.
Đặc điểm bản chất nhất của đời người là tính phức tạp. Cùng với
sự phát triển của xã hội, sự khai thác lĩnh vực cuộc sống, sự đa dạng của văn
hóa tinh thần của loài người, cuộc đời của mỗi người đều đang phát sinh thay đổi
rất lớn. Trạng thái sinh tồn khó mà lựa chọn được, phẩm chất cuộc sống theo đuổi
vô cùng tận, thái độ nhân sinh biến đổi khôn lường, đều làm cho nội dung của đời
người phức tạp vô cùng.
Nhiều người chắc chắn là đều có sinh mệnh, cũng đang sống,
nhưng trong mê hoặc của đời người luống cuống không biết đối xử với đời người
như thế nào, không biết sắp xếp cuộc sống như thế nào, càng không thể làm thay
đổi quỹ đạo đã định của đời người, khiến cho đời người phát triển theo phương
hướng vừa ý vừa lòng, như thế là không có cách gì giành được đời người hạnh
phúc.
Phương diện quan trọng nhất của đời người, các nhà triết học
trong và ngoài nước xưa nay đều có cảm tưởng giống nhau, là sự xác lập của quan
niệm nhân sinh. Nghĩa là người ta không thể sống một đời không có lý tưởng, không
có theo đuổi, không có nguyện vọng, xây dựng mục tiêu nào đó của đời người, mới
có thể làm cho cuộc sống của con người có phương hướng và nguồn động lực, mới
có thể thay đổi đời người dại dột ngây ngô kiểu trôi theo dòng nước, trở thành
ý chí chủ quan lo liệu cho con người, có thể điều chỉnh trí tuệ nhân sinh kiểu
năng động tăng giảm.
Nói chung, lý tưởng và mục tiêu phấn đấu của đời người không
thể quá theo cảm tính, quá theo ham muốn vật chất, quá thế tục, quá vụ lợi, nó
cần phải có tính vượt trước, tính cao cả và tính tinh thần. Bởi vì thế giới cảm
tính biến ảo vô cùng khó mà cố định mãi mãi, không thể nào trở thành mục tiêu đời
người con người vì nó phấn đấu suốt đời được. Còn mục tiêu có tính ham muốn vật
chất, tính thế tục và tính vụ lợi, mặc dù cũng có thể tăng thú vui của đời người,
nâng chất lượng cuộc sống lên, nhưng nó vĩnh viễn không có khả năng thỏa mãn,
xét đến cùng chỉ là một bộ phận nào đó trong sinh mệnh của con người, lấy nó
làm mục tiêu phấn đấu của đời người, thì nguồn động lực đời người cho con người
chắc chắn là có hạn, mà còn có thể dẫn đến đời người tầm thường hóa, tiêu cực
hóa, thậm chí bước vào con đường sai lầm.
Cho nên, quan niệm đời người phải có tính cao cả, lý tưởng của
đời người phải có tính vượt trước, theo đuổi của đời người cuối cùng vẫn nên trở
về với chốn tinh thần. Chỉ có như thế, sinh mệnh của con người mới có khả năng
đạt được thành tựu xuất sắc, quá trình sống của con người mới có hứa hẹn có giá
trị, đời người mới có thể đi tới huy hoàng.
Trong quá trình của đời người, nếu xác lập được quan niệm
nhân sinh, thế thì cuộc sống sẽ có mục tiêu, nó có thể làm cho người ta có tiêu
chuẩn đánh giá của giá trị, khi bạn làm một việc gì hoặc không làm một việc gì,
khi bạn muốn một trạng thái nào đó hoặc từ chối một trạng thái nào đó, đều có
thể dùng tiêu chuẩn của giá trị này để cân nhắc, phân biệt rõ tốt xấu, hơn
thua, đẹp xấu, thật giả. Như thế, đời người của bạn mới có tính thiết thực, cuộc
sống của bạn mới có thể đi vào con đường đúng đắn, việc theo đuổi của bạn mới
có khả năng hiện thực.
Việc xác lập quan niệm đời người còn có thể làm cho người ta
có nguồn động lực nhân sinh to lớn. Trong cuộc sống, con người trôi theo dòng
nước không có chút thành tích gì, hay là niềm tin kiên định, tích cực, có triển
vọng, đây là vấn đề thái độ nhân sinh, là vấn đề có động lực nhân sinh không và
nguồn động lực nhân sinh mạnh yếu. Lịch sử từ xưa đến nay đều thuyết minh rõ đời
người của người thành công đều có nguồn động lực nhân sinh lớn nhất, họ tràn trề
sức sống của sinh mệnh, có tính xốc nổi đời người to lớn, cho nên có thể coi
thường đau khổ của nhân gian, chiến thắng mọi gian nan hiểm trở trong đời người
một cách dũng cảm. Dù cho có lúc thất bại, họ cũng không hề biết sợ hãi, vẫn
vui vẻ, tích cực đi tới, thẳng tiến không lùi. Trên thực tế, nguồn động lực
nhân sinh lớn nhỏ, thường quyết định đời người thành công hay không. Đây có thể
nói là một trong những nguyên lý quan trọng của đời người, người ta quyết không
thể phớt lờ được.
Có cách nhìn sâu sắc đối với sinh mệnh, có quan niệm nhân sinh
sinh ra từ đó và động lực nhân sinh, người ta lại cố gắng nắm vững một số kỹ xảo
của cuộc sống, liền có thể khiến cho đời người tiến lên một tầng nấc mới.
Kỹ xảo của cuộc sống là chỉ trong quá trình sống, trong sự
chìm nổi của cuộc đời người, người ta vận dụng trí tuệ, khéo giải quyết các vấn
đề khó, làm tiêu tan đúng mức cảnh khó khăn trong cuộc sống, mọi trở ngại trong
đời người, từ đó làm cho cuộc sống tràn ngập niềm vui, đời người càng thêm hạnh
phúc.
Kẻ trí trong và ngoài nước xưa nay có cuộc sống từng trải rất
phong phú, lại có sự tu dưỡng lý luận rất cao sâu, hàng ngàn năm nay đã tổng kết
vô số trí tuệ nhân sinh, nó là của cải tinh thần đáng quý nhất của người hiện đại,
người ta có thể từ trong đó thu hút chất dinh dưỡng nhân sinh vô cùng tận, tiến
tới nghiền ngẫm kỹ, tiêu hóa, chuyển hóa thành phương thức và phương pháp ứng
phó với xã hội và cuộc sống ngày càng phức tạp, khiến cho sự sinh tồn của người
ta càng thêm vững chắc, khiến cho cuộc sống của họ càng thêm tốt đẹp, khiến cho
đời người của chúng ta có ý nghĩa và giá trị hơn.
Trên đây là những nội dung quan trọng của cuốn sách này muốn
cung cấp cho bạn đọc. Chúng tôi cảm thấy rằng, sống trong xã hội biến ảo khôn
lường, chìm nổi trong dòng đời nhấp nhô bất định, con người hiện đại nhất định
phải đi tìm tòi bản chất của sinh mệnh, nội dung của đời người, trạng thái sinh
tồn, kỹ xảo của cuộc sống, đồng thời tiến tới học tập kinh nghiệm cuộc đời của
các nhà hiền triết xưa, xét lại trạng thái sinh tồn của mình, từ đó xây dựng cuộc
đời của chúng ta trôi chảy hạnh phúc mỹ mãn.
Khám phá bí mật của bản chất sinh mệnh
Sinh mệnh là toàn bộ quá trình thu hút, tiêu hóa, hấp thụ và
bài tiết của sinh vật đối với vật chất bên ngoài, biểu hiện thành sức sống
trong quá trình thời gian liên tục. Sinh mệnh của con người là hiện tượng phức
tạp nhất, lạ lùng nhất trong mọi sinh mệnh trong vũ trụ. Nó không chỉ là một sự
vận động của cơ thể mà còn là hoạt động của tinh thần, tâm lý và tư tưởng.
Điều đó khiến cho sinh mệnh của con người có thể cao hơn sinh
mệnh của các sinh vật khác, đạt được sự tồn tại và phát triển tốt hơn. Nhưng
cũng định trước sinh mệnh của con người trong quá trình tự nhận thức và tự hối
lỗi sẽ bị hỏi và đòi giải đáp những điều nghi ngờ gấp bội.
Bởi vì các sinh vật khác không thể hỏi sinh mệnh từ đâu tới?
Sinh mệnh phải sống như thế nào? Cũng không thể có ý thức thể nghiệm mọi đau khổ,
buồn rầu chứa chất trong quá trình sinh mệnh và đành chịu vậy. Đương nhiên càng
không thể cảm thấy sinh mệnh tất nhiên kết thúc, mà quá trình lại vô cùng ngắn
ngủi đã để lại cho sinh mệnh dấu ấn của sắc thái bi kịch.
Cho nên, con người có thể ý thức được mọi trạng thái và quá
trình của sinh mệnh, điều đó hơn hẳn mọi sinh vật khác. Nhưng, cũng khiến cho vấn
đề sinh mệnh của loài người nổi bật lên một cách khác thường, hơn nữa ngày càng
phức tạp hơn.
Mỗi một người sống trên thế giới này, đều nên và cần phải tìm
hiểu bản chất của sinh mệnh, "nhận biết chính bản thân bạn", nhận rõ
bản chất khác nhau của người và động vật, từ đó nắm vững sinh mệnh của mình một
cách hoàn chỉnh, khai thác nội dung phong phú chất chứa trong đó, cố gắng tạo dựng
một sinh mệnh lành mạnh, đồng thời vượt lên trên mọi buồn rầu và đau khổ trong
sinh mệnh, ôm chầm lấy mọi nỗi vui mừng và sung sướng.
1. "Hãy nhận biết bản thân mình"
Con người sinh ra, lớn lên, sống, nếu như tự hỏi lương tâm
mình: Bạn đã hiểu bản thân mình chưa? Bạn có biết "người" là gì
không? Có lẽ bạn sẽ cứng lưỡi không thể trả lời được. Chẳng lẽ tôi vẫn không biết
tôi là ai! Tôi còn không biết người là gì ư? Nhưng đích thực bạn có thể không
hiểu biết hoặc hiểu không rõ ràng lắm. Mỗi người chúng ta đều không nên coi thường
vấn đề có vẻ đơn giản này, nó thực tế rất quan trọng đối với đời người.
Miền Bắc Hy Lạp có một thị trấn nhỏ phong cảnh đẹp gọi là
Delphi, tựa lưng vào núi Parnassos đá tai mèo lởm chởm, nhìn ra vịnh Corinth nước
xanh trong vắt. Gió biển đưa phe phẩy, vạn vật sức sống dạt dào, con người làm
việc cần cù, vui vẻ hưởng thụ vẻ đẹp tự nhiên ban tặng. Thị trấn nhỏ bãi biển
êm đềm này vì có một ngôi đền thờ thần Apollon nên trở thành nơi thu hút du
khách bốn phương.
Nghe nói, lời dự đoán của vị thần Apollon này rất linh nghiệm,
người ta thắp hương lễ bái, khấu đầu trước thần để cầu xin "thần ý" một
cách thành tâm. Trên tường đền thờ thần Apollon cao vút khắc một câu châm ngôn:
"Hãy nhận biết bản thân mình" - Đây có thể nói là lời dự đoán tốt nhất,
sâu sắc nhất của thần Apollon tặng cho toàn nhân loại.
Con người cần phải suy nghĩ: "Mình là cái gì? Mình cần
phải là gì? Mình sẽ có thể là gì?
Thường nghe người ta than thở: Tôi đến bản thân mình cũng
không tự hiểu, tôi không biết mình cần gì? Đây chẳng phải chính là kết quả
không nhận biết "tôi" đó sao?
Thần Apollon còn có một lời dự đoán quái lạ nói nhà triết học
đương thời Socrates có trí tuệ hơn bất cứ ai. Bản thân Socrates hoảng hốt lo sợ
muốn thăm dò xem thần vì sao lại khen ngợi ông ta như thế, bèn đi thăm các nhà
triết học, nhà bi kịch, nhà kỹ nghệ khắp nơi. Kết quả sau khi trao đổi sâu với
những học giả này, Socrates đã phát hiện họ mặc dù được coi là tri thức uyên
bác, nhưng trên thực tế thực ra họ không hiểu những cái mà tự nhận là đã hiểu.
Do đó Socrates đi đến kết luận: Thần Apollon sở dĩ khen ông
là người có trí tuệ nhất, hoàn toàn là vì ông nhận thức được sự dốt nát của
mình!
Nhận thấy được và thừa nhận mình dốt nát, mới là người có tri
thức nhất. Cách nói này hầu như tự mâu thuẫn nhau, song ngẫm nghĩ kỹ một chút:
người ta thừa nhận mình dốt nát mới có thể đi tìm tri thức, còn người tự nhận
không có cái gì không biết, hoặc căn bản không cần biết, thì làm sao có thể đi
tìm hiểu biết?
Đến lòng ham muốn cầu hiểu biết đều không có, thì đâu có hiểu
biết được?
Đáng tiếc là người hiểu điều này ở trên đời còn quá ít.
Thế là, Socrates khoác chiếc áo choàng không tay cũ rách, đi
chân không, giữa ban ngày tay xách chiếc đèn lồng đi dạo khắp nơi trong đám người
đông đúc náo nhiệt.
Có người hỏi: "Tìm cái gì?"
Ông đáp: "Tìm người!"
Mọi người đều hết sức ngạc nhiên.
Tìm người trong đám người, không phải mắt mù mà không nhìn thấy
người, cũng không phải là hồ đồ mà không nhận ra người, mà là đi tìm người có
hiểu biết tự biết mình dốt nát, tức là người "nhận biết chính bản thân
mình".
Người ta sinh ra ở đời, nếu không truy hỏi một chút vấn đề
"mình là cái gì?" thì sẽ không thể xác định vị trí cho mình trên vũ
đài của đời người. Nếu không tiếp tục hỏi vấn đề "mình phải là cái
gì?" sẽ rất khó có được mục tiêu phấn đấu cho đời xác định, từ đó mất cơ
chế nguồn động lực của đời người. Còn nếu không tiếp tục tìm tòi vấn đề,
"tôi sẽ là cái gì?" thì sẽ rất khó quy hoạch đường đời của mình mang
tính vượt trước.
Một người nếu như chẳng tự hỏi điều gì, vấn đề gì đều không
có, thì sẽ đành liệt vào phạm vi của "người" mà Socrates phải xách
đèn lồng đi tìm giữa ban ngày.
2. Phân biệt giữa con người và cầm thú
Con người là chúa tể của muôn loài, cầm thú là các loại động
vật. Sự phân biệt người với cầm thú hầu như đã quá rõ ràng, không cần phải nói
rườm rà nữa. Nhưng trong cổ ngữ có câu "cầm thú mặc áo mũ", trong
nhân gian có người hung tàn hơn dã thú, điều này đã dẫn tới việc thảo luận của
các học giả thời xưa của Trung Quốc đối với sự khác biệt giữa người và cầm thú
rốt cuộc là tại đâu.
Đại triết gia Mạnh Tử đã kể một câu chuyện: Một đứa trẻ ngây
thơ hồn nhiên, đang chơi ở bên cạnh một cái giếng cổ, nhảy nhót, vui mừng hớn hở.
Nhưng nó không trông thấy mình cách cái giếng sâu khôn lường ngày càng gần, sắp
rơi xuống đó chết mất mạng. Lúc này, mỗi người đi qua đây mắt nhìn thấy cảnh đó,
chắc chắn sẽ không chút do dự bay về phía trước để cứu giúp. Cũng chính lúc
này, cái mà trong đầu người ấy nổi lên, chắc chắn không phải là muốn vì thế mà
nhận được lời cảm ơn của cha mẹ đứa trẻ, cũng không cầu mong được mọi người đồng
thanh ca ngợi, càng không phải là ghét tiếng khóc của đứa trẻ mà làm. Đương
nhiên, ý định cứu người phát ra ngay lúc đó, không phải nghĩ ngợi gì, không có
bất cứ một suy tính vụ lợi thế thường nào làm nhơ bẩn, Mạnh Tử gọi nó là
"lòng trắc ẩn", tức là tình thương xót đồng tình mà người ta thường
nói.
Mạnh Tử nói: Kẻ không có lòng trắc ẩn sẽ không phải là người,
bởi vì anh ta không có lòng nhân ái đồng tình giúp đỡ người khác, không khác gì
cầm thú.
Ngoài ra, người ta sinh ra còn có "lòng biết xấu hổ",
tự biết những việc nào nên làm, những việc nào không nên làm, những cái gì có
thể giành lấy, những cái gì không thể đòi hỏi. Người ta lại có "lòng nhường
nhau", hiểu biết lời nói cử chỉ của mình phải thích đáng, khi đối xử với
người tự giác cung kính khiêm nhường. Người ta còn có "lòng thị phi"
có thể phân biệt rành mạch đúng sai thiện ác, tốt xấu, đẹp xấu, từ đó cầu cái
đúng loại bỏ cái sai, giương cao điều thiện vứt bỏ điều ác, chọn cái tốt chê
cái xấu, chọn đẹp bỏ xấu.
Cuối cùng Mạnh Tử tổng kết nói, con người có bốn "tấm
lòng" giống như thân thể có tứ chi, chúng làm cho người ta trở thành người,
tạo nên cái thiện của "nhân tính"; còn cầm thú thì không có bốn
"tấm lòng" đó, cho nên chỉ có thể là thú mà không phải là người. Nếu
như một người không có bốn "tấm lòng" này, thì chỉ có thể liệt vào
loài cầm thú có bộ mặt của người, có hành động của người nhưng lại không phải
là người.
Thuở ấy có một học giả khác là Cáo Tử rất không hài lòng với
thuyết tính thiện của Mạnh Tử. Ông phản bác nói: Bản tính của con người sở dĩ
là người không có cái gọi là thiện và ác, giống như dòng nước chảy xiết, ở phía
đông mở một cửa khẩu, nước liền chảy về phía đông, ở phía tây đào một chỗ khuyết
thì lại cuồn cuộn chảy về phía tây. Dòng nước không có định hướng, tính người
cũng không có định tính thiện ác.
Mạnh Tử không chút suy nghĩ, liền bật ra lời phản bác: Dòng
nước quả thực không phân định hướng đông và tây, nhưng ông có thể phủ nhận nước
có chảy xuôi và chảy ngược không? Cái thiện của tính người đúng như dòng nước
tuôn chảy về xuôi, con người không ai không hướng thiện như dòng nước nhất định
phải chảy xuôi.
Cáo Tử rốt cuộc phản bác lại cách nói của Mạnh Tử lần nữa ra
sao, chúng ta không thể nào biết được, chỉ biết về sau có một nhà tư tưởng lớn
là Tuân Tử đã nêu lên một cách nhìn hoàn toàn trái ngược với thuyết tính thiện
của Mạnh Tử: Tính người là ác.
Tuân Tử nói, người ta sinh ra liền theo đuổi tư lợi, nếu
buông lỏng không quản lý, giữa con người với nhau thường tràn ngập sự tranh
giành mà không nhường nhịn; Người ta sinh ra đã hay ghen tỵ thù hằn nhau, nếu
thả lỏng họ tự nhiên, sự tin cậy trung thành trong xã hội sẽ mất đi, việc tàn hại
những người thực thà lương thiện nẩy sinh tới tấp. Người ta sinh ra mà có ham
muốn của tai mắt về lời đẹp người xinh, nếu phát triển theo bản tính của loại
người này, thì việc dâm loạn sẽ phát sinh, quy tắc xã hội cũng không còn gì nữa.
Bản tính con người đã là ác, cho nên Tuân Tử nêu lên cần phải
xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh cơ chế quyền lực chính trị mạnh và chế độ lễ
nghi xã hội để đưa hành vi của con người vào khuôn khổ nề nếp, sửa chữa tính ác
của con người làm cho nó hướng thiện.
Cho nên, tính người có thiện không, có ác không, có không thiện
không ác không phải là một vấn đề chứng minh thuộc lý tính và dẫn chứng trong
thực tiễn, mà phải là vấn đề niềm tin của loài người.
Cũng có nghĩa là xét từ khía cạnh làm cho đời người thêm trôi
chảy, hạnh phúc hơn, từ phương diện xã hội càng hài hòa càng ổn định hơn, loài
người vẫn cần phải vững tin tính người là thiện. Một người chỉ có tin tưởng
"Nhân chi sơ tính bản thiện" (Người ta sinh ra vốn đã có bản tính
lương thiện), mới có thể tự giác xuất phát từ tính lương thiện để phân biệt sự
khác nhau giữa con người và cầm thú, từ đó biểu hiện rõ bản tính lương thiện của
mình, quan tâm người khác, đồng tình với người khác một cách sâu sắc, giơ tay
viện trợ vô tư đối với những người cô đơn, nghèo hèn, bệnh tật, để cho xã hội
này chứa chan tình người ấm áp, để cho thế giới này tràn ngập lòng nhân ái, làm
cho cuộc đời của mỗi người đều tràn đầy hạnh phúc.
Thường có thể nghe và thấy một số người như sau: họ dốc hết
tâm trí, luồn lụy khổ sở, liều mạng kiếm tiền là để nhìn thấy số dư tiết kiệm gửi
ngân hàng không ngừng tăng lên, hoặc muốn tiền và vàng chôn vùi dưới đất và xếp
trong đáy tủ ngày càng nhiều; còn một số người đi sớm về khuya, không ngại vất
vả, làm việc quên mình, nhưng chỉ vì công việc mà làm, trong chu kỳ lặp đi lặp
lại của các động tác có tính máy móc đã quên hẳn đi các mục đích khác; lại có một
số người theo đuổi kinh sử đến già, quanh năm suốt tháng bò trên đống sách vì đọc
sách để mà đọc, không biết còn có những cái khác của đời người cần phải theo đuổi
nữa.
Có thể nói cuộc đời của những người thuộc loại thứ nhất là chịu
sự nô dịch của đồng tiền, cuộc đời của những người thuộc loại thứ hai là vì
công việc nên hoàn toàn che lấp và để mất mình, cuộc đời của những người thuộc
loại thứ ba lại chìm ngập trong biển sách nhìn không thấy mình nữa, những người
khác như các loại này đều đem cuộc đời của mình gửi cả vào sự nô dịch của vật
chất bên ngoài, có thể nói là đã sống uổng phí cả đời người.
Điều đáng buồn của sinh mệnh bị vật chất nô dịch, mấy ngàn
năm trước đã có người phát hiện và đã nêu lên cách giải cứu.
Khoảng thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, ở thành Abudla cổ Hy Lạp
đã sinh ra một cậu bé, về sau đã trở thành học giả nổi tiếng Protagoras.
Protagoras trí tuệ siêu quần, tài hoa nổi lộ, hiểu biết tỉ mỉ
đối với sự vật, hơn thế có tài ăn nói và hùng biện xuất khẩu thành chương. Sau
khi trưởng thành, ông được mời đến A-ten đảm nhận chức gia sư của danh môn vọng
tộc Gania lúc đó.
Hàng ngày, ông chậm bước trong hành lang rộng lớn theo sau là
các con của Gania và Bolikeli cùng với học sinh của ông. Ông giảng thao thao bất
tuyệt, các đệ tử thì lắng nghe một cách cung kính. Khi đến đầu kia hành lang,
ông liền quay người đi trở lại, các đệ tử cũng vội vàng cùng quay tất cả về
phía sau, rồi lại bắt đầu giảng theo kiểu vừa đi vừa nói. Tất cả đều hiện ra
tĩnh mịch và hài hòa như thế.
Protagoras ngoài việc truyền lại cho các đệ tử thuật biện luận
ra, nổi tiếng nhất không gì bằng câu danh ngôn "Người là thước đo của vạn
vật, là thước đo tồn tại của sự vật tồn tại, cũng là thước đo không tồn tại của
sự vật không tồn tại".
Vì sao "người là thước đo của vạn vật" mà không phải
"vạn vật là thước đo của con người"? Protagoras giải thích nói: Một
làn gió mát phớt qua mặt, đối với người cảm thấy lạnh mà xét thì là lạnh, đối với
người cảm thấy không lạnh là không lạnh. Một loại thức ăn nào đó, đối với người
cảm thấy ăn ngon là thức ăn ngon, đối với người cảm thấy không ngon thì là thứ
chán ngấy. Cho nên, vật cũng chỉ là vật, nó tốt xấu, khá kém đều là do con người
định ra. Còn người dựa theo cảm giác của mình đưa ra phán đoán, cái đó sẽ gọi
là "người là thước đo của vạn vật".
Cho nên, con người sống không phải vì vật, không nên bị vật
nô dịch; Ngược lại, vạn vật chịu sự quan sát, cảm giác và suy nghĩ của con người
một cách bị động. Sự vật khách quan là gì, không phải ở chỗ trạng thái và tính
chất của bản thân nó, mà quyết định bởi nó đối với người để xét có ý nghĩa và
giá trị gì.
Từ đó ta thấy, con người cố nhiên phải kiếm tiền, nhưng không
nên vì kiếm tiền mà kiếm tiền, mà là phải dùng tiền để đổi lại sự phục vụ và tư
liệu sinh hoạt để hiện ra giá trị của tiền đối với nhu cầu của con người. Người
ta cố gắng chăm chỉ làm việc, không nên vì công tác mà công tác, mà phải thông
qua công việc đổi lại vật phẩm tiêu dùng, để hiện ra giá trị của công việc đối
với sinh hoạt của con người. Người ta quên ăn quên ngủ đọc và nghiên cứu sách vở,
không nên vì đọc sách mà đọc, mà cần phải từ trong sách vở học được các tri thức
chuyển hóa thành trí tuệ, giành được tài năng để hiện ra giá trị của sách đối với
nhu cầu phát triển của đời người v.v...
Chỉ có đối xử với vật chất như thế, mới có thể làm cho đời
người thoát khỏi trạng thái đáng buồn bị vật chất nô dịch, khiến cho đời người
của chúng ta càng thêm phong phú, xác định được mục tiêu sinh hoạt của chúng
ta, để cho vạn vật phục vụ cho nhu cầu của loài người tốt hơn.
Nhưng, mệnh đề "người là thước đo của vạn vật" có một
nhược điểm lớn, bởi vì "người" không phải là con người trừu tượng
chung chung mà là một con người cụ thể sống động; còn việc cảm nhận của người
có chỗ giống nhau, lại có chỗ khác nhau. Dùng cảm nhận của con người cân đong vạn
vật, tất nhiên là không có tiêu chuẩn thống nhất, khiến cho tất cả đều trở
thành sự tồn tại có tính tương đối. Người ta vì thế mà không thể dùng bất cứ
tên gọi xác định nào để cân đong bất cứ vật gì, bởi vì trong cảm giác của một số
người thì vật này là nhẹ, nhưng một số người khác thì cảm thấy nặng; có một số
người gọi vật kia là lớn, nhưng một số người khác thì nói là nhỏ và cứ như thế
diễn ra mãi. Những ý kiến trái ngược nhau này trong cuộc sống khiến cho đời sống
trong nhân gian trở nên phức tạp.
Có một lần Protagoras thu nhận một học sinh thông minh tên là
Uaxưletx, anh ta vừa vào học đã nạp một nửa học phí, và giao hẹn với thầy giáo,
một nửa kia chờ sau khi anh ta học được bản lĩnh thắng kiện sẽ nạp thêm.
Uaxưletx rất nhanh đã học xong, tốt nghiệp xong đã trở thành một người giỏi
hùng biện, thường xuất đầu lộ diện trong các phiên tòa, nhưng lại không nhắc đến
một nửa tiền học phí phải nạp nữa.
Protagoras vô cùng bực bội, quyết định tố cáo Uaxưletx và nói
với anh ta: "Nếu tôi thắng kiện, theo phán quyết của tòa án, anh phải trả
tiền học phí; nếu anh thắng kiện, theo hứa hẹn ban đầu, anh cũng phải trả tiền
học phí".
Protagoras tràn ngập niềm tin, không tránh khỏi bắt đầu nghênh
ngang tự đắc. Uaxưletx khoan thai nói: "Nếu vụ kiện của tôi thắng, theo
phán quyết của tòa án, tôi không phải trả tiền học phí cho Thầy; nếu tôi thua
kiện, theo như đã hứa hẹn, tôi không phải nạp tiền học phí, bởi vì Thầy chưa dậy
tôi thắng kiện!"
Protagoras rốt cuộc đã nhận được một nửa tiền học phí kia hay
chưa, cho đến giờ không ai biết được. Nhưng có phần nửa là khẳng định, mỗi người
đều kiên trì xuất phát từ cảm giác của mình, lập trường của mình, giá trị của
mình, lấy cá nhân làm thước đo của vạn vật, cuối cùng ắt sẽ gây nên hỗn loạn xã
hội và đời người. Chỉ có hòa tan cái tôi của từng cá nhân vào cái tôi lớn của
toàn thể loài người, không chỉ dùng cảm giác, nhận biết của mình làm thước đo sự
vật, mà còn phải dùng cảm giác, nhận biết của toàn thể loài người làm thước đo
sự vật mới có thể xây dựng nên một hệ thống đánh giá có giá trị chung, làm cho
quan hệ giữa người với người hòa hợp, trật tự xã hội tốt đẹp, từ đó bảo đảm cuộc
sống của mỗi người hạnh phúc mỹ mãn.
"Chết" là việc người người đều lo lắng và sợ, nhưng
người ta lại nhất định phải chết, độ tương phản lớn nhất giữa sự ngưỡng mộ và sự
tồn tại thực tế đành chịu vậy của tinh thần này, khiến cho khi người ta đang sống
sẽ rơi vào trạng thái lo sợ và vô vọng, điều này khiến cho sự tử vong của con
người phủ lên trên sự "sống" của con người một sắc thái bi kịch, trở
thành khắc họa chân thực của đời người đành chịu vậy.
Từ xưa đến nay, các nhà triết học đều đua nhau nghiên cứu thảo
luận vấn đề "chết". Có người hy vọng thông qua việc tu luyện thân
tâm, uống "ngoại đan", luyện "nội đan" để kéo dài tuổi thọ,
thậm chí "nhục thể" thành tiên, sống mãi không bao giờ chết. Cũng có
người cho rằng sự sống ấy, thân thể ấy của con người muốn thoát khỏi tử vong chắc
chắn là chuyện hoang đường của người ngốc, hoàn toàn không thể có. Cho nên sẽ
phải ẩn dật vào chốn rừng sâu núi thẳm, trống chiều chuông sớm suốt cả một đời,
tụng kinh niệm Phật, dốc lòng vào việc bồi dưỡng Phật tính, cuối cùng thông qua
việc "chết" (Nát bàn) mà đạt đến "thế giới Tây phương cực lạc",
siêu thoát tử vong. Lại có những nhà tư tưởng theo chủ nghĩa hiện thực, họ vừa
không cho rằng "nhục thể" có thể thông qua tu luyện thoát khỏi được tử
vong, vừa chỉ ra rằng cái gọi là "thế giới cực lạc" không có sống chết
là giả dối, con đường vượt qua tử vong thực tế nhất chỉ có thể là: hoặc dựng
nên sự nghiệp trong lĩnh vực chính trị, hoặc trở thành mẫu mực đạo đức trong xã
hội thế thường hoặc sáng tạo nên những trước tác lớn nổi tiếng trong thế giới
tinh thần. Như vậy, họ sau khi chết sẽ có vô số người chịu ơn, vô số người lấy
họ làm gương, vô số người mãi mãi truyền đọc những bài thơ, áng văn và trước
tác, đây chẳng phải đã thông qua con đường "lập đức, lập công, lập
ngôn" để đạt được sinh mệnh bất hủ phải không?
Nhưng, các học giả phái Đạo gia của Trung Quốc cổ đại đối với
cả ba thuyết này đều không cho là đúng, họ đòi thông qua nối thông giới hạn
sinh và tử, lấp bằng hố ngăn cách lớn của chúng, từ phương diện "tử sinh
như nhất" vượt qua tử vong.
Một hôm, Tử Tự, Tử Dư, Tử Lê, Tử Lai, bốn người tụ tập lại với
nhau tán gẫu, nghiên cứu cái lý của việc sinh tử. Họ cảm nhận thấy, bề ngoài
"sinh" và "tử" xem ra hoàn toàn không giống nhau, nhưng
trên thực tế thì là một thể. Thử nghĩ xem, con người ta trước khi
"sinh" ra là trạng thái gì đây? Cứ truy xét cho đến cùng chẳng phải
chính là "vô" (không) đó sao? Còn người ta sau khi chết là cái gì? Cứ
tìm cho đến chót chẳng phải cũng là "vô" (không) phải không? Cho nên
từ "sinh" đến "tử" chẳng phải chính là từ không đến không,
phải không? Từ đó ta thấy "sinh" gắn chặt với "tử" không thể
phân tách được, bản chất của hai cái là một. Thảo luận đến đây, họ chỉ ra: người
ta nên xem "vô" là "đầu", xem "sinh" là xương sống,
xem "tử" là xương mông, thể hiện một cách sâu sắc đạo lý sinh tử tồn
vong (sống chết còn mất) là một thể.
Bốn người đạt đến nhận thức chung đối với sinh và tử này, rất
ý hợp tâm đầu, không có chỗ nào đối lập, trở nên tình bạn tâm đầu ý hợp.
Người ta nếu hiểu rõ đạo lý "sinh tử tồn vong" là một
thể lại có thể sao đây? Điều hết sức quan trọng là, liệu có thể từ đó thoát khỏi
lo sợ đối với việc tử vong không?
Lại một hôm khác, Tử Tang Hộ, Mạnh Tử Phản, Tử Cầm Trương, ba
người tụ tập lại cùng nhau trò chuyện. Họ cảm thấy rằng người ta sinh ra ở đời
phải thấm nhuần cái lý cuối cùng của "VÔ" đạt đến giới hạn của
"vô vi, vô hình". Ví như, người ta đi lại với nhau nên tự nhiên,
không nên có một chút cơ mưu riêng tư lẫn lộn vào trong đó. Người ta giúp đỡ lẫn
nhau cũng nên xuất phát từ "chân tình thực ý", không có một dấu vết
gì, không có một chút miễn cưỡng. Từ đó, người ta về tinh thần nên bay bổng nhẹ
nhàng, chu du khắp vũ trụ bao la, đến sinh mệnh đều quên đi, đâu còn biết tử
vong? "Vô tri, vô thức, vô cảm" lại vì sao có thể "tử
vong"?
Ba người nhìn nhau, vỗ tay reo cười, tâm ý thông nhau liền trở
thành tình bạn hợp ý nhau.
Từ đó ta thấy, người ta có ý nghĩ về "sinh", cảm nhận
về "sinh", theo đuổi về "sinh" ắt sẽ sản sinh ý nghĩ về
"tử", cảm nhận về "tử", buồn rầu về "tử". Các học
giả phái Đạo gia mong muốn người ta thể nghiệm cái diệu kỳ của "Vô",
trong vòng vây của vạn vật không ngừng lại với vật chất, trong xã hội phức tạp
không phụ thuộc chỗ nào, đã "lòng không gắn bó với vật" lại thân thể
tiêu dao, thông qua việc làm tiêu tan dục vọng của "sinh" và thu hoạch
của "sinh" để thực hiện nối thông sinh tử, thoát khỏi "tử
vong", đạt tới tự do hoàn toàn về tinh thần.
Không có sống mới không có chết; Vượt qua "sinh" mới
có thể giải thoát "tử", đây chính là con đường kết cục của các học giả
phái Đạo gia bảo cho người đời tránh lo sợ của cái "chết" và thoát khỏi
cái "chết".
5. Nâng cốc chúc mừng niềm vui
Người ta sinh ra ở đời, rốt cuộc là vì cái gì? Đây là một vấn
đề mà mỗi người đang sống nên suy nghĩ, càng là vấn đề mà mỗi người muốn nhận
được cuộc đời hạnh phúc phải làm rõ.
Con người có thể xác, nhu cầu sinh lý khiến người ta phải
theo đuổi hưởng thụ vật chất và thỏa thích tình cảm; nhưng con người lại có
tinh thần, nhu cầu lý trí khiến người ta theo đuổi cái thiện của đạo đức và sự
hài hòa giữa người với người, giữa người với xã hội. Nhu cầu sinh ra từ hai cơ
sở khác nhau có lúc có thể thống nhất, nhưng nhiều lúc sẽ sinh ra mâu thuẫn.
Thế là, có người vì một "thiên quốc" thần bí nào đó
mà lên án cuộc sống thế tục, xem nhục dục là trận hồng thủy là mãnh thú, một
lòng muốn trở lại đời sống tâm linh trong sạch, xem khoái lạc của tình cảm đời
người ngang với tội ác. Cho nên, họ theo đuổi chủ nghĩa cấm dục, từ chối tất cả
mọi hưởng lạc của cuộc sống.
Lại có một số người khác thì xem khoái lạc nhục dục là mục
đích cuối cùng cao nhất của đời người, lấy việc đem hết mình giành được sự hưởng
thụ đời sống tình cảm làm nguyên tắc cao nhất, không hề do dự thoát khỏi mọi thứ
ràng buộc của lý tính và lương tâm để thực hiện hành vi của mình, toàn thân
toàn ý chìm đắm trong sự thỏa mãn nhục dục, theo đuổi chủ nghĩa buông thả dục vọng
đến cùng.
Nhà triết học cổ Hy Lạp Epicuros rất hứng thú với sự chia rẽ
đối với quan niệm nhân sinh và thao tác nhân sinh nói trên, ông đã lập ra một
trường học của mình trong một vườn hoa xinh đẹp tại A-ten, chuyên nghiên cứu và
giảng dạy triết học.
Epicuros ngồi bên cạnh những bông hoa tươi đang nở rộ, nói với
học sinh của ông: "Tại sao phải học triết học? Bởi vì mỗi người chúng ta đều
đang sống, đều phải sống qua một đời của mình, mà mục đích cơ bản của triết học
là giải quyết vấn đề giá trị của đời người, nói rõ ràng đời người là vì cái gì,
cuối cùng nên theo đuổi cái gì".
Tất cả học sinh đều yên lặng kính cẩn lắng nghe. Bởi vì có ai
lại không muốn làm rõ những vấn đề này?
Epicuros nhấp một hớp nước, lại tiếp tục bài giảng của ông:
"Đời người chính là vì đạt tới khoái lạc, con người sẽ nên theo đuổi khoái
lạc. Bởi vì khoái lạc là cái thiện cao nhất, là hoàn toàn phù hợp với bản tính
và đạo đức của con người".
Mọi người nghe nhốn nháo lên một hồi, một học sinh đứng dậy hỏi:
"Thưa thầy, thầy nói theo đuổi khoái lạc là mục đích của đời người, thế
thì phải chăng chính là cổ vũ người ta đi tìm hưởng lạc cảm tính, thậm chí đi tới
hoang dâm xa xỉ?"
"Không, không phải như thế.", Epicuros ung dung
thong thả nói, mấu chốt ở chỗ các bạn quan niệm từ "khoái lạc" này
như thế nào. Cảm quan mạnh mẽ kích thích khoái lạc phải không? Có lẽ lúc ấy là
khoái lạc, nhưng sau đấy sẽ tất nhiên mang lại sự trống trải, buồn bã của tinh
thần và tổn thương thể xác, đó là đau khổ chứ không phải là khoái lạc. Hoang
dâm xa xỉ có khoái lạc không? Có lẽ có thể dẫn đến khoái lạc trước mắt, nhưng
cuối cùng ắt sẽ tổn hại thân thể, tinh thần sầu muộn, tuổi thọ rút ngắn, chẳng
lẽ những thứ đó được gọi là khoái lạc ư? "Khoái lạc" mà tôi nói là chỉ
"thể xác không đau khổ, tâm hồn không rối bời".
"Thưa thầy, thế thì làm thế nào mới có thể làm được điều
này?", một học sinh lại hỏi.
Epicuros trả lời: Muốn làm cho thể xác của chúng ta không đau
khổ, thì cần phải tiến hành chọn lựa và kiềm chế hợp lý đối với mọi ham muốn
sinh ra đối với nhục dục, bằng không thì chỉ có thể dẫn đến đau khổ mà không phải
là khoái lạc. Ví như uống rượu quá mức, sẽ có thể "rượu vào lời ra"
không ngớt, đây chẳng phải là đau khổ vạn phần ư? Mà "tính giao xưa nay
chưa từng có ích đối với người, nếu như nó chưa từng làm tổn hại người ta, thì
đó chính là vận may".
Còn về việc khiến chúng ta "tâm hồn không rối bời",
mấu chốt là ở chỗ làm tiêu tan nỗi lo sợ đối với "thần" và tử vong, đạt
tới sự yên bình của thế giới tinh thần.
Cái gọi là "thần" thật ra không đáng sợ Epicuros thẳng
thắn nói: "Thần" cũng giống người là do các hạt vật chất -
"nguyên tử" tạo nên, nhưng tinh vi hơn một chút mà thôi. "Thần"
ở tản khắp bốn phương tự lo liệu chỗ mình ở, sống một cuộc sống hạnh phúc như
ý, căn bản không thể giáng tai họa làm hại nhân gian, người ta cần phải lo sợ.
Còn về tử vong, cũng không đáng sợ, bởi vì khi người ta đang sống, tử vong
không đến, còn khi người ta chết đi, thì người đã không tồn tại, sao có sợ gì đối
với cái chết? Lại làm sao có thể sợ được?
Khi con người ta đã chiến thắng nỗi lo sợ đối với "thần"
và tử vong, lại có thể sống một cách đúng đắn một cuộc sống hiện thực có kiềm
chế, người ta bèn đạt tới khoái lạc và hạnh phúc của đời người.
Epicuros sau khi giảng hàng loạt triết lý đời người, đã rất mệt,
nhưng đôi mắt của ông vẫn phóng ra những tia sáng của trí tuệ. Ông nói: khi người
ta lựa chọn nguyên tắc đời người "khoái lạc" cũng sẽ tăng thêm cho
mình trách nhiệm xã hội và đạo đức. Thỏa mãn lòng ham muốn mặc dù có thể đem lại
cho người ta khoái lạc, nhưng phải tiến hành chọn lựa thận trọng và tỉ mỉ đối với
nó.
Nguyên tắc đúng đắn của đời người nên là: "Khi một số
khoái lạc nào đó có thể mang đến cho chúng ta đau khổ lớn hơn, mỗi chúng ta nên
bỏ qua những khoái lạc này. Nếu khi chúng ta nhất thời chịu đựng đau khổ mà có
thể có những khoái lạc lớn hơn theo nó đến, chúng ta sẽ cho rằng có nhiều loại
đau khổ còn có giá trị hơn khoái lạc".
Epicuros sống rất giản dị chất phác, thường ngày chỉ dùng
bánh mì để ăn, ngày lễ tết mới ăn một mẩu bơ nhỏ, việc kiềm chế này đối với nhục
dục khiến ông rất vui vẻ. ở trong trường ông viết trước tác sáng lập lý thuyết
truyền lại cho các đệ tử, dùng sức quan sát sâu xa chọc thẳng vào quan niệm giả
dối ngu muội, việc đó lại khiến ông thu được vui mừng rất lớn về tinh thần.
6. Dễ mất đi và vĩnh viễn
Người ta ở trên đời phần nhiều đều ham vui hiếu sắc, các bậc
thánh hiền cổ xưa cũng phải thừa nhận "thực" và "sắc" là bản
tính vốn có của người, không thể diệt trừ được. Nhưng sức khỏe và tinh thần
lành mạnh, năng lực vũ dũng và quả cảm là vẻ đẹp của nam giới, còn hình dáng
thướt tha yểu điệu, nhan sắc đẹp như tiên là vẻ đẹp của phụ nữ, không chỉ trên
đời khó kiếm, dù cả người có được nó cũng rất nhanh chóng sẽ tàn phai theo thời
gian trôi đi.
Vì vậy, những người dốc lòng muốn tìm được sắc đẹp, ôm ấp người
đẹp trong đời phần nhiều đều thất vọng, điều này cũng đã định trước cuộc sống
hôn nhân của họ đa số đều đi đến kết cục thất bại. Vậy thì, trong đời người nên
theo đuổi đời sống tình yêu nào đây? Mấu chốt là ở chỗ không thể lấy những thứ
dễ mất đi như sắc đẹp, tiền của làm cơ sở của đời sống tình yêu, mà phải tìm được
những thứ có tính vĩnh viễn như hai bên đều vừa lòng nhau, tính tình hòa hợp,
chí hướng và sở thích của cuộc sống chung làm cơ sở vững chắc của đời sống vợ chồng.
Thời Đông - Hán, vùng đồi phẳng Phù Phong có một người tên là
Lương Hồng, nhà rất nghèo nhưng do cố gắng quyết chí phấn đấu đã trở thành một
nhà bác học. Ông hàng ngày việc gì cũng làm, tối đến thì thắp đèn đọc sách chăm
chỉ, dần dần danh tiếng truyền đi khắp thôn xóm. Lúc đó, Lương Hồng đã ba bốn
mươi tuổi, vì nhà nghèo nên vẫn sống độc thân. Có nhiều người mến mộ tài của
ông, cảm thấy ông ta sau này ắt có thể làm quan to, cho nên đã đến tận nhà tỏ ý
muốn đem con gái gả cho ông, Lương Hồng đều không vì thế mà động lòng, vẫn kiên
trì không lấy vợ.
Cách nhà Lương Hồng không xa, có gia đình họ Mạnh có người
con gái tên là Mạnh Quang, lớn lên tướng mạo trông bình thường, quanh năm lao động
trên đồng ruộng, người vừa đen lại vừa to, thậm chí có thể dùng tay nâng cả chiếc
cối đá rất nặng. Cô ta đã gần ba mươi tuổi, vẫn chưa lấy chồng. Mỗi khi có bà mối
đến nhà dạm hỏi, Mạnh Quang đều không để cha mẹ nhận lời, cô ta chỉ nói: Không
phải là người đàn ông như Lương Hồng, thì con quyết không lấy chồng! Ông trời sao
khéo chắp mối, người có lòng cuối cùng trở thành người nhà, quả nhiên Lương Hồng
đã lấy Mạnh Quang làm vợ. Đồ cưới của nhà vợ rất hậu, cô ta mặc lộng lẫy và
sang trọng, Lương Hồng nhìn không quen mắt, lại không tiện tức giận, nên đã bảy
ngày liền không nhìn ngó đến cô ta. Đến ngày thứ tám, Mạnh Quang đã trút bỏ bộ
đồ trang sức đó, mặc lên bộ quần áo vải thô, dọn dẹp trong nhà ngoài sân bận
tíu tít. Lúc này Lương Hồng mới vui mừng quá đỗi, nói: "Đây mới giống người
vợ của ta!"
Không lâu, hai vợ chồng đã dọn đến vùng núi sâu của Bá Lăng bắt
đầu ở ẩn, chồng cày cấy vợ dệt vải lụa, dựa vào nhau để sống. Về sau lại dời đến
Ngô địa, ở trong một ngôi nhà nhỏ dưới hành lang Cao Bá Thông dựa vào việc giã
gạo thuê để sống.
Cuộc sống vô cùng gian khổ, nhưng giữa vợ chồng với nhau vẫn
quý trọng nhau như khách. Hàng ngày Lương Hồng đi làm về, Mạnh Quang đều dọn
cơm nước đạm bạc còn nóng hổi đặt lên mâm, hai tay bưng giơ cao tận ngang mày,
cung kính đưa đến trước Lương Hồng. Hai người ăn uống đơn giản, nhưng họ vẫn
sung sướng biết bao!
Cuộc kết duyên kỳ lạ của Lương Hồng và Mạnh Quang, tình sâu
nghĩa nặng giữa vợ chồng, sự êm ấm, hài hòa và cùng vui vẻ trong nhà, rốt cuộc
thực hiện như thế nào? Một là chẳng phải tiền tài, nhà Lương Hồng nghèo rớt mồng
tơi trơ trọi chỉ bốn bức tường, gia cảnh của Mạnh Quang tuy giàu có, nhưng lấy
chồng lại đây tự bằng lòng sống những ngày nghèo khốn. Hai là không phải vì sắc
đẹp, tiểu thư Mạnh Quang vốn lớn lên trông người vừa đen vừa to, làm cô dâu mới
được đến ngày thứ tám đã bắt đầu làm việc, không có nhan sắc riêng, đó là khẳng
định. Như thế thì cơ sở chân chính là cái gì đây? Phải nói là sự say mê và tìm
được cái giống nhau của hai người đối với nhân phẩm của đối phương.
Mạnh Quang lấy Lương Hồng, mà không phải là anh ta thì không
lấy là bởi vì cô ta đã coi trọng Lương Hồng đồng thời với lao động gian khổ vẫn
có thể ham học không ngừng, không ngưỡng mộ vinh hoa phú quý, chỉ mong dùng tài
học để bồi bổ thêm cho mình. Còn Lương Hồng lấy Mạnh Quang mà đã chọn lựa rất
lâu mới không phải là cô thì không lấy, là coi trọng cô tuy sinh ra trong gia
đình giàu có vẫn giữ được bản sắc lao động, có thể chịu khó chịu khổ. Sắc đẹp của
con người dễ tàn phai, của cải của con người cũng dễ mất, duy chỉ có phẩm chất
của con người thường giữ được vĩnh viễn. Mạnh Quang và Lương Hồng chỉ ngưỡng mộ
phẩm chất của nhau, cho nên sẽ vứt bỏ những thứ dễ tàn phai và dễ mất, giành được
cơ sở có tính vĩnh viễn của tình yêu và cuộc sống vợ chồng. Cho nên cuộc sống của
họ mặc dù gian khổ vẫn có thể hòa thuận và vui vẻ đã trở thành giai thoại lưu
truyền nghìn xưa. Đây chẳng phải là việc đáng để cho mọi người suy nghĩ kỹ và bắt
chước sao?
7. Có phải người đối với người như "chó sói" không?
Trong quá trình sống, người ta thường cảm thấy thấm thía nhiều
việc tàn nhẫn và không chút kiêng nể gì của đồng loại. Không cần nhắc đến sự
tàn sát một mất một còn của hai bên đối địch nhau trong chiến tranh, những tính
toán và tranh đấu nhau, lừa gạt lẫn nhau trong thương trường, dù là thân nhau
như anh chị em, tình như bạn bè thầy trò, trong nháy mắt cũng có thể vì mọi
nguyên nhân trở nên như người đi đường, thậm chí rút kiếm giương cung, đấu nhau
một trận thua liểng xiểng.
Cho nên ngay từ thời xưa của Trung Quốc đã lưu truyền một số
câu danh ngôn miêu tả tình người đạm bạc, lòng người nham hiểm, đường đời gian
nguy như: "Gặp người chỉ nói đôi câu, chưa thể tung ra hết cõi lòng",
"Vẽ hổ vẽ da khó vẽ xương, biết người biết mặt mà không biết lòng";
"Bần cư náo thị vô nhân vấn, phú tại thâm sơn hữu viễn thân" (Nghèo
ngồi giữa chợ không ai hỏi, giàu chốn sơn lâm có khách tìm); "Không nói xấu
sau lưng người khác", "Có tiền có rượu lắm anh em, gian nan nào thấy
có ai một người"; "Tình người như trang giấy mỏng, việc đời như thế cờ
mới"; "Như thân mà không thân, không thân mà lại thân";
"Mênh mang bốn bể đầy người, đâu chàng quân tử là chồng em đây",
"Tình người như nước chảy xuôi, thế sự như mây cuốn chạy hoài";
"Đời người như chim ngủ cùng rừng, gian nan kéo đến tức thời bay đi";
"Người tốt bị người lừa, ngựa tốt bị người cưỡi"; "Ở lâu khiến
người khinh, nghèo đến thân cũng xa", "Bọ ngựa bắt ve, chim sẻ chực sẵn"
(chỉ tham lợi trước mắt mà quên họa sau này) v.v... Những câu cách ngôn và lời
răn này phần nhiều đều tích lũy sự từng trải đời và kinh nghiệm vững vàng của
người ta, tỏ rõ thói đời lạnh lùng, chân tướng thế gian mà tình người nhạt nhẽo,
cũng vạch ra bộ mặt đen tối của tính người không sót.
Không phải là "độc nhất vô nhị", nhà triết học lớn
thế kỷ 17 của phương Tây Thomas Hobbes cũng nhìn thấu chân tướng thói đời trong
trần gian, vạch ra những cái xấu xa của tính người. Ông thậm chí đã nói toạc ra
rằng: "Người đối với người đà như chó sói".
Thoạt nhìn câu nói này, người ta không khỏi kinh ngạc, chần
chừ do dự, thậm chí lắc đầu không đồng ý. Thời xưa ở Trung Quốc chẳng phải đã
có thuyết "Nhân chi sơ, tính bản thiện" đó sao? Khổng Tử, Mạnh Tử chẳng
phải đã nói từ lâu con người có "lòng nhân ái" đó sao? Còn trong lịch
sử phương Tây cũng không thiếu những người nói tính người tốt lành. Như vậy,
Hobbes dựa vào cái gì để đưa ra kết luận kinh động thói đời này?
Ông cho rằng, trạng thái sinh tồn của loài người trải qua hai
giai đoạn: Một là trạng thái tự nhiên, hai là trạng thái xã hội. Con người
trong trạng thái tự nhiên dựa vào bản năng để sống, không có quy phạm đạo đức,
không có khung quyền lực chính trị, để mặc cho tính người triển khai tự nhiên.
Mà bẩm tính của người sẽ ở chỗ "cầu lợi, cầu an và cầu danh". Cho nên
trong trạng thái tự nhiên, người ta theo đuổi chiếm hữu tất cả, mà còn luôn tìm
cách tước đoạt mọi thứ của người khác để chiếm làm của mình. Do đó, "người
đối với người giống như chó sói", tiến hành lâu dài là "chiến tranh của
những người này chống lại những người khác". Trong xã hội cũng không tồn tại
sự khen chê lương thiện và gian ác, trong nhân gian cũng không có sự khuyên răn
điều phải điều trái, có khi chỉ là giữa người với nhau đọ sức lớn nhỏ, kết quả
chỉ là sinh ra không có ai quan tâm, văn hóa khoa học không tài nào phát triển
được. Các cuộc hỗn loạn và tranh đấu phổ biến, khiến cho mỗi người đều tổn hại,
mọi thứ "danh", "lợi" và "an toàn" mà mỗi người
mong đợi như những bong bóng xà phòng xinh đẹp có thể nhìn thấy mà không với tới.
Loài người nói cho cùng là có lý tính, để bảo tồn mình cũng để
giành được những cái mà mỗi người đều mong chờ, người ta tìm mọi cách thoát khỏi
"trạng thái tự nhiên" mà mỗi người đều tổn hại này. Hobbes nói:
"Người ta bảo tồn yêu cầu của mình và đối với sự lo sợ của tử vong, khiến
người ta tiến tới cố gắng tìm kiếm hòa bình, thoát khỏi chiến tranh kéo liên
miên".
Mọi người dần dần hiểu ra, người ta không thể chỉ dựa vào
tình dục để sống, cần phải theo quy tắc sống chung do lý tính quy định - tức
"phép tự nhiên" để sắp xếp cuộc đời, đạt được mục đích an toàn. Cái gọi
là phép tự nhiên" này chính là quy phạm đạo đức, tinh thần cơ bản là: những
cái người ta không mong muốn đặt lên bản thân mình, cũng nên suy rộng nhận thức
ra là người khác cũng không muốn tiếp nhận nó. Như thế sẽ có thể hạn chế cách
nghĩ quá đáng của mình và hành vi làm tổn hại người khác, làm cho loài người được
sống cuộc sống chung sống hòa bình hài hòa.
Nhưng Hobbes chỉ rõ, tính người là tự tư tự lợi, nó khiến cho
con người bất chấp tất cả, hòng chiếm hữu lợi ích của người khác, từ đó bất chấp
cả "phép tự nhiên". Do đó, xã hội loài người còn cần phải có một quyền
lực công cộng đủ mạnh, tức quyền lực chính trị, nó có thể dùng để hạn chế bản
tính ích kỷ của con người. Khi người ta thông qua hình thức giao kèo với nhau
nhường một bộ phận quyền lực cho một người nào đó, như thời quân chủ, nhà nước
đã ra đời, điều này có nghĩa là loài người đã thoát khỏi trạng thái tự nhiên bước
vào trạng thái xã hội.
Từ đó ta thấy, con người đương nhiên nên vui mừng vì từ trạng
thái tự nhiên "người đối với người như chó sói" bước vào trạng thái
xã hội có đạo đức và chính trị hạn chế. Nhưng lúc này bẩm tính tự nhiên của con
người bị kiềm chế, một phần quyền lợi trời ban cho bị tước đoạt, cũng tạo nên
những đau khổ lớn lao của đời người. Điều này hiện ra đặc biệt nổi bật ở thời kỳ
"bạo quân bạo chính" thường xẩy ra luôn trong lịch sử nhân loại.
Ôi! Con người quả thực là một nửa giống như dã thú, một nửa
kia như "thiên sứ". Có lẽ "một nửa của dã thú" là sự sót lại
của cái gọi là "trạng thái tự nhiên" chăng? Có lẽ "một nửa của
thiên sứ" là sử dụng việc hạn chế của đạo đức và chính trị chăng? Bất kể
nói như thế nào, người ta sinh ra ở đời, đều phải xuất phát từ hai loại khả
năng này. Ví dụ đi lại với người khác, vừa phải vững tin đối phương có tính
lương thiện và thành ý hợp tác tốt, đồng thời cũng phải có sự chuẩn bị ứng phó
với bụng dạ nham hiểm khó lường, giả dối của tính gian ác của đối phương.
Có lẽ đây mới là cách xử thế tốt nhất.
8. Hỏi han "vận mệnh"
"Vận mệnh", nó làm cho mỗi người thế tục đôi lúc phấn
chấn mãi không thôi, đôi lúc lại luôn luôn run sợ. Là một sức mạnh siêu tự
nhiên siêu nhân gian thâm trầm, nhiều người phải đi lễ cúng bái trước nó, tin
tưởng nó đang chi phối cả đời mình, có thể làm cho đời người thuận lợi, cũng có
thể làm cho đời người gian nan vất vả muôn phần, có thể làm cho tài vận của người
ta may mắn, cũng có thể làm cho người ta nghèo rớt mùng tơi. Hàng ngàn năm trở
lại đây, người ta tin "mệnh", từ "vận mệnh" giải thích cái
thu hoạch của mình, cũng dùng "vận mệnh" an ủi cái bị mất của mình,
gian nan mà ngoan cường sống qua một đời của mình.
Đương nhiên, cũng có một số người không tin "mệnh",
phủ định đời người chịu "thần" trong sâu kín chi phối. Họ tin phục là
tự mình phấn đấu, cái họ sùng bái là cố gắng cá nhân. Nhưng khi đột nhiên bị vấp
váp lớn trong đời, và ngẫu nhiên gặp tai nạn trong đời không có cách nào giải
thích được vẫn phải quay sang tin "mệnh", nghe theo "mệnh".
"Vận mệnh", người ta vừa yêu lại vừa hận, vừa muốn
lại sợ, nó như bóng với hình theo sát cả quá trình của cuộc đời. Tin hay không
tin đều có ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình thực tế của đời người. Đương
nhiên nó cũng thu hút vô số người thích học nghĩ sâu hỏi han đến.
Vào khoảng thế kỷ thứ 2 sau công nguyên, đế quốc cổ La Mã đã
xẩy ra hàng loạt thiên tai, động đất, nạn dịch và loạn lạc kéo dài, dẫn đến
ngàn dặm hoang vắng, dân không biết sống vào đâu, chính quyền nhà nước lung lay
sắp đổ. Nhà triết học lớn hiện đại Rút-xô (Rousseau) gọi thời kỳ này là
"thời kỳ mệt mỏi" của đế quốc cổ La Mã.
Hoàng đế La Mã lúc đó là Marcus Aurelius, ban ngày xử lý mọi
công việc chính sự phức tạp mà lại làm cho người ta chán nản, lúc rỗi thì lại
suy nghĩ sâu vấn đề triết học, đã trở thành người duy nhất của thế giới phương
Tây vừa là Hoàng đế lại vừa là nhà triết học.
Xã hội rối ren, thiên tai nặng nề, khiến cho Aureluis mệt lử,
đương nhiên ông không cho rằng tài năng quản lý đất nước của mình kém gây nên,
cũng nhất quyết phủ định chế độ hoặc các đại thần phò tá có vấn đề, vậy thì tất
cả mọi tai nạn này là do đâu gây nên? Aurelius cho rằng là "thiên mệnh"
trong sâu kín mà không phải sức người có thể làm được điều khiển.
Theo ông, thiên nhiên và cả vũ trụ là một hệ thống vô cùng rộng
lớn liên hệ với nhau theo một trật tự tự nhiên, bất cứ một bộ phận nào đều liên
kết với nhau theo một quy tắc nào đó chứng tỏ trật tự nghiêm chỉnh, biểu hiện
tính hợp lý của toàn vũ trụ.
Tính trật tự và tính hợp lý này xét cho cùng là đã sinh ra
như thế nào? Lại do cái gì quyết định? Aurelius nói: Là "thiên mệnh"
(mệnh trời) hoặc ý chí của thượng đế sắp đặt.
Đông đảo dân chúng rõ ràng là một bộ phận của cả vũ trụ tự
nhiên, cũng giống như bất kỳ sự vật nào khác, con người và các bộ phận tạo
thành của vũ trụ liên hệ chặt chẽ lại với nhau, cũng chịu trật tự có tính tất yếu
- tức "thiên mệnh" qui định.
Đành là một đời người đều chịu "thiên mệnh" quyết định
là được sắp đặt sẵn trước, vậy thì tất cả mọi việc xẩy ra vẫn là nhất định phải
xẩy ra, con người lại vì sao phải ngạc nhiên? Tất cả mọi việc không thể xẩy ra
thì nhất định không thể xẩy ra, con người sao lại phải ân cần mong đợi cầu xin?
Cho nên, con người ta phải bằng lòng đối với mọi hiện trạng, mọi biến đổi xẩy
ra, không nên oán trách - bởi vì chẳng có gì đáng trách móc cả. Người ta đối với
những cái không được thực hiện cũng không nên miễn cưỡng đi tìm kiếm - bởi vì
chẳng có tác dụng gì.
Aurelius chân thành dạy thần dân của ông: "Phải nhớ rằng,
do tôi là một bộ phận, đối với tất cả sự vật từ toàn thể phân phối cho tôi, tôi
đều sẽ vừa lòng. Bởi vì nếu là vì lợi ích của toàn thể mà tồn tại, đối với bộ
phận sẽ không thể có hại".
Theo học thuyết của Hoàng đế Aurelius, vì sao người ta phải
chán ghét nghèo khó và sợ tử vong? Nó chẳng phải đều là "thiên mệnh"
xui khiến đó sao? Con người không thể chống cự lại "vận mệnh", chỉ có
thể tự giác phục tùng sự sắp đặt của "mệnh". Khi con người hoàn toàn
thi hành nghĩa vụ và trách nhiệm của họ theo "thiên mệnh", thì họ là
thiện, sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nếu họ không tuân theo sự chi phối của
"vận mệnh, luôn tìm mọi cách để làm thay đổi trật tự có tính tất nhiên, họ
sẽ là ác, ắt sẽ rơi vào quá trình cuộc sống đau khổ.
Vì trật tự tất nhiên của vũ trụ hài hòa, vì sự tương quan mật
thiết của mỗi người, mỗi sự vật, mọi người phải thương yêu lẫn nhau! Kết luận của
Hoàng đế Aureluis chỉ ra từ quan niệm "vận mệnh" của ông là: "Yêu
thương nhân loại, nghe theo Thượng đế". Cho nên người ta không nên đi theo
đuổi công danh lợi lộc, làm tổn hại lợi ích của người khác, những cái này đều
là dễ mất đi, nhỏ nhặt chẳng đáng kể, mà những hành vi này là bỉ ổi và không có
ích lợi. Trách nhiệm của đời người là phục tùng "thiên mệnh", hướng tới
sự hài hòa, thiêng liêng và cao cả của "thiên mệnh", đối với sự giàu
nghèo, vinh nhục, sướng khổ, sinh tử của trần thế đều nên chọn thái độ siêu
nhiên coi thường.
"Chết" là việc lo sợ nhất của con người, nhưng
Hoàng đế Aurelius khuyên răn mọi người hãy suy ngẫm kỹ một chút, "chết"
chẳng phải cũng là mệnh điều khiển ư? Chết sớm và chết muộn, cái mất đi đều là
"sinh mệnh", người ta lại cần gì phải để ý đến việc thọ yểu? Cho nên,
con người phải "dùng tâm tình vui vẻ chờ đợi cái chết". Còn về cái trạng
thái cuộc đời như giàu nghèo, vinh nhục, sướng khổ chẳng phải cũng đều là như
thế chăng?Con người dùng tấm lòng nghe theo "thiên mệnh" đối xử với
nó, sẽ tránh được tất cả mọi ưu phiền và đau khổ của đời người.
Học thuyết của Aurelius này mặc dù không thể làm thay đổi được
thiên tai nhân họa, nhưng lại có thể làm cho những người bị những khổ nạn này
nóng vội không yên sẽ bình tĩnh trở lại, bắt đầu tin tưởng, bắt đầu thuận theo.
Giá trị điều khiển của quan niệm "vận mệnh" trong chính trị ở đây chỉ
đại để nhìn thấy một số tình huống nhưng chưa được toàn diện.
Người ta sinh ra ở đời vẫn nên kiềm chế quan niệm "vận mệnh"
chi phối đời người, tích cực đầy hứa hẹn sáng tạo cuộc đời rực rỡ của mình. Dù
là thất bại, trong hiện thực gặp đầu bươu máu chảy, thế thì cũng có thể an ủi
mình: Tôi đã cố gắng, đã phấn đấu, như thế đã đủ rồi!
Nhưng khi người ta đột nhiên gặp khổ nạn to lớn, trong hiện
thực lại không có cách gì chống lại và làm thay đổi, người ta có thể trong tâm
lý dùng quan niệm "số mệnh phải như thế" an ủi mình, bằng không sẽ
sinh ra đau khổ tinh thần như ngao ngán, buồn phiền, bực bội cực độ, thậm chí
vì thế mà tự đoạn tuyệt với đời. Đây chính là chỗ quan niệm "vận mệnh"
vẫn có giá trị điều khiển cuộc đời hiện thực của nó, Hoàng đế Aurelius cũng vì
thế mà có thể mỉm cười để nhắm mắt ở nơi chín suối.
9. "Khí khái" là cái gì?
Nhà tâm lý học Mỹ Abraham Maslow từ lâu đã nói: Sức thúc đẩy
bên trong của sự tồn tại và trưởng thành của loài người là động cơ do các nhu cầu
khác nhau của con người tạo nên. Giữa các nhu cầu này có phân biệt mức cao thấp
được xếp sắp lần lượt là: nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu yêu và lệ
thuộc, nhu cầu tôn trọng, nhu cầu hiểu biết, nhu cầu đẹp, nhu cầu tự thực hiện.
Sau khi một mức nhu cầu thỏa mãn xong, người ta bèn sinh ra nhu cầu ở một nấc
cao, dựa vào nó, việc theo đuổi bền bỉ của đời người cuối cùng dẫn đến việc tự
thực hiện.
Theo Maslow, người ta chỉ có thỏa mãn nhu cầu mức thấp với tỉ
lệ phần trăm tương đối cao mới có thể nẩy ra việc tìm kiếm nhu cầu ở mức cao.
Nhưng chứng tỏ nó bằng sự thực của lịch sử Trung Quốc xưa lại không hoàn toàn như
vậy. Bởi vì có khi nhu cầu sinh lý của người trước khi chưa thể thỏa mãn, đã có
nhu cầu tự trọng mãnh liệt, người xưa gọi nó là: người có khí phách.
Có một năm, nước Tề xẩy ra nạn đói rất ghê gớm, một người tên
là Kiềm Ngao rất có lòng từ thiện, đã chuẩn bị sẵn rất nhiều đồ ăn đặt ở bên đường
bố thí cho những người đói.
Ở nơi xa có một người bơ vơ đi một mình, nhưng thấy người ấy
dùng tay áo che kín cả mặt, đang lê đôi dép chân thấp chân cao khó khăn lắm mới
đi lại được, rõ ràng là đang trong trạng thái đói rét hoành hành. Kiềm Ngao tay
trái bưng cơm, tay phải xách đồ uống với dáng vẻ rất tự hào, gào to: "Này!
Đi lại đây ăn!"
Người đang đói kia miễn cưỡng ngước đầu lên, mở mắt nhìn một
lát, với giọng vững chắc khác thường nói: "Tôi chính vì không ăn của ăn
xin, nên mới đói đến bộ dạng này" rồi quay đi không thèm ngó lại.
Kiềm Ngao biết việc gào to vừa rồi của mình đã làm tổn thương
lòng tự trọng của ông ta, bèn vội vàng xin lỗi. Nhưng người bị đói kia đến cùng
vẫn không ăn của bố thí có tính sỉ nhục này, cuối cùng đã chết đói ở bên đường.
Tăng Tử sau khi nghe nói việc này liền có lời nghị luận:
"Không cần như thế mới phải. Ông ta gào to sỉ nhục bạn đương nhiên có thể
bỏ đi không chấp, nhưng người ta đã xin lỗi, cũng có thể dừng lại để ăn chứ!"
Người đang đói này, mặc dù nhu cầu sinh lý đang trong thiếu
thốn cực độ, thậm chí không có cách gì chống đỡ nổi, nhưng nhu cầu tự trọng của
ông ta vẫn rất hừng hực, cả đến kết cục vì thế mà bị chết cũng không thay đổi.
Dùng giá phải trả là cái chết đổi lấy khí khái hào nhoáng, có
lẽ sẽ bị nhiều người chê cười. Người ta có thể nghĩ: Cần gì phải thế? Khí khái
là cái gì? "Mệnh" luôn quan trọng hơn! Sẽ càng có nhiều người nói như
Tăng Tử, sau khi lòng tự trọng hơi thỏa mãn, nỗi sỉ nhục trước đó sẽ có thể
tiêu tan bỏ qua không tính.
Nhưng, bất kể người ta nghĩ như thế nào, bình luận như thế
nào hành động của người đang đói khát này, đều phải hiểu một lẽ thô thiển: Chỉ
cần là một con người sẽ khác với động vật vì một miếng ăn mà phải tranh cướp
không chút kiêng nể, không chút kiềm chế gì, anh ta có nhân cách tạo nên bởi
truyền thống văn hóa lịch sử, có chuẩn tắc bất di bất dịch xác định nào đó bám
chắc trong lòng. Khi những sự việc xẩy ra trong hiện thực có tổn hại đến nhân
cách của họ, khi việc chọn lựa buộc phải đưa ra trái với chuẩn tắc xác định bên
trong của họ, anh ta sẽ phải đành từ chối, để giữ vẻ tôn nghiêm của mình và sự
hoàn chỉnh của nhân cách, đó là người có khí phách.
Nhưng, có một số người có lẽ sẽ cười khẩy đối với tình huống
này, họ xem nhân cách có thể có, có thể không, càng thiếu hẳn một số chuẩn tắc.
Xác định nào đó ở bên trong, biểu hiện trong quá trình cuộc sống
hiện thực, họ cũng sẽ có thể không từ một việc xấu xa nào. Việc khom lưng quỳ gối
cầu xin, họ làm rất tự nhiên, không hề xấu hổ. Việc lừa dối cưỡng đoạt của cải
và quyền lợi bạt mạng, họ làm không biết ngượng ngùng và sợ. Nhân cách, tự trọng
đối với họ tất thảy đều là những thứ dư thừa. Khí phách, nguyên tắc cũng đều là
những cái làm cản trở việc hưởng thụ.
Phân tích nội dung đời người
Đời người bao gồm tất cả đời sống vật chất, đời sống tinh thần,
đời sống xã hội của con người, có thể nói phức tạp vô cùng, khó mà nắm bắt, càng
khó điều khiển. Nhưng người ta lại cần phải thâm nhập vào bề sâu của nó, nhìn
thấu những tiềm tàng bên trong của nó, làm rõ các mối manh của nó, khống chế sự
phát triển của nó. Không như thế, người ta sẽ không thể thành người, đời người
sẽ rơi vào bị động và tùy tiện, hạnh phúc và sự đầm ấm của đời người không biết
bắt đầu nói từ đâu.
Từ đó ta thấy, sự phức tạp khó lường của đời người càng nổi
lên tính quan trọng của việc tự kiểm điểm hành vi của mình. Còn người ta bền bỉ
theo đuổi hạnh phúc và thành công lại nổi bật lên tính bức thiết phải nắm chắc
đời người.
Mỗi con người trong hiện thực đều cần phải cố gắng xây dựng
quan niệm và mục tiêu trong đời người, từ đó nẩy sinh nguồn động lực nhân sinh
to lớn, đồng thời nắm vững mọi cách đối nhân xử thế, cố gắng khắc phục mọi khó
khăn trở ngại trên đường đời, vững vàng phấn đấu không ngừng tới mục tiêu đã định.
Có lẽ chúng ta có thể thất bại, có thể gặp trắc trở, nhưng
trong quá trình sống ngắn ngủi, chúng ta đã cố gắng, đã phấn đấu, thế đã đủ rồi.
Đương nhiên chúng ta cũng có thể giành được thành công và thắng lợi, thế thì
chúng ta sẽ có thể thưởng thức niềm vui lớn trong đời người, hưởng thụ hạnh
phúc lớn lao của đời người.
Đời người chính là triển khai như thế. Nội dung phong phú của
nó diễn biến thành vô số khả năng cung cấp cho người ta sự chọn lựa, phân biệt
và thêm bớt.
Thành công của đời người vĩnh viễn thuộc về những người mong
muốn và luôn luôn cần mẫn tìm tòi. Hạnh phúc của đời người cũng mãi mãi chỉ có
thể đến với những người cố gắng phấn đấu, bền bỉ bất khuất.
Đây là quy luật không thể thay đổi của đời người, cũng là nội
dung chủ yếu của chương này muốn giới thiệu với bạn đọc.
1. Sức hấp dẫn của quan niệm đời người
Từ xưa đến nay, nhiều người thông minh thường tranh luận vấn
đề người là gì. Các nhà hiền triết Trung Quốc nói: Người là động vật có tính
thiện, sự khác biệt của họ với động vật là ở chỗ có lòng đồng tình nhân ái. Các
nhà triết học phương Tây thì cho rằng, người là động vật có ham muốn riêng, người
ta đem hết sức mình theo đuổi sự thỏa mãn ham muốn vật chất, tệ hại này cần phải
dùng quy định của xã hội để khống chế chặt chẽ.
Nhưng chỉ cần quan sát tỉ mỉ trong thế gian: nói tính người
là thiện, nhưng người tàn nhẫn trên đời vẫn đếm không xuể, đã làm những việc xấu
khó mà hình dung nổi. Nếu nói tính người là ác, trên đời này lại có biết bao
nhiêu việc của những người nhân ái sưởi ấm lòng người và làm cho người ta cảm động.
Do đó nói tính người là thiện, nói tính người là ác đều không đủ làm người ta
tin phục. Nhưng nếu khẳng định người là động vật có ngôn ngữ, người là động vật
có tinh thần có lý tính, e rằng sẽ không thể có người đưa ra ý kiến khác được.
Trên đời có vô vàn sự vật, động vật gần giống với người cũng
có nhiều loại, nhưng đích thực không có loại động vật nào có thể có ký hiệu
ngôn ngữ có thể trao đổi tư tưởng tình cảm, có thế giới tinh thần vô cùng sâu
xa, có tư duy lý tính chặt chẽ như người.
Những thứ ngôn ngữ, tinh thần và lý tính con người vốn có này
đã cho sự sinh tồn và cuộc sống của loại người khả năng vô cùng tận, làm cho xã
hội ngày càng tiến bộ, làm cho đời người ngày càng phong phú. Vì sao chúng có
thể sinh ra tác dụng như thế? Chủ yếu vì ngôn ngữ, tinh thần và lý tính của con
người có thể tạo ra cho loài người một quan niệm về tinh thần nào đó, từ đó
loài người giành được mục tiêu và động lực không ngừng nâng mình lên, không ngừng
phát triển xã hội.
Vì thế, quan niệm là cái cơ bản loài người được phát triển,
cũng là cơ sở của đời người tiến tới không ngừng hoàn thiện. Một người không có
quan niệm, đời sống của họ sẽ không có giá trị xác nhận, không biết trạng thái
sinh tồn tốt xấu hay dở, cũng sẽ không có cách nào sinh ra sự xốc nổi và cố gắng
làm thay đổi trạng thái cũ. Loài người nếu không có quan niệm, cả xã hội sẽ bị
đình trệ không tiến lên được, bởi vì phương hướng không rõ ràng, động lực thiếu.
Từ đó ta thấy, quan niệm đối với cá nhân, đối với xã hội là hết
sức quan trọng, cho đến thế kỷ 18 nhà tư tưởng khải mông nổi tiếng Pháp Von-te
(Voltaire), một mặt kiên quyết phản đối thuyết thần học của Thiên chúa giáo và
sự mông muội của tôn giáo, mặt khác thì kêu gọi: "Dù cho không có Thượng đế,
cũng cần phải phịa ra một Thượng đế!"
Vì sao vậy? Vonte cho rằng, dẫu là quan niệm Thượng đế là giả
thiết đưa ra, đối với con người cũng có một công năng ràng buộc của đạo đức.
Khi người đời hoàn toàn mất hết sự tín ngưỡng đối với Thượng đế, cảm thấy không
có bất cứ sức mạnh siêu nhân trừng phạt để răn đe nào tồn tại, sẽ có thể phóng
túng mình, không từ một việc kiêng kỵ nào, không từ một việc xấu xa nào, ắt sẽ
đưa xã hội rơi vào trong hỗn loạn, ắt sẽ đưa đời người vào trong đau khổ.
Vonte đã viết, nếu một người theo thuyết vô thần nào đó quản
lý một nông trang, mà các nông nô trong nông trang lại đều tin theo thuyết vô
thần, thì nông trang đó nhất định quản lý không tốt. Vì vậy, một Thượng đế
thiêng liêng, có thể thưởng thiện phạt ác giữ lại trong lòng người ta, nhất định
có thể sinh ra sức mạnh có quy mô lớn mạnh, khiến người ta không dám làm các việc
ác, mà việc thiện thì tranh nhau làm, xã hội và đời người cũng đều chứa chan
hài hòa và hạnh phúc.
Vonte nói một cách dí dỏm: "Tôi hy vọng người cung ứng của
tôi, người thợ may của tôi, người nô bộc của tôi, người vợ của tôi đều tín ngưỡng
Thượng đế. Tôi nghĩ, như thế sẽ rất ít có người đến cướp đoạt tài sản của tôi
và chụp chiếc mũ xanh lên đầu tôi".
Những lời nói khôi hài này kỳ thực chính là nói lên tính quan
trọng của quan niệm đối với xã hội và loài người. Về bản chất, Thượng đế không
thể là vật tồn tại thực thể nào đó, đây là sự thực nhiều nhà thần học cũng thừa
nhận. Thượng đế chỉ có thể là đối tượng tín ngưỡng của người, mà không phải là
đối tượng thực có thể chứng minh. Là một quan niệm tập hợp chân, thiện, mỹ lại
thành một thể, nó có tác dụng là nguồn gốc giá trị của đạo đức, đem cho những
người chịu khổ chịu nạn nguồn an ủi tinh thần, làm cho người ta bằng lòng mà cố
gắng đi tìm cái chân, theo đuổi cái thiện và giành được cái mỹ. Thượng đế đến đây
đã trở thành mục tiêu cuối cùng của đời người theo đuổi, cho cuộc đời của các
tín đồ Cơ đốc giáo nguồn động lực lớn mạnh. Đây là sức mạnh của Thượng đế, trên
thực chất cũng chính là sức mạnh của quan niệm.
Con người, trong một đời có thể thiếu cái này cái khác, thế
nào cũng rơi vào trạng thái vĩnh viễn thiếu thốn, nhưng cái duy nhất không thể
thiếu, không thể xa rời một ngày là quan niệm cao cả nào đó. Không có nó, đời
người sẽ rơi vào trong cảnh mịt mù không biết tí gì, đời người cũng không có khả
năng cải thiện nâng lên. Nếu như có nó, liền làm cho đời người tỏa ra ánh sáng,
mọi trạng thái tinh thần đều có tiêu chuẩn đánh giá tốt xấu hay dở về giá trị,
do đó đời người liền có phương hướng và động lực phấn khởi đi lên và không ngừng
phát triển.
Cho nên, người ta phải có quan niệm, đời người cần phải có
quan niệm.
Cuộc sống giống như một dòng sông lớn mênh mông, đời người lại
như ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ chạy trên dòng sông. Nước sông lớn có chỗ chậm
chỗ nhanh, dòng sông có chỗ rộng chỗ hẹp, thuyền đời lại lúc nhanh lúc chậm,
lúc gian nan hiểm trở, lúc bình an.
Con người không ai không mong muốn sống đời mênh mông mà nước
chảy êm đềm, khiến cho người ta lênh đênh trên đó một đời đều thuận lợi và huy
hoàng, thành công và đẹp như hoa tươi thắm. Nguyện vọng này tốt thì tốt đấy,
nhưng khả năng quá nhỏ bé. Đời người trong hiện thực thường là thành công và thất
bại đan xen nhau, huy hoàng và ảm đạm cộng sinh, hoa tươi và cỏ yếu cùng sinh
trưởng. Vì thế người ta khi chèo lái trên mặt nước mênh mông trên sông đời, thì
nên nghĩ đến chỗ hẹp phải làm thế nào, lúc xuôi theo dòng nên suy nghĩ lúc ngược
dòng nên làm thế nào v.v...
Trong quá trình của đời người tầm nhìn và sự chuẩn bị có tính
chất vượt trước thời gian vĩnh viễn là cơ sở của thành công và thuận lợi.
Trong đời người còn có một tình huống chịu bó tay là: Khi gặp
dòng đời chảy gấp phải xử trí như thế nào? Cái gọi là dòng đời chảy gấp chính
là những khó khăn khó mà khắc phục, những tình thế khó mà xoay chuyển trong quá
trình của cuộc đời. Đối với điều này, người xưa thông thường dạy người ta nên
dòng gấp dũng cảm lui.
Thời Tống có một thư sinh tên là Tiền Nhược Thủy, khi ông ta
còn là một sĩ tử được tiến cử dự thi, đã từng đến Hoa Sơn xin gặp đạo sĩ nổi tiếng
thời ấy là Trần Hy Di. Trần tiên sinh nhìn thấy Tiền Nhược Thủy ngấm ngầm có
năng khiếu bẩm sinh, là một nguồn tốt của việc đi tu, muốn thu nhận ông ta làm
đồ đệ, nhưng trong lòng còn có một chút chần chừ chưa quyết, liền bảo ông ta
ngày mai đến lại.
Tiền Nhược Thủy theo lời dặn đến đúng hẹn, nhìn thấy một vị
lão tăng và Hy Di đang ngồi vây quanh cái lò đất. Vị lão tăng nhìn tỉ mỉ Tiền
Nhược Thủy từ trên xuống dưới, trầm ngâm không nói, hồi lâu mới cầm lên một que
lửa viết lên trên than bụi ba chữ không làm được. ý của ông là Tiền Nhược Thủy
này không thích nghi với việc đi tu, không thể thu nhận làm đệ tử. Sau đó vị
lão tăng chậm rãi nói với Tiền Nhược Thủy: "Ông là một người có thể dũng cảm
lui trong dòng chảy gấp".
Tiền Nhược Thủy đứng dậy cáo từ, Trần Di Hy cũng không giữ
ông ta ở lại nữa. Về sau Tiền Nhược Thủy thi đỗ Tiến sĩ được bổ nhiệm làm Khu mật
sứ, nhưng tuổi vừa bốn mươi đã từ quan nghỉ hưu.
Tác giả sách Ghi chép lời nói việc làm của các danh thần năm
triều đại thời Tống đã cảm khái nói: Khi Trần Di Hy mới gặp Tiền Nhược Thủy cảm
thấy Nhược Thủy có phong thái của người tu tiên, nhưng lại không đưa ra chủ định,
liền mời vị lão tăng xem tướng ông ta. Vị lão tăng nói: "Không làm được",
cho nên Di Hy cũng không giữ ông ta lại nữa. Song, Tiền Nhược Thủy có thể làm được
dòng gấp lui mau thì cách đạo đức của thần tiên cũng không xa nữa.
Vị lão tăng giúp Di Hy xem tướng, đã dùng lời người dũng cảm
lui trong dòng gấp để khen Tiền Nhược Thủy, nhưng lại nhận định Tiền Nhược Thủy
vẫn còn thiếu tư chất tu đạo thành tiên, mà là đem lời dòng gấp dũng cảm lui
làm lẽ sống cực kỳ quan trọng trong đời sống thế tục. Phương pháp làm tuổi bốn
mươi mới làm quan của Tiền Nhược Thủy đã là chú thích về thao tác cuộc sống cho
dòng gấp dũng cảm lui.
Nhưng việc rút lui trong dòng gấp chỉ nên là một thao tác cuộc
sống bất đắc dĩ, nghĩa là trên đường đời gặp phải là những khó khăn và trở ngại
không thể khắc phục nổi, mà quyết không nên trở thành cái cớ vin vào của sự
nhút nhát, sợ hãi và lười biếng trong đời. Cũng chính là nói, khi những khó khăn
người ta gặp phải có thể kinh qua cố gắng và phấn đấu vật lộn để khắc phục, thì
quyết không thể lui, mà nên dốc hết dũng khí ra thẳng tiến không lùi. Lui trong
trạng thái dòng chảy không gấp, chính không phải là dũng cảm lui mà lại là lui
thua.
Ngoài ra dũng cảm lui trong dòng gấp của đời nên là một loại
lui vì tiến mà lui, mà không phải là một mực tháo lui. Người ta trong một đời mục
tiêu phải cao xa, lý tưởng nên cao thượng, theo đuổi phải kiên định, xu thế
chung nhất định phải là lành mạnh đi lên, không ngừng tiến lên. Trong quá trình
này khó tránh khỏi có thể gặp phải những khó khăn này nọ của cuộc đời, trong đại
đa số trường hợp đều nên kiên quyết khắc phục nó, vẫn tiến lên, đây mới gọi là
dòng gấp dũng cảm tiến.
Đương nhiên, trong quá trình của đời người lại khó tránh khỏi
gặp phải khó khăn trở ngại không tài nào khắc phục được, dòng gấp trở nên sóng
lớn của đời người không thể vượt qua, lúc này, người ta đích thực phải lui,
cũng nên lui, nhưng lui quyết không phải là mục đích đời người, mà là một loại
điều chỉnh tạm thời phải làm vì để tiến tốt hơn. Ví như: Có thể tránh mũi nhọn
của nó, vu hồi để tiến lên; có thể tạm thời nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, tích tụ
năng lượng, có thể dừng một chút, bình tĩnh quan sát sự thay đổi của trạng thái
sự việc v.v...
Cho nên lui trong dòng gấp của đời người, trước tiên phải là
một loại dũng cảm lui mà không phải là lui thua. Hai là phải cố gắng thực hiện
dòng gấp dũng cảm tiến, rèn luyện mình trong sóng to gió lớn của đời, cho dù thất
bại mà bại rất thảm hại, cũng vẫn có thể chuyển hóa thành sự từng trải và kinh
nghiệm của cuộc đời, để có lợi cho việc tiến tốt hơn. Cuối cùng, việc lui phải
là hiện tượng tạm thời trong đời người, phải là một thủ đoạn nghỉ để chỉnh đốn
vào đó, người ta sinh ra ở đời, cần phải quán triệt chủ đề trước sau là tiến,
là phát triển, nâng cao, là tiến lên phía trước và thăng hoa.
3. Đời người "hoàn cảnh" quyết định
Vì sao có người ngay từ lúc sinh ra đã giống như ác quỷ làm hết
mọi việc xấu xa, lòng dạ độc địa, từ trước đến nay không biết thông cảm, giúp đỡ
lẫn nhau, yêu thương lẫn nhau là gì? Còn vì sao một số người khác lại sinh ra
đã như thiên sứ, quan tâm người khác, giúp đỡ người khác, yêu mến tất cả mọi
người, lẳng lặng làm vô số việc nhân từ?
Muốn giải đáp điều nghi vấn này, phải trước hết làm rõ vấn đề
người là gì? Các nhà thần học đạo Kitô phương Tây mọi người đều nói như một.
Con người là tạo vật một ngày nào đó tâm huyết dâng trào của Thượng đế. Về sau
con người đã làm trái với ý muốn của Thượng đế, bị cám dỗ của một con rắn xảo
quyệt đã ăn vụng quả trên cây trí tuệ trong vườn Iten (Eden), thế là đã mắc tội,
cả đời người chỉ có thể cầu nguyện Thượng đế để chuộc và miễn tội của mình. Các
nhà hiền triết Trung Quốc cổ đại thì cho rằng, con người là tinh hoa của vũ trụ,
là chúa tể của muôn loài, con người hơn hẳn vạn vật chỉ ở tính thiện của nó. Vì
thế, đời người nên phải cố gắng đi đến việc tu dưỡng và thực hành đạo đức.
Quan Tổng bao thuế của Quốc vương Pháp thế kỷ 18 là Elivixiu
vừa phản đối nhận định con người là tạo vật của Thượng đế, cũng không thừa nhận
ý kiến con người là tinh hoa của vũ trụ trời đất sáng tạo ra, ông cho rằng:
"Con người là sản vật của hoàn cảnh". Cũng có nghĩa là, con người
không thể trời sinh ra đã là thiện hoặc là ác, khi con người sinh trưởng trong
hoàn cảnh tốt sẽ có khả năng trở thành người thiện, khi họ sinh trưởng trong
hoàn cảnh xấu, họ sẽ có thể trở thành người xấu. Ông viết: "Sự sai khác về
tinh thần mà chúng ta nhìn thấy giữa người này với người khác là do hoàn cảnh họ
sống khác nhau, do họ tiếp nhận giáo dục khác nhau gây nên".
Elvixiu còn chỉ rõ: Loài người có hai loại tình cảm. Một loại
là nhu cầu bản năng tự nhiên trực tiếp ban cho con người như đói, khát, tính dục
v.v..., chúng bắt nguồn từ cơ thể sinh lý của con người. Một loại khác thì do
tài năng, đức hạnh tốt đẹp, tri thức v.v... do con người dựng nên xã hội mà có,
nó bắt nguồn từ đời sống xã hội của con người, là sản vật của hoàn cảnh và giáo
dục.
Từ đó ta thấy, muốn làm cho con người trở thành tốt, trở
thành người có tri thức uyên bác, đức hạnh nổi bật, tài hoa tuyệt vời thì cần
phải dựng nên một hoàn cảnh xã hội tốt. Còn muốn ngăn chặn những bọn người xấu
không có việc xấu nào không làm, hoành hành ngang ngược trong xã hội, cũng cần
phải cải tạo hoàn cảnh xã hội xấu. Bởi vậy, Elvixiu đặc biệt coi trọng phương
thức đi lại giữa người này với người khác, tập quán sinh hoạt, chế độ giáo dục
của xã hội và nhà trường, cùng với người ta thích đọc loại sách gì, thích môn
nghệ thuật gì v.v...
Elvixiu có thể nghiệm rất sâu sắc đối với tác dụng to lớn của
tri thức trong quá trình làm cho con người hướng về cái thiện, ông đã viết với
tình cảm vô cùng cảm kích rằng: "Ôi tri thức! Chỉ cần cùng với người, con
người ngay cả trong gông cùm cũng tự do. Chỉ cần cùng với người, con người ngay
cả trong đả kích của nghịch vận cũng hạnh phúc. Có được ngươi, con người sẽ có
tất cả, mà không cần có các cái khác. Song, con người nếu để mất ngươi, sẽ có
thể trở thành cây lau sậy yếu ớt gặp phải tình dục trêu đùa, trở thành vật hy
sinh vô vị buồn tênh, trở thành thực vật lan ra trong bản thân không có cột chống
giữ".
Tri thức giúp người ta tìm hiểu cái huyền diệu của muôn sự vật,
làm cho người ta có thể nắm vững sự tồn tại chân thực của sự vật, từ đó tránh
cho con người làm nhiều việc ngu xuẩn trong cuộc sống. Tri thức còn khai thác
tâm linh và thế giới tinh thần của con người, cho nên Elvixiu có thể nói người
có tri thức dù là chịu gông cùm xiềng xích cũng tự do, trong nghịch vận con người
cũng hạnh phúc. Tri thức còn có thể cho con người sức mạnh to lớn để làm thay đổi
hoàn cảnh tự nhiên con người phải đối mặt, cũng cho con người một sức lực to lớn
thoát khỏi sự khống chế của tình dục, trở thành chúa tể chân chính của cuộc đời
mình.
Từ đó ta thấy, một trong những con đường quan trọng con người
bỏ ác làm điều thiện là học tập nắm vững những tri thức quý báu. Mà việc này
đương nhiên có liên hệ chặt chẽ, hoàn thiện với chế độ giáo dục xã hội.
Trong tầm nhìn của Elvixiu, nhân tố thứ hai khác của hoàn cảnh
xã hội quyết định con người làm việc thiện hay làm việc ác là chế độ chính trị
và chế độ luật pháp.
Ông viết, pháp luật quyết định phong tục và đạo đức của một
dân tộc. Trong lịch sử, người ta thường cho rằng tôn giáo là nhân tố chủ yếu
khiến người ta tâm linh trong sạch, đạo đức cao thượng. Còn Elvixiu thì cho rằng,
dân tộc hưng thịnh hay không chủ yếu có liên hệ chặt chẽ, tốt hay không với
pháp luật của họ, bởi vì pháp luật mang sức cưỡng chế nhà nước khiến người ta
có thể làm việc như thế này, mà không thể làm việc như thế kia. Pháp luật tốt
khiến người ta hướng tới chân, thiện, mỹ, còn pháp luật kém dẫn người ta lâm
vào giả dối, ác độc và xấu xa. Kết luận của Elvixiu là: "Pháp luật tạo nên
tất cả".
Elvixiu còn cho rằng, từ kinh nghiệm lịch sử ta biết, tính
cách và trí năng của nhiều dân tộc phát sinh thay đổi theo sự thay đổi chế độ
chính trị. Thể chế chính trị khác nhau, tính cách của một dân tộc chỉ định nào
đó hiện ra lúc cao thượng, lúc đê hèn, lúc kiên quyết không sờn, lúc lật lọng
thất thường, lúc dũng cảm, lúc khiếp nhược.
Cho nên cá nhân làm việc ác hay là làm việc thiện là do hoàn
cảnh xã hội quyết định. Còn dân tộc cao thượng hoặc đê hèn thì do pháp luật và
thể chế chính trị quyết định. Nhưng chế độ chính trị và pháp luật lại do ai định
ra? Elvixiu viết: "Cần phải có thiên tài, mới có thể dùng pháp luật tốt
thay thế pháp luật kém. Cái gọi là thiên tài chính là người lập pháp tốt, vì thế
trình độ tiến bộ lý trí của người lập pháp quyết định chế độ pháp luật tốt xấu.
Như vậy, lại quay trở về điểm khởi đầu con người cần phải được giáo dục tốt, có
tri thức chân chính".
Elvixiu nhấn mạnh: "Giáo dục chính là công cụ lớn mạnh
và hạnh phúc, hạnh phúc của con người "vừa quyết định bởi pháp luật chi phối
đời sống của người ta, cũng quyết định bởi giáo dục người ta được tiếp nhận, do
vậy giáo dục là vạn năng"!
Những nhận định này của Elvixiu chắc chắn là sự khinh mạn đối
với tác dụng của tôn giáo, cho nên gây nên sự hoang mang cực độ của giáo hội
đương thời. Đại giáo chủ Xlap Đơ Pôman nói, tư tưởng của Elvixiu ghê tởm đáng sợ
như địa ngục, mọi người cần phải đề phòng nó giống như đề phòng bệnh dịch. Giáo
hoàng Roma đã ra lệnh cấm riêng đối với trước tác Bàn về tinh thần của Elvixiu.
Ngày 6 tháng 2 năm 1759, tòa án tối cao đã đưa ra phán quyết, tác phẩm của
Elvixiu và mấy bộ tác phẩm khác đã tự tay bọn đao phủ đốt dưới cầu thang lầu lớn
Cung tư pháp.
Nhìn thấy trước tác thấm đẫm tâm sức của mình bị vùi dập
trong ngọn lửa, Elvixiu không buồn rầu chán nản. Năm 1769, trong lời tựa trước
tác mới Bàn về con người ông đã viết như sau: "Ngày nay chỉ có tìm thấy
chân lý trong sách cấm, các sách khác toàn là lời nói dối". Ông vững dạ
yên lòng đem trước tác của mình cất giấu chờ sau khi mình chết sẽ xuất bản, đồng
thời vì trước tác của mình bị liệt vào loại sách cấm mà tràn ngập lòng tự hào.
Học thuyết của Elvixiu về Con người là sản vật của hoàn cảnh
đã vạch ra ý nghĩa quan trọng của hoàn cảnh con người sinh tồn trong đó đối với
tính cách con người và đời người. Sự rèn luyện nhân tính, sự hoàn thiện nhân
cách, sự nâng giới hạn đời người lên, quyết không chỉ là một vấn đề tiên nghiệm
và bẩm sinh, chúng đích thực trong quá trình đời người hiện thực chịu ảnh hưởng
cực kỳ to lớn của hoàn cảnh xã hội, phương thức đi lại giữa người này với người
nọ, đặc biệt là chính thể pháp luật và chế độ giáo dục ở trong đó.
Cho nên, con người khát vọng tự hoàn thiện, đời người hạnh
phúc, cuộc sống tốt đẹp, thì cần phải chú ý cải thiện hoàn cảnh sinh tồn, cố gắng
hấp thu tri thức quý báu, tiếp nhận giáo dục tốt.
Aten, đô thành xinh đẹp của Hy Lạp cổ vừa là trung tâm thương
mại phồn vinh, lại là nơi hội tụ văn hóa nghệ thuật. Vào khoảng hơn 300 năm trước
công nguyên, một học giả lừng danh Aristotle đã lập nên một trường học tại
Lyceum của Aten, không lâu liền trở thành nơi tụ tập của những người hiếu học.
Các lĩnh vực Aristotle đã bàn đến hết sức rộng rãi, ví như về
khoa học tự nhiên gồm y học, giải phẫu học và sinh vật học, cả đến khoa học xã
hội nhân văn như chính trị học, xã hội học, logic học, triết học, luân lý học
ông đều đọc qua rất rộng và có thành tựu phi thường.
Trong khuôn viên trường có một con đường bóng cây râm mát, lá
cây dày đặc che hết ánh mặt trời chói chang, tiếng chim ríu rít hót vui tai, mọi
nơi đều hiện ra bầu không khí tĩnh mịch, yên lành và hài hòa.
Aristotle thích bầu không khí ở đây, đôi lúc đi dạo một mình,
đi chậm rãi nhưng trong đầu đang suy nghĩ căng thẳng tìm tòi sự huyền bí của sự
vật và ý nghĩa tinh túy của xã hội. Nếu không thì cùng các học trò dạo bước dưới
bóng cây, vừa đi vừa nói, vừa đem những điều tâm đắc nghiên cứu của mình truyền
lại cho học trò, lại nhận được những điều gợi ý trong thảo luận phản bác của mọi
người.
Lâu ngày, việc giảng và học trên đường dưới bóng cây đã thành
phương thức dạy học cố định, học phái Aristotle cũng được người ta đội cho cái
mũ học phái tiêu dao. Từ đó người ta có thể thấy, học tập đối với họ là việc hết
sức hào hứng, không hề có gì khô khan, nhạt nhẽo làm cho người ta sinh ra chán.
Một hôm, Aristotle lại dạo bước trên con đường dưới bóng cây,
vây quanh ông là một đám học trò.
"Thưa thầy, thầy có thể nói qua một chút đức hạnh tốt là
gì? Làm như thế nào mới có thể giành được hạnh phúc?" Một học trò trẻ hỏi.
Aristotle suy nghĩ một chút rồi nói: "Đức hạnh tốt chính
là một loại vừa phải, quá mức và bất cập đều không hay, chỉ có vừa phải mới là
đức hạnh tốt. Cho nên người ta nên lấy lẽ triết trung đối nhân xử thế, mới có
thể giành được hạnh phúc đời người".
Các học trò đều mong muốn thầy giáo nêu ví dụ để thuyết minh
rõ thêm một bước nữa. Aristotle hơi trầm tư nói: "Có một số người xem khổ
hạnh tuyệt dục làm đức hạnh tốt, cho nên tự hại tự cấm mình, cuộc sống rất khổ
hạnh. Còn một số người khác thì đem sự thỏa mãn dục vọng làm đức hạnh tốt, làm
hạnh phúc cao nhất của đời người, cho nên đã tha hồ phóng túng, không có việc
gì xấu không làm, kết quả làm tổn hại thân thể, cùng làm cho đời người rất đau
khổ. Cái đó đều là quá trớn trong quá trình đời người, có thể dẫn đến đau khổ
vô hạn. Cho nên, túng dục và cấm dục đều không phải là đức hạnh tốt, đều không
phải là cách xử thế tốt, tốt nhất vẫn là phải vừa phải, tức hạn chế. Ăn uống,
trai gái, nhu cầu vật chất là do bản tính của con người sai khiến, không thể
hoàn toàn chừa bỏ được, phải có sự thỏa mãn nhất định, đó là sự cần thiết của hạnh
phúc đời người. Nhưng lại không thể nghe theo sự dẫn dắt của cảm quan về thể
xác đi theo đuổi vật dục một cách mù quáng thậm chí điên cuồng, thỏa mãn dục vọng
một cách bất chấp tất cả. Làm được điều này gọi là hạn chế, mới có thể làm cho
đời người hạnh phúc chân chính.
"Vậy thì, thưa thầy, nguyên tắc lẽ triết trung này có thể
thích hợp với mọi phương diện được không?" Một học sinh khác lại hỏi.
"Đương nhiên - Aristotle vẩy vẩy tay - Ví như lỗ mãng và
nhu nhược đều không tốt, cái vừa phải của nó là dũng cảm, dũng cảm chính là một
đức hạnh tốt. Buông thả và thờ ơ hờ hững đều không được, cái vừa phải của nó là
hạn chế, hạn chế là rất tốt. Ngạo mạn và tự ti đều không hay, cái vừa phải của
nó là tự tôn, tự tôn là điều cần thiết của con người. Lãng phí và keo kiệt bủn
xỉn đều không nên, cái vừa phải của nó là khảng khái, khảng khái là rất tốt, tục
tĩu và nhỏ nhen đều không tốt, cái vừa phải của nó là văn minh lịch sự, văn
minh lịch sự là đức hạnh cao thượng v.v... Cho nên, đối nhân xử thế phải vừa phải,
không thể quá cũng không nên bất cập, thích cực đoan ắt sẽ làm cho đời người trở
nên như một trận tai nạn lớn.
Các đệ tử nghe xong lời thầy giáo cảm thấy trong lòng trong
sáng, đối với việc đối nhân xử thế như thế nào đều có một nguyên tắc xác định.
Nhưng nghiên cứu sâu hơn một chút, nguyên tắc của đạo triết
trung của Aristotle còn có ý nghĩa sâu xa khác: Bất cứ ai trong quá trình đời
người đều có thể gặp đủ mọi vấn đề khó khăn của đời người. Vì vậy cần phải đưa
ra nhiều cách lựa chọn, cuối cùng quyết định như thế nào? Điều này sẽ có một
quy tắc. Khi những suy nghĩ của người ta phù hợp lý tính, từ góc độ tính phổ biến
của xã hội đưa ra lựa chọn thích hợp, thì quan niệm và hành vi của người ta sẽ
phù hợp lẽ triết trung. Ngược lại, người ta quên đi bản chất thiện có tính phổ
biến xã hội, cố ý thuận theo dẫn dắt của dục vọng riêng của cá nhân để chọn lựa,
thế thì sẽ đi chệch yêu cầu của lẽ triết trung. Cho nên lẽ triết trung phù hợp
với yêu cầu đức tính không phải ở chỗ chọn lấy điểm giữa của hai đầu một cách
máy móc, mà ở chỗ phải phù hợp bản chất của cái thiện tồn tại có tính xã hội,
chọn lựa sống và hành động như thế, mới có thể giành được hạnh phúc đời người
và thuận cảnh chân chính.
5. "Nhược trượng phu", "giả trượng phu",
"tiểu trượng phu" và "đại trượng phu"
Nam giới ở trên đời phần nhiều không muốn trở thành nhược trượng
phu có tính cách nhu nhược, càng không muốn làm giả trượng phu và tiểu trượng
phu chí khí cứng rắn bị teo lại, không đủ sức lực, ngược lại rất muốn trở thành
đại trượng phu được người ta kính nể. Ai biết được ngày nay ý nghĩa của từ đại
trượng phu thường chỉ chủ nghĩa đại nam tử để gọi những người nam giới coi thường
thậm chí bắt nạt nữ giới, đây thật là cách dùng bị bóp méo đi. Bởi vì ngay từ
lúc từ ngày mới sinh ra, chỉ để gọi nhân cách cao thượng.
Lão Tử, người sáng lập Đạo gia Trung Quốc, xem đại trượng phu
là những người có trí tuệ rất cao, họ có thể đặt mình trong thành thực chất
phác, lánh xa vẻ hời hợt, biểu hiện ra vẻ mộc mạc chân chất mà không chuộng hư
vinh hào nhoáng.
Đạo gia tôn sùng cách xử thế thuận theo tự nhiên, đem tất cả
mọi lễ tiết lôi thôi phiền phức của thế tục, công danh lợi lộc, văn chương nhuận
sắc, khí cụ tinh xảo đều xem là ngược lại với bản tính con người, cho nên nhất
định phải khử bỏ nó đi xong mới vui sướng. Chính thế, muốn trở thành bậc đại
trượng phu thì cần phải chất phác tự nhiên, không chuộng hư vinh, cuộc sống thực
tại không cầu hiển đạt. Đã không có bất cứ ý nghĩ, theo đuổi nào của thế tục,
thế thì sẽ có thể làm đại trượng phu vô tư không sợ, đời người như mây bay nước
chảy, việc đến thì thuận theo, vật chất tăng thêm cũng không vướng víu để đứng
giữa trời đất.
Nhà tư tưởng lớn Nho gia Trung Quốc Mạnh Tử không nhìn nhận
như thế, ông nói: "Người đại trượng phu ở trong ngôi nhà nhân nghĩa rộng lớn
nhất thiên hạ, đứng trên vị trí lễ nghi đúng đắn nhất thiên hạ, bước chân đi
trên con đường nghĩa rộng lớn quang minh nhất thiên hạ. Cho nên, trong họ có đức
tính và lòng tự tin đầy đủ, khi đắc chí triển khai kế hoạch lớn rầm rộ, mưu hạnh
phúc cho muôn dân trăm họ trong thiên hạ. Mà khi không đắc chí cũng có thể một
mình giữ nguyên tắc đúng đắn, thực hiện được khí tiết phú quý không thể làm rối
loạn lòng mình, bần tiện không thể làm thay đổi chí mình, uy vũ cũng không thể
làm mình khuất phục".
Phú (tiền của nhiều) và quý (địa vị cao sang) là cái mà con
người theo đuổi. Bần (tư liệu sinh hoạt thiếu thốn) và tiện (địa vị thấp hèn)
là cái mà con người phải tránh. Nhiều người vì theo đuổi phú quý trước tiên khắc
khổ phấn đấu, chưa kết quả thì bước vào con đường sai lầm, vì mục đích có thể bất
chấp lợi ích của người khác và xã hội, thậm chí bất chấp cả lương tâm đạo đức của
mình, cuối cùng mất cả tính mạng cũng phải theo đuổi. Cũng có nhiều người, để
thoát khỏi nghèo hèn mà không từ bất cứ việc gì không làm, thậm chí bán rẻ cả nhân
cách và vứt bỏ mọi ràng buộc của đạo đức, chỉ mong thực hiện được mục đích.
Uy vũ là sức ép lớn mạnh nào đó của bên ngoài, người bình thường
rất khó chống cự lại sức mạnh của uy vũ, thế là buộc phải làm những việc ngược
lại với lương tâm lẽ trời và đạo đức xã hội.
Duy chỉ có bậc đại trượng phu mới có thể chống lại được sức
ép của sức mạnh của uy vũ, chống lại được sự cám dỗ của phú quý (giàu sang),
trong nghèo hèn có thể giữ được nguyên tắc của đạo đức, những việc này nếu
không có nghị lực của người siêu phàm thì không tài nào làm nổi.
Vậy thì người bình thường có thể trở thành đại trượng phu được
không?
Mạnh Tử nêu lên hai hướng: Một là rèn luyện tinh thần ngay thẳng
cương trực, hai là dưỡng dũng.
Tinh thần ngay thẳng cương trực, Mạnh Tử cũng thừa nhận là
khó nói, nó là một sức mạnh tinh thần vừa tràn ngập trong vũ trụ, lại có tính vật
chất rất cứng rắn. Cho nên, người ta dốc hết mọi cố gắng dùng đạo nghĩa để bồi
dưỡng, tinh thần ngay thẳng cương trực liền có thể nổi lên hết sức dồi dào.
Lòng kiên định ý chí tinh thần của con người có thể chuyển biến thành tính kiên
cường thể xác có tính vật chất của con người, dựa vào nó người ta có thể chống
lại bất cứ sức ép nào của xã hội và con người, gạt bỏ bất cứ cám dỗ nào của vật
chất và tiền tài. Những cái đó sẽ rèn luyện giới hạn nhân cách và khí tiết của
người siêu phàm, trở thành một bậc đại trượng phu.
Dưỡng dũng, không phải là chỉ bồi dưỡng cái dũng của kẻ thất
phu lỗ mãng liều ẩu mà người thế tục thích.
Mạnh Tử nói, trước kia có một người tên là Bắc Cung ảo, ông
ta bồi dưỡng dũng khí rất đặc biệt. Có người dùng kim đâm vào da thịt của ông,
ông ta có thể không kêu một lời. Sau đó lại đâm vào mắt ông, mi mắt đều không
nháy. Nhưng người khác động đến một cái lông của ông ta, thì ông chịu không nổi
giống như bị quất roi trước đông người trên đường phố, trong lòng cũng không có
bất cứ nguyên tắc xác định nào, không tài nào chịu đựng nổi thất thiệt và sỉ nhục.
Lại có một người khác tên là Mạnh Thi Xá, ông ta bồi dưỡng
dũng khí lại có một cách riêng: Khi đánh trận, ông ta không có chút sợ sệt, đối
mặt với quân địch không thể đánh thắng vẫn xông lên phía trước giống như đội
quân có thể chiến thắng. Ông ta mặc dù không thể nắm chắc phần thắng, nhưng lại
có thể xông lên đánh rất anh dũng.
Mạnh Tử lại nói: Tăng Tử, nhà hiền triết thời xưa học được từ
Khổng Tử một phương pháp dưỡng dũng: tự hỏi lại bản thân, mình không có lý thì
dù đối phương chỉ là một người dân bình thường cũng không thể ăn hiếp họ. Tự hỏi
lại mình, chính nghĩa nắm trong tay thì dù đối mặt với thiên binh vạn mã, cũng
không thể thụt lùi, phải anh dũng xông lên phía trước.
Câu chuyện của ba người dưỡng dũng này đã nói lên điều gì? Cả
ba người đều là vì cái dũng, nhưng tính chất khác nhau. Bắc Cung ảo có thể chịu
đựng được cái đau của da thịt, nhưng lại không chịu nổi nỗi nhục về tinh thần,
nên cái dũng này không phải là cái dũng thật. Mạnh Thi Xá tuy về tinh thần có
thể giữ được khí khái thẳng tiến không lui không hề biết sợ hãi, so với Bắc
Cung ảo có tiến hơn một bước, nhưng vẫn thuộc cái dũng của kẻ thất phu. Chỉ có
lấy việc có nắm được chính nghĩa hay không làm tiêu chuẩn, những việc không
chính nghĩa một tí cũng không làm, những việc chính nghĩa thì có thể xông vào
hàng ngàn vạn người, tôi vẫn vào! Đó mới là trượng phu thật, trượng phu vĩ đại,
tức đại trượng phu.
Người ta sinh ra ở đời, đương nhiên không nên làm tiểu trượng
phu yếu đuối, trượng phu kiểu vô độc bất trượng phu, mà nên làm đại trượng phu.
Nhưng lại không thể đi nhầm vào con đường sai lầm, bồi dưỡng mình trở thành người
giả trượng phu lên mặt nạt người, coi trời bằng vung, dùng thế để đè người.
Đại trượng phu chân chính không phải ở thể lực lực lưỡng sức
như trâu điên, mà là ở ý chí kiên định, không có gì sợ hãi. Việc đó chỉ có thể
bắt nguồn từ lòng tự tin và đức tính của người ta vì nắm được chính nghĩa mà
thăng hoa. Do vậy, người đại trượng phu quyết không thể hăm dọa đè nén kẻ hèn yếu,
cũng quyết không khuất phục trước sức ép và khó khăn lớn mạnh, thẳng tiến không
lùi, vì thực hiện lý tưởng dù phải hy sinh cả tính mệnh cũng không tiếc.
Từ đó ta thấy, không những nam giới có thể trở thành đại trượng
phu, mà nữ giới cũng có thể trở thành nữ đại trượng phu. Loại ranh giới đời người
này cuốn hút người ta như thế đó, chẳng lẽ chúng ta lại không động lòng, lại
không thể vì nó mà cố gắng hay sao?
6. Uổng công vô ích nên đời người rút ngắn
Người ta trong một đời, nói chung đều đề ra cho mình đủ mọi mục
tiêu theo đuổi, sau đó không ngừng cố gắng để mong thực hiện. Nhưng về sau phát
hiện nếu ngoảnh đầu nhìn lại, nhiều mục tiêu đều không thể đạt được, tinh lực
và thời gian hầu như đều lãng phí vô ích.
Người ta đành thở dài một tiếng: uổng công vô ích và tự nhủ
mình từ nay về sau cần phải biết thông minh hơn một chút, không nên lại lập những
mục tiêu của đời hư ảo thế nữa, lãng phí nguồn lực quý báu của mình.
Mặc dù người ta nghĩ lại thất bại, nhận được bài học như thế,
nhưng về sau lại có thể phát hiện mình vẫn làm rất nhiều việc uổng công vô ích.
Lúc đó họ mới có thể vỡ lẽ: tốn công vô ích mà rút ngắn tuổi thọ con người, nói
trắng ra, đời người chính là một trò chơi tốn công vô ích!
Đối với điều này, chúng ta thử xem cách nhìn của các nhà hiền
triết cổ Trung Quốc.
Sách Trang Tử - Thiên vận thiên đã ghi một câu chuyện nói Khổng
Tử dẫn các đệ tử tây hành đến nước Vệ, vẫn tiếp tục hành trình chu du các nước,
bận về việc thực hành phương án trị quốc của Nho gia nhân chính lễ chế.
Hôm đó, học trò của ông là Nhan Uyên gặp Thái sư Kim nước Lỗ,
hỏi: "Ngài cho rằng cuộc đi nước Lỗ của Thầy học tôi ra sao?" Nhan Hồi
(tức Uyên) sở dĩ có câu hỏi này là muốn biết nhận xét của hiền sĩ trong xã hội
đối với việc Khổng Tử chạy ngược chạy xuôi, nằm chưa kịp ấm chỗ vất vả đó.
Thái sư Kim vê vê chòm râu cười, nói: "Thật là đáng tiếc!
Thầy học của ông không hiểu một tí gì đối với việc đời".
Nhan Uyên cảm thấy kinh ngạc, nói: "Sao có thể thế được?"
Thái sư Kim nói: "Con chó cỏ bện bằng cỏ mà chúng ta
dùng để tế lễ, khi còn chưa tiến hành dâng tế, đem đặt nó vào trong chiếc lồng
tre cẩn thận, dùng khăn thêu đẹp đẽ phủ kín lại, mà người chủ trì cuộc tế phải
tắm gội người sạch sẽ và ăn chay mới có thể đón nhận nó một cách cung kính. Đợi
đến khi tế lễ xong thì con chó cỏ đó liền bị quăng sang một bên, kẻ qua đường
dùng chân giẫm đạp lên đầu, lên lưng nó, người tiều phu nhặt được nó đốt lửa để
nấu cơm. Nếu như lúc này lại có người muốn dùng lồng tre đặt nó, khăn thêu để
che đậy, người đi kẻ ở đều ngủ ngay bên cạnh nó một cách hết sức cẩn thận, thế
thì ông ta dù không nằm mơ thấy mộng dữ, cũng nhất định sẽ cảm thấy bối rối".
Nhan Uyên nói: "Ngài nói những chuyện này là có ý như thế
nào?"
Thái sư Kim lại cười: "Thầy học của ông chính là nhặt
con chó cơ mà các bậc tiên vương đã từng dùng rồi bỏ đi làm hiệu triệu, tụ tập
đệ tử, đi hoặc ở lại đều ngủ ở bên cạnh nó. Cho nên có thể bị đe dọa của kẻ đốn
cây ở nước Tống, bị cảnh cáo không được cư trú ở nước Vệ, còn ở các vùng
Thương, Chu cũng hết đường xoay xở, việc đó chẳng lẽ không giống như mộng dữ
sao? Lại bị bao vây ở ranh giới của nước Trần và nước Thái, đã bị đói 7 ngày,
hàng ngày bị uy hiếp của cái chết, đây chẳng phải là bị bối rối ư?"
Nhan Uyên biện bạch nói: Thầy học của chúng tôi có quyết tâm
thực hành lễ chế triều Chu, muốn đem thiên hạ vô đạo cải tạo thành chốn yên vui
của vương đạo, mặc dù gặp phải vô vàn gian nan hiểm trở, cũng không thể làm
thay đổi quyết tâm của Ngài, đây chẳng phải là đang nói lên ý chí kiên định của
Ngài ư?
Thái sư Kim lắc đầu nói: Cách nói này của ông không đúng. Vận
hành ở trên sông nước không gì thuận tiện bằng thuyền, còn đi lại trên đất liền
thì không gì tốt bằng xe. Nếu cho rằng thuyền có thể đi lại trong nước mà mong
muốn có cũng có thể chạy trên đất liền, thế thì một đời cũng đi chẳng được bao
xa. Thời xưa và ngày nay hoàn toàn khác nhau như nước và đất liền, triều Chu
trước kia và nước Lỗ hiện nay cũng khác nhau như thuyền và xe. Bây giờ Thầy
giáo của các ông muốn đem chế độ của thời Chu thi hành ở nước Lỗ, việc này sẽ
giống như đem thuyền đẩy lên đất liền để chạy, không những tốn công vô ích, bản
thân còn có thể gặp tai ương. Các ông nên thay đổi theo thời thế, giống như xe
truyền công văn không có phương hướng nhất định, tỏa đi khắp nơi.
Những lời nói của Thái sư Kim nước Lỗ này muốn nói Khổng Tử
và các đệ tử không thức thời, kiên trì đem những cái của trước kia thực hành ở
hiện tại, việc này không những uổng công vô ích mà còn nguy hiểm đến bản thân.
Cho nên đời người cần phải biết biến báo, cái gọi là người thức thời là tuấn kiệt
là như thế.
Nhưng Khổng Tử không thể đồng ý cách nhận xét này. Ông cho rằng
mục tiêu lý tưởng của mình phục hưng Chu lễ thi hành nhân chính là cao cả và
đúng đắn. Nó là đạo của trời mệnh lệnh cho ông thực hành. Cho nên dù cho khó
khăn chồng chất, tai họa dồn dập liên tục, thậm chí nguy hiểm cả đến tính mệnh
cũng không thể làm lung lay chí hướng và theo đuổi đời người của ông. Đương
nhiên, Khổng Tử không thể để ý đến cái gọi là uổng công vô ích, vì sự nghiệp
ông đã đặt sự an nguy của sinh mệnh ra ngoài sự tính toán, sao có thể lấy uổng
công để khuyên ngăn ông?
Uổng công vô ích, cho nên không nên miễn cưỡng đi làm việc gì
đó. Biết nó không thể mà vẫn làm", đó là biết rõ việc làm không thành lại
vẫn kiên trì muốn làm. Hai loại nhân sinh quan này dẫn đến việc điều khiển đời
người hoàn toàn trái ngược, có lẽ đều có thể trở thành cách xử thế mà người đời
lựa chọn. Cuối cùng chọn cách nào phải xem lý tưởng, mục tiêu, niềm tin của bạn
là gì, có lẽ còn phải cộng thêm nhân tố tính tình của bạn như thế nào nữa.
7. Cương trực và nhu nhược
Tài tử thời Minh Phùng Mộng Long tính thích thu thập các chuyện
truyền kỳ dân gian và dày công biên soạn thành sách, trong thiên Quảng tiếu phủ.
Thượng khí có ghi chép một chuyện như sau:
Trước kia có hai cha con tính cách đều rất cương trực, từ trước
đến nay trong cuộc sống chưa từng cúi đầu trước người khác, cũng không nhường
ai, hơn thế không lùi nửa bước. Một hôm, trong nhà có khách đến chơi, người cha
sai người con đi chợ mua thịt. Người con lấy tiền đến hàng thịt mua mấy cân thịt
tốt nhất, dùng dây xâu và đi về nhà. Khi đến cổng thành, đối mặt gặp một người,
hai bên đều không lùi bước, cũng kiên quyết không tránh nhau, thế là mặt đối mặt
đứng sừng sững ở tại đó, giằng co nhau rất lâu.
Trời đã chính trưa, ở nhà mong đợi thịt nấu để đãi khách cơm
rượu, người cha không thể không bắt đầu sốt ruột, ra khỏi nhà để đi tìm người
con mua thịt. Đến chỗ cổng thành, nhìn thấy người con vẫn mắc kẹt ở đó, không
chịu nhường người khác một li. Người cha sung sướng nghĩ: Đây thật là đứa con tốt
của mình, tính tình cương trực như thế. Lại cũng cả giận nghĩ: Người kia là người
nào vậy, lại dám láo xược như thế. Liền nhảy vọt lên phía trước lớn tiếng nói:
"Con hãy đem thịt về trước, cùng ăn cơm với khách, để cha đứng đây đối chọi
với anh ta!"
Lời nói vừa dứt, người cha và người con đổi chỗ cho nhau, người
con về nhà xào nấu thịt hâm rượu thết khách. Người cha thì đứng đối diện với
người kia sừng sững không hề động đậy mắt trợn tròn xoe giống Kim Cương. Nhiều
người đứng xem xung quanh cười mãi không thôi.
Nói chung, tính cách của con người có phân biệt cương trực và
nhu nhược. Người có tính cương trực thường cố chấp ý kiến của mình, tuân thủ
nghiêm ngặt quy tắc làm người của mình, không nhượng bộ, không biến báo. Người
có tính tình nhu nhược thì ngược lại, họ trước nay không có ý kiến, trong cuộc
sống cũng không từng giữ quy tắc nhất định nào, gặp việc thì theo đuôi người
khác, thường hay chùn lại, thích biến báo. Nói chung, người cương trực trong xử
thế không dễ bị hớ, được người khác kính phục, còn người nhu nhược thì thường bị
người khác ăn hiếp, bị người ta xem thường.
Người ta sinh ra ở đời không có một chút tính khí cương trực
không được, nhất là cần phải có chủ định trong lòng, có một số quy tắc làm người
xác định, do đó người ta có thể làm tăng dũng khí, có thể chống lại với người
khác, chống chọi lại với những cái đen tối của xã hội, làm nổi trội cá tính và
phong cách của mình. Nhưng cương trực không phải là hờn dỗi, không phải là đi
theo đuổi thắng lợi cá nhân vô ích, giống như hai cha con cương trực mà Phùng Mộng
Long đã miêu tả này, chỉ vì một việc nhỏ không nhường tránh nhau, đi đối phó lại
với người khác, bất chấp mọi cái khác, việc đó đã từ cương trực đi đến làm liều,
cuối cùng có thể gặp phải chuyện sứt đầu mẻ trán trong cuộc đời.
Tính cách nhu nhược hiển nhiên là không thích hợp trong xã hội
đầy mùi thuốc súng cạnh tranh này. Sự cạnh tranh của xã hội hiện tại không những
đang phải dốc ra hết trí lực và thể lực của con người, mà nhược điểm của tính
cách cũng có thể dẫn đến thất bại của đời người. Kẻ nhu nhược ắt hẳn do dự
không dám cả quyết, ắt hẳn không dám nhận mạo hiểm, ắt sẽ bị kẻ mạnh ăn hiếp,
vì vậy khó thi thố trong xã hội, khó giành được thành công trong đời.
8. Ngọn đèn sáng của đời người hạnh phúc
Bình thường từ tri thức mà người ta thường dùng, thực tế ẩn
chứa hai hàm ý: một là tri, hai là thức. Tri là tìm hiểu được bao nhiêu đối với
sự vật, cũng có nghĩa là người ta trong đời sống hàng ngày dưới sự dạy dỗ của cha
mẹ và thầy giáo, tìm hiểu mọi sự vật, biết được những điều huyền bí của nó,
chúng tạo nên bộ phận cơ sở trong kết cấu tri thức của con người.
Thức là kiến thức, nó không chỉ là tìm hiểu sự vật, mà còn là
nghiên cứu sự vật, tức là phân tích sâu sắc đối tượng, nắm vững quy luật phát
sinh, phát triển của nó, thu được nhận thức về bản chất của sự vật. Thức cũng
không chỉ là biết cái gì, mà là trên cơ sở nghiên cứu sâu sinh ra những nhận
xét của mình, hình thành kiến giải có tính sáng tạo mới. Cho nên, trên đời có
người vô tri vô thức, cũng có người có tri vô thức, lại có người có thức vô
tri.
Một người có tri có thể giành được hạnh phúc đời người nhiều
hơn, lớn hơn người vô tri. Bởi vì người vô tri đối với sự vật không hề biết một
tí gì thậm chí không biết ý nghĩa của trạng thái sinh tồn của sự vật bên ngoài
đối với cuộc đời của mình, căn bản không biết cũng không có năng lực làm thay đổi
tình hình phát triển của sự vật, cuộc đời của họ hoàn toàn bị khống chế của sự
vật bên ngoài, chỉ có thể sống một cách bị động, chịu khổ chịu nan chịu giày vò
trong thế giới tàn khốc này.
Nhưng người có tri thì không như thế, họ đối với sự vật về cơ
bản hiểu thấu triệt, cũng nắm vững đối với quan hệ của trạng thái bên ngoài và
hạnh phúc đời người, cho nên họ có thể chủ động thích ứng với sự phát triển của
sự vật, cố gắng điều hòa quan hệ của đời người với tự nhiên và xã hội, từ đó
giành được trang cuộc sống tương đối tốt.
Còn về một người có thức lại có thể giành được hạnh phúc đời
người nhiều hơn, lớn hơn so với người có tri. Bởi vì người có thức vốn có ý kiến
chủ quan của mình, họ không những tìm hiểu tình hình phát triển của tự nhiên,
xã hội và cuộc đời, mà còn biết vận dụng cố gắng chủ quan như thế nào để làm
thay đổi nó, nhất là họ có thể vượt hẳn người bình thường tìm hiểu và theo đuổi
đối với hạnh phúc đời người, cấu tạo nên trạng thái hạnh phúc đời người mà mình
chấp nhận, đồng thời cố gắng thực hiện nó. Vì thế, người có thức không chỉ là
người giành được hạnh phúc đời người, mà còn là người sáng tạo hạnh phúc đời
người.
Nhà triết học lớn cận đại người Anh Roger Bacon hiểu sâu sắc
nhất đối với tính quan trọng của tri thức trong đời người. Ông cho rằng những
nhà triết học kinh viện đánh lộn trắng đen, có thẩm quyền tri thức giả mạo thời
trung thế kỷ rất đáng buồn, họ giống như con mắt khắc trên đá và vẽ trên vải buồm,
tuy có cái danh của con mắt lại không có cái thực của con mắt. Ông nói:
"Việc xấu nhất là mặc dù họ đang trong bóng đen dày đặc nhất của sai lầm,
họ lại tự cho mình là đang trong sự chiếu rọi đầy đủ của chân lý. Do những lý
do này, họ liền đem chân lý kiên cố nhất không thể phá nổi xem thành hết sức
hoang đường, đem hạnh phúc lớn nhất của chúng ta xem thành không đáng kể, đem
quyền lợi chủ yếu của chúng ta xem thành vừa không quan trọng vừa không có giá
trị.
Ngược lại, họ lại tuyên dương những cái giả dối, khen ngợi những
cái xấu nhất, ca tụng những cái bỉ ổi nhất, bất chấp sự chợt hiện của trí tuệ,
cười chê những cái họ thu được dễ dàng nhất. Do họ ngu xuẩn quá mức, trong một
sự việc người có tài đức đánh giá là vô vị, vô dụng và không có giá trị, thì họ
lại ra sức cố gắng hết mình, lãng phí rất nhiều thời gian, bỏ ra chi phí lớn nhất.
Vì thế, trước tiên phải nhận rõ tất cả mọi tội ác của hành vi hung bạo
và độc hại của bốn nguyên nhân như uy quyền, tập quán, thành
kiến và khoác lác, lên án chúng, đồng thời gạt bỏ hẳn chúng ra khỏi việc khảo
sát của khoa học. Bởi vì mọi chỗ mà uy quyền, tập quán và thành kiến chiếm vị
trí thống trị, sẽ không có ảnh hưởng của lý tính, không có phán đoán thẳng thắn,
không có ràng buộc của pháp luật, tôn giáo không có địa vị, mệnh lệnh của tự
nhiên mất hiệu lực, bộ mặt của sự vật thay đổi, trật tự của chúng hỗn loạn, tội
ác lưu hành, đạo đức biệt tăm biệt tích, giả dối thống trị, chân lý thì bị than
thở đổ ngã".
Những ý kiến này của Bacon, chẳng những đã vạch ra nguy hại của
vô tri vô thức đối với cuộc sống con người và trật tự xã hội, ông còn phơi bày
bộ mặt đáng thương, đáng than đáng ghét của kẻ tri thức giả dối.
Từ đó ta thấy, tri và thức đúng đắn có thể mang lại hạnh phúc
cho con người, còn tri và thức sai lầm chỉ có thể mang lại tai nạn cho đời người,
mà còn có thể phá hoại trật tự xã hội và sự ổn định đạo đức.
Từ đó, Bacon đã nêu ra một khẩu hiệu nổi tiếng làm chẤn Động
thế giới: Tri thức là sức mạnh! Ông nói: "Tri thức của con người và sức mạnh
của con người hợp làm một, bởi vì chỉ cần không biết nguyên nhân thì không thể
sinh ra kết quả. Muốn mệnh lệnh tự nhiên thì phải phục tùng tự nhiên. Cái làm
nguyên nhân trong suy nghĩ chính là cái làm quy tắc trong hành động". Đời
người muốn giành được hạnh phúc, mấu chốt phải nắm chắc việc làm thay đổi trạng
thái của môi trường (hoàn cảnh) sống, làm cho nó phù hợp với mục đích và yêu cầu
cuộc sống của mình, mà muốn làm được điều này, phải tìm hiểu và nắm chắc những
nguyên nhân căn bản của việc phát sinh và phát triển của thế giới bên ngoài là
con đường duy nhất. Do đó, tri thức tạo nên tiền đề đầu tiên của người ta muốn
giành được hạnh phúc đời người.
Bacon tiếp tục suy luận nói: "Mục đích khoa học, chân
chính và hợp lý là ở chỗ đem lại hạnh phúc cho cuộc sống của loài người, dùng
những phát minh và của cải mới làm phong phú cuộc sống của loài người... Khoa học
tự nhiên chỉ có một mục tiêu, đó chính là xây dựng và mở rộng một cách củng cố
hơn sự thống trị của con người đối với thiên nhiên. Sự thống trị này của con
người đối với thiên nhiên chỉ có thể dựa vào kỹ thuật và khoa học mới có thể thực
hiện được. Bởi vì con người có bao nhiêu tri thức sẽ có bấy nhiêu sức mạnh, tri
thức của họ và sức mạnh của họ là ngang nhau, chỉ có những người lắng nghe tiếng
gọi của thiên nhiên (làm cho lý trí của mình phục tùng thiên nhiên) mới có thể
thống trị được thiên nhiên).
Con người giành được đủ mọi thứ tri, sinh ra thức có tính
sáng tạo mới, thật ra không dừng lại ở đây, con người không phải vì có tri thức
mà cố gắng giành tri thức, Bacon nói rất đúng, con người vì giành được đời sống
hạnh phúc mới cố gắng đi sâu nghiên cứu tri thức. Cho nên khoa học và tri thức
đều phục vụ mục tiêu quan trọng nhất này - đời người hạnh phúc. Khi người ta cố
gắng quan sát tỉ mỉ thiên nhiên, đi sâu phân tích và suy nghĩ về xã hội, giành
được tri và hình thành thức, liền dần dần tạo nên tri thức có hệ thống, đây
chính là khoa học. Người ta đã nắm được một phần khoa học thì nhận được một phần
sức mạnh làm thay đổi thế giới, nắm được tri thức càng nhiều, thì có được năng
lực cải tạo môi trường con người sinh tồn trong đó càng lớn. Cho nên tri thức
là sức mạnh, trên thực tế chính là nói, tri thức là phương pháp, con đường và động
lực của chúng ta cải tạo môi trường sống để đạt được đời người hạnh phúc hơn.
Người ta sinh ra ở đời, không thể không đi mưu cầu hạnh phúc,
vì vậy người ta sẽ phải cố gắng giành lấy tri để sinh ra thức, nắm chắc khoa học
và tri thức mới có thể thật sự thực hiện được mục tiêu hạnh phúc của đời người.
Đây chính là lời chỉ bảo chân thành của Bacon đối với người đời.
Mùa xuân năm 1626, thời tiết của London lạnh khác thường. Một
hôm, khi Bacon đi xe qua Haicaitơ của miền Bắc, đột nhiên ông nghĩ đến lợi dụng
thời tiết lạnh này làm một thí nghiệm đông lạnh chống thối rữa. Ông lập tức dặn
người lái xe đến chợ mua một con gà, sau khi giết mổ đem nhét tuyết vào trong bụng
gà, lại đứng trong gió tuyết quan sát thí nghiệm đông lạnh, thời gian kéo dài
nên.
Phân tích trạng thái sinh tồn
Trạng thái sinh tồn của con người vừa có nhân tố lựa chọn
mang tính chủ quan, lại chịu quyết định của hoàn cảnh và điều kiện khách quan.
Nếu người ta tự nguyện chọn đi vào chốn rừng sâu tu luyện, quy đến cửa Phật từ
đó trở thành cuộc đời của tín đồ theo Phật. Có người bẩm tính thích rượu, lấy
cái say làm trạng thái đẹp nhất của đời người, từ đó trở thành cuộc đời của đệ
tử Lưu Linh. Có người bẩm tính thích sông núi mong muốn không bị ràng buộc, tự
do tự tại một đời trở thành cuộc đời thích tự nhiên khoáng đạt.
Lại có người chỉ muốn sống trong thư phòng, đi sâu nghiên cứu
những vấn đề học thuật khiến người ta phải đau đầu, khiến họ trở thành cuộc đời
học giả. Có một số người thì lấy việc dựng xây sự nghiệp làm mục tiêu có giá trị
nhất của đời người, thế là rèn luyện ý chí của con người, bền gan vững chí trở
thành cuộc đời vì sự nghiệp v.v... Điều đáng chú ý là trạng thái của đời người,
mỗi cái có giá trị tồn tại riêng có thể lưu truyền lâu dài, không thể dùng một
tiêu chuẩn giá trị nào đó để phán xét cao thấp. Đời người vừa có những chỗ giống
nhau, cũng có tập tính và sở thích khác nhau, mỗi người đều nên theo sở thích của
mình để chọn lựa và theo đuổi trạng thái đời người nhất định. Nhưng không nên
quên rằng, trong đó còn cần phải suy nghĩ tính khả năng, tức là điều kiện khách
quan thực hiện trạng thái đời người nào đó, như hoàn cảnh, gia đình, được tiếp
nhận giáo dục và thời kỳ lịch sử đang sống v.v...
Chỉ có trạng thái đời người vừa phù hợp sở thích bẩm sinh của
người ta, lại có điều kiện thực hiện khách quan, mới có thể đem lại cho người
ta hạnh phúc. Còn trạng thái đời người làm xoay chuyển sở thích bẩm sinh của
con người mà lại không có khả năng thực hiện thì chỉ có thể mang lại đau khổ
cho người ta.
Ngoài trạng thái đời người xuyên suốt cả một đời ra, trong cuộc
sống hàng ngày người ta còn sẽ gặp nhiều vấn đề của trạng thái sinh tồn nho nhỏ
như thói xấu, tính cách, thể diện, điềm báo, nỗi nhục, keo kiệt, tính lười biếng,
lạnh nhạt, khoe khoang, cảnh ngộ, buồn tẻ v.v..., chúng đều là những vấn đề
đáng được coi trọng cao độ trong trạng thái đời người. Bất kể là bản thân bạn
có những trạng thái đời người này hay là người khác cũng thế, đều cần tốn một
chút công sức để làm rõ cái lợi cái hại của nó, đồng thời tìm được cách cải thiện.
1. Phân tích "thói xấu"
"Thói xấu" hay còn gọi là tập quán không tốt. Người
ta sống ở trên đời, suy nghĩ lâu dài cùng một việc, làm cùng một việc thời gian
dài, liền trở thành thói quen tự nhiên, thường suy nghĩ và hành động một cách
trùng lập. Đây vốn là bẩm tính của con người, không có gì đáng trách. Nhưng có
một số người, hiện lên trong đầu phần nhiều là những ý nghĩ không tốt, còn làm
thì luôn là những việc xấu, cũng trở thành thói quen tự nhiên, hơn thế thoái
thác trách nhiệm nói nào là thói xấu khó sửa.
Một đời người nếu có thói xấu, thế thì không những sẽ là tai
họa của cuộc đời mình, càng tạo nên những đau khổ và không yên cho người khác
và xã hội. Bởi vì những điều nghĩ và làm của người có thói xấu có thể uy hiếp đến
sự sinh tồn của người khác và sự yên ổn của xã hội, mà loại ảnh hưởng xấu này
còn vì là thói xấu nên kéo dài liên tục, trạng thái này thực là làm cho người
ta lo lắng.
Trong sách Mạnh Tử. Đằng Văn công hạ đã ghi chép một câu chuyện
như sau: Có một tên trộm chuyên bắt trộm gà trong hàng xóm, mỗi ngày bắt trộm một
con, không ăn trộm thì chân tay ngứa ngáy, từng ngồi không yên. Có một người tốt
bụng khuyên anh ta: "Đây không phải là việc làm của người chính nhân quân
tử, không nên lại bắt trộm nữa nhé!" Tên bắt trộm gà cúi đầu suy nghĩ một
lát, cảm thấy lời nói đó có lý, là nên sửa chữa, liền đáp ứng nói: "Được,
tôi muốn ăn năn hối lỗi, nhưng tôi không ăn trộm lại không được bởi vì tôi có
tính nghiện ăn trộm gà. Thôi thì như thế này nhé, trước đây tôi mỗi ngày ăn trộm
một con gà, từ nay trở đi tôi mỗi tháng ăn trộm một con, đến sang năm thì có thể
không ăn trộm nữa".
Mạnh Tử than thở rằng: Người này rõ ràng biết ăn trộm gà là
việc bất nghĩa, thì phải nhanh chóng sửa chữa, vì sao phải đợi đến sang năm?
Lời than thở của Mạnh Tử "Vì sao phải đợi đến sang
năm", trên thực tế là cảm khái nuông chiều thói xấu của mình đối với tên
ăn trộm gà này. Cái tên kẻ trộm này ăn trộm gà đã thành mắc nghiện, không ăn trộm
thì tay chân ngứa ngáy, biết rõ ăn trộm gà của hàng xóm là việc không có đạo đức,
nhưng vẫn không nén được. Thế là tự mình thỏa hiệp với việc đó, hy vọng dùng
cách giảm bớt số lượng ăn trộm gà để làm lấy lệ, mong được sự tha thứ và đồng
tình của mọi người đối với thói xấu của nó. Ai mà không biết, cái việc ăn trộm
xấu này là đã quyết định tính chất, còn số lượng ăn trộm nhiều ít, không thể
làm thay đổi sự thật ăn trộm. Đây là sự dấm dớ của tên ăn trộm gà, cũng có thể
xem là tai hại của thói xấu đối với đời người.
Người ta sinh ra ở đời, nên học thói hay, bồi dưỡng các tập
quán tốt như hiểu lý lẽ, cần cù, lòng yêu thích, cẩn thận, để làm cho sự sinh tồn
của mình càng thêm thông suốt, đời người càng thêm hạnh phúc.
Nhưng người ta sống trong xã hội hiện thực, chịu ảnh hưởng của
mọi sự vật và hoàn cảnh, lại bị dục vọng mê hoặc có lẽ đã làm một số việc không
tốt, lâu ngày bèn tạo thành thói xấu nào đó, hoặc nhiễm phải thói xấu nào đó.
Lúc đó, người ta cần phải nhìn thẳng vào sự thực này, đừng nên giấu giếm nó, phải
dũng cảm để cho chân tướng thói xấu của mình phơi trần ra trên đời, lấy đó làm
bước đi đầu tiên sửa chữa thói xấu. Sau đó, phải suy nghĩ sâu sắc phải thấm nhuần
rằng thói xấu mang lại nguy hiểm cho đường đời của mình, phải khiêm tốn lắng
nghe, phải thành khẩn tiếp thu lời khiển trách và lời khuyên nhủ của người khác
và xã hội. Thật sự tận đáy lòng mình hiểu rõ rằng thói xấu không có mảy may ích
lợi nào đối với mình, đối với người khác và đối với xã hội, trái lại hãm hại đời
mình vào trong cảnh nguy hiểm, hãm hại người khác và xã hội vào trong đau khổ
và không ổn định. Đã vậy, sao không ăn năn hối lỗi? Hơn thế phải ngay tức khắc,
hoàn toàn và sạch sành sanh cắt bỏ thói xấu, làm cho nó vĩnh viễn không tái hiện
trong cuộc sống và quá trình cuộc đời của mình, như thế mới là thái độ nhân
sinh đúng đắn, điều khiển cuộc đời hợp lý, vừa có thể mang lại hạnh phúc cho xã
hội và công chúng, lại có thể làm cho con đường đời của mình thông tới hạnh
phúc và êm đềm.
2. Phân tích "tính cách"
Là người đều có một số đặc trưng chung vốn có: như sử dụng ký
hiệu ngôn ngữ trao đổi tình cảm và tư tưởng. Có tư duy lý tính và thế giới tinh
thần để tiếp nhận, so sánh và suy luận những tin tức thu nhận ở cơ quan cảm
giác. Lại như phải ăn, uống, bài tiết, chơi, vui đều phải sinh trưởng phát dục,
cưới hỏi, tang lễ v.v... và v.v... Nhưng không nên quên rằng, là người còn có tập
tính riêng của mình, mà mỗi loại người lại biểu hiện nên đặc tính chung trong
phạm vi nhất định nào đó, cái đó gọi là tính cách.
Nhà đại triết học Đức đã từng tạo ra cuộc cách mạng triết học
thế giới, Kant, tính khí rất kỳ quặc, ông một đời chưa từng kết hôn, hầu như suốt
cả đời chưa từng rời khỏi thị trấn Konigsberg thuộc Preussen, sống cuộc sống kiểu
ba điểm từ thư phòng, bục giảng đến giường ngủ đơn điệu tẻ nhạt. Điều duy nhất
đáng được nhắc đến là ông trước nay không ăn bữa ăn trưa một mình, luôn mời bạn
bè cùng ăn trưa. Sau đó là một năm bốn mùa dù mưa gió cũng không hề cản trở ông
đi dạo trên con đường nhỏ thông đến cửa ải Fetliê thành lũy của Quốc vương rất
đúng giờ. Trong đó phải qua một con đường nhỏ râm mát của cánh rừng cây bồ đề
nhỏ, Kant vừa xuất hiện khi đi dạo, lúc đó ắt sẽ là ba giờ rưỡi chiều, đến nỗi
cư dân vùng lân cận đồng loạt lấy đó để chuẩn lại đồng hồ của họ.
Cuộc sống này của nhà triết học, người ngoài nhìn vào thấy
khô khan tẻ nhạt đến cực độ, bản thân Kant lại có một số tính kỳ cục. Nhà thơ
vĩ đại Đức Heinrich Heine nói một cách khó hiểu rằng: Lịch sử cuộc sống của
Kant giản đơn đến mức không thể miêu tả nổi, có thể nói ông vừa không có cuộc sống,
vừa không có lịch sử, một mình sống những ngày tháng trừu tượng.
Nói không có cuộc sống, không phải là nói ông không sinh hoạt,
mà là nói trong cuộc sống của Kant không có bất cứ thay đổi và nội dung phong
phú nào. Nói không có lịch sử, không phải nói sinh mệnh của ông không có quá
trình liên tục, mà là nói cuộc sống của ông đều rập theo một khuôn khổ, thiếu
phát triển biến đổi trước sau nối tiếp nhau. Kant một đời đắm chìm trong vương
quốc triết học trừu tượng để ngao du, liền kéo theo cả cuộc sống cũng bay mất tất
cả tính phong phú, biến thành trừu tượng hóa như Heine đã nói.
Kant đối với cuộc sống của mình trái lại là có những ý nghĩ
ngược lại tương đối sâu sắc, ông cho rằng thái độ sống và điều khiển cuộc sống
của mình là nguyên nhân của tính cách.
Ông chỉ rõ, người ta về tính cách có thể chia làm ba loại biểu
hiện trong quá trình đời người, nhất là về phương diện đối xử với người sẽ có nhiều
cái khác nhau. Loại người thứ nhất thuộc dạng đảm trấp, tính cách của họ thường
thường rất bộp chộp, do vậy làm trở ngại sự xác lập và phát triển quan hệ hữu
nghị với người khác. Loại người thứ hai là dạng đa huyết, tính cách của họ
không giống người thuộc dạng đảm trấp, hiện ra là hoạt bát, nhiệt tình, rất dễ
làm quen và kết bạn với người khác. Loại người thứ ba là dạng hậm hực, tính
cách của họ phần nhiều là hướng nội, không tài nào kết giao được với nhiều bạn,
nhưng những người đã trở thành bạn sẽ đều là những người tốt.
Kant thừa nhận mình thì thuộc người dạng hậm hực. Ông nói
không nên có thành kiến hoặc thiên kiến đối với người thuộc dạng hậm hực, cho rằng
người dạng hậm hực không biết thú vui trong cuộc sống, luôn sa vào trong buồn
phiền. Thực ra người dạng hậm hực là khi bị ảnh hưởng ngoại lai và nội tâm dễ
co cụm về thế giới tâm linh của mình hơn những loại người khác, mà còn mang tâm
lý sầu muộn nào đó. Trên thực tế, người thuộc dạng hậm hực thường có niềm tin
cao cả nào đó, hưởng thụ đời người mà họ theo đuổi nói chung đều là nghiêm túc
mà không phóng đãng. Họ phần nhiều giúp người khác làm điều tốt, kiên trinh
không hề thay đổi, căm tức phản đối bất kỳ mọi việc không công bằng nào. Người
thuộc dạng hậm hực phần nhiều có ý kiến riêng, không bị thiên kiến và ý kiến
người khác điều khiển và lôi kéo. Họ trầm lặng ít nói, cho nên có thể giữ được
những điều bí ẩn của mình và người khác, đồng thời rất căm ghét giả dối và bộ
điệu. Họ giữ được vẻ tôn nghiêm cao thượng của loài người, không thể cũng không
khoan dung bất cứ sự khom lưng uốn gối nào, một lòng theo đuổi tự do và tôn
nghiêm của đời người. Người thuộc dạng hậm hực còn có một đặc trưng nổi bật là
họ đối với ai cũng đều không thỏa mãn, ngay cả đối với chính mình cũng không thỏa
mãn, họ giống như một quan tòa hà khắc đối với mình và người khác.
Nhưng, Kant viết: "Phong cách của người thuộc dạng hậm hực
một khi phát triển theo tính cách không ngay thẳng quá trớn, thì kết quả của nó
sẽ là tai họa: nghiêm túc chuyển hóa thành bi quan, thành kính biến thành nói
năng ngông cuồng, đối với việc theo đuổi tự do của đời người sa vào trong phấn
chấn quá mức, bất cứ sự lăng nhục và không công bằng nào của thế gian thường có
thể kích thích họ đứng dậy báo thù mà không để ý đến tính mạng. Nhưng người thuộc
dạng hậm hực biết tìm tình bạn chân thành, bởi vì tình bạn và hậm hực là cao
thượng. Việc nhớ lại đối với tình bạn đã mất cũng là vô cùng thiêng liêng đối với
người dạng hậm hực.
Kant quan sát người, phân tích đời người có thể gọi là rất
sâu sắc rất nghiêm khắc và cẩn thận. Cách nhìn nhận của ông đối với tính cách
con người đã nói rõ tính cách không thể tách rời khỏi con người, đã là người
thì phải có đặc tính riêng, có thể thể hiện rõ tập tính và tính cách nào đó. Vả
lại, bất kể bạn là người thuộc dạng đảm trấp, dạng đa huyết hay dạng hậm hực
cũng thế, đều có mặt tốt của nó, cũng có mặt dễ mang lại hậu quả đáng buồn của
đời người của nó. Lúc này, nhận rõ mình thuộc dạng người nào là vô cùng quan trọng,
bởi vì điều đó có lợi cho bạn nhận rõ xu thế tốt xấu và đặc trưng tính cách của
mình, từ đó kìm chế, thay đổi vượt qua những khiếm khuyết về tính cách của
mình, để làm cho đường đời thông suốt và hạnh phúc. Nếu như không hề hay biết một
tí gì đối với phong cách, tính cách của mình, sẽ có thể buông thả, làm lộ rõ và
đắm chìm vào trong những nhược điểm về tính cách của mình, điều này ắt sẽ khiến
cho đường đời của mình gian nan vất vả vô cùng, tai họa sẽ ùn ùn kéo tới. Do đó
người ta sinh ra ở đời không thể không cẩn thận đối xử với nó.
3. Phân tích "thể diện"
Thể diện còn gọi là sĩ diện. Theo người ta nói sĩ diện là đặc
trưng nổi bật của người Trung Quốc. Vậy thể diện và sĩ diện là gì? Nó không phải
là khuôn mặt và da dẻ của mặt, mà là chỉ một trạng thái sinh tồn đặc biệt của một
người do địa vị, uy tín, thanh danh và tín nhiệm tạo nên trước mặt gia đình và
công chúng xã hội, thường biểu hiện thành mức độ được tôn kính, ngưỡng mộ, ủng
hộ và yêu mến, sự rạng rỡ của một người ra sao.
Người Trung Quốc được xem là sống chết đều cần sĩ diện, đều
phải giữ thể diện. Thường thường vì về sĩ diện được yên lòng, hoặc về thể diện
rất rạng rỡ, mà không tiếc tốn phí rất nhiều tiền của và tinh lực, có một số
người lại vì thế mà xông vào chỗ nguy hiểm và khuynh gia bại sản.
Người ta sống trên đời, cố nhiên nên theo đuổi sự tôn nghiêm
và địa vị xã hội của mình, cố nhiên nên làm cho công chúng tôn trọng mình, cả đến
có thể hưởng thụ một chút vẻ rạng rỡ và kiêu hãnh sinh ra do sự hâm mộ của công
chúng, một cảm giác thỏa mãn và tự hào. Nhưng nếu vì thế mà lại tiếp tục phát
triển để đạt được sự yên lòng về sĩ diện, được mát mặt về thể diện, liền không
tiếc tất cả, thậm chí người thì chả mẽ lại khỏe làm dáng, thế thì sẽ làm cho cuộc
đời của mình biến thành trạng thái bọt, con người sẽ cảm thấy sống quá mệt quá
khổ, danh dự hão huyền ở bên ngoài đã tổn hao đời người quá nhiều tài nguyên.
Người ta cuối cùng sẽ phát hiện. Ta đã để lại cho mình cái gì? Ta có còn là ta
nữa không? Cuộc sống của ta cuối cùng là cuộc sống của ai?
Các vấn đề cứ như vậy, người thích sĩ diện, người cầu mong rạng
rỡ về thể diện nên tự hỏi mình nhiều hơn một chút.
Nước Tề thời xưa có một người, cưới một vợ cả và một vợ lẽ.
Ông ta hàng ngày đi ra ngoài đều ăn no rượu say bí tỉ mới trở về. Vợ ông hỏi
ông những người cùng ngồi uống rượu với ông đều là những người như thế nào? Ông
ta ưỡn ngực tự hào nói: đều là những người có tiền có thế lực, những người giàu
sang lớn.
Người vợ nghe xong trước tiên rất vui, sau đó tỏ ra nghi ngờ,
lặng lẽ nói với người vợ lẽ: "Ông chồng của chúng ta luôn nói cùng ngồi uống
rượu với những người có quyền thế, nhưng tôi từ trước đến nay chưa bao giờ nhìn
thấy người giàu sang nào đến nhà chúng ta. Tôi nghĩ là phải đi xem xem ông ấy rốt
cuộc là đi đến đâu?".
Sáng sớm hôm sau, bà ta quả thực lén lút đi theo sau ông chồng,
nhưng thấy ông ta đi khắp cả trong thành, không có một ai muốn đứng nói chuyện
với ông ta. Bất ngờ đã xuất hiện ở cổng thành, đi thẳng tới nghĩa địa ngoại
thành về phía đông. Người vợ nhìn thấy người chồng ghé đến trước mặt người tảo
mộ, ra sức xin những thứ cơm thừa canh cặn còn sót lại sau khi cúng người chết;
ăn chưa đủ lại nhìn đông nhìn tây lại tiếp tục xin ăn. Té ra đây chính là cách
mà ông ta ăn no uống say.
Người vợ ông ta trông thấy không chịu nổi, cúi đầu chạy về
nhà, nói với người vợ lẽ một cách căm giận: "Chồng ta là một người chúng
ta một lòng ngưỡng vọng gửi gắm suốt một đời, nhưng ông ấy đã không phải như thế,
thực tế là hết sức bỉ ổi!" Hai người cùng nói hồi lâu, ôm đầu gào khóc
trong sân và bắt đầu chửi rủa người chồng.
Đúng lúc đó, người chồng lảo đảo đi về nhà, mặt mày đỏ bừng,
trên môi nhờn ánh mỡ. Ông ta không biết tấn kịch của mình đã bị vạch trần, vẫn
lớn tiếng quát tháo, tỏ vẻ oai phong với hai người phụ nữ kia, kể ra hôm nay lại
cùng với những người quyền quý nào, hào phú nào ăn trong một tiệm rượu lớn bày
biện ra bao nhiêu thứ.
Hai người vợ cả và vợ hai nhìn nhau, thờ ơ không thèm nói đến.
Người chồng này là một người thì chả mẽ lại khỏe làm dáng điển
hình. Nhà ông nghèo khó không đủ sức duy trì cuộc sống xa xỉ mà mình thèm muốn.
Địa vị ông thấp hèn, không có cách gì đạt được địa vị cao quý mà mình ước mong.
Nhưng ông ta lại hoàn toàn có thừa ham muốn theo đuổi đối với sĩ diện và làm rạng
rỡ thể diện, vì vậy ở ngoài thì lấy việc xin ăn để sống, về nhà lại khoe khoang
với hai vợ cùng ngồi ăn những sơn hào hải vị với những người giàu sang. Điều
đáng buồn là, ông ta thậm chí chẳng có cách gì nhận được sự tôn trọng cần có
trong công chúng, càng không cần phải nói vẻ phong quang về sĩ diện nữa, bởi vì
những cách ăn ở của ông đều được mọi người biết cả, đành phải phô trương tí
chút trước mặt hai vợ không bước ra khỏi cổng. Đương nhiên sau khi chân tướng tấn
kịch của ông bị phơi trần, cuộc đời ông sa vào cảnh lúng túng khó xử không tài
nào thoát ra được. Đây chính là đạo lý chết cần sĩ diện sống chịu tội, phô
trương thể diện thực tế rỗng tuếch.
Người ta sống ở đời, mặc dù cần có sự tôn nghiêm của mình,
mong muốn được sự thừa nhận và tôn trọng của công chúng nhất định, nhưng quyết
không thể vượt ra khỏi trạng thái đời người chân thực, theo đuổi những cái phô
trương về sĩ diện và thể diện hão huyền, vì nó sẽ làm trở ngại người ta thực hiện
những cố gắng thiết thực để thay đổi trạng thái đời người không lợi. Ngược lại
còn có thể làm cho người ta sa vào trong trạng thái cảm giác thỏa mãn và tự say
sưa giả dối, không suy nghĩ không hành động, phó mặc tình cảnh đời người trầm
trọng thêm, lâu ngày tích lại ắt sẽ nổ bùng lên, lúc này người ta sẽ đành tự nếm
quả đắng.
Khi sự sinh tồn của con người phát sinh nguy cơ, còn nói gì đến
việc phô trương về sĩ diện và thể diện nữa?
4. Phân tích "điềm báo"
Điềm báo là đầu mối, việc vừa chớm nở, trạng thái dấu hiệu.
Có cách nói của cái gọi là điềm chẳng lành là chỉ đầu mối, việc vừa chớm nở hoặc
trạng thái dấu hiệu của sự phát triển không tốt, sự biến đổi không tốt, trạng
thái không tốt sắp sửa sinh ra.
Nhiều người đem tính liên hệ với nhau giữa các sự vật mở rộng
tới vô hạn, khiến cho giữa hai sự kiện không có liên hệ mang tính tất nhiên
cũng có quan hệ nhân quả, như cảm thấy quạ kêu trước mặt thì vận xấu sẽ đến
ngay; mi mắt giật không theo quy tắc, sẽ dự báo việc xấu sắp đến v.v... Đương
nhiên còn có cách nói của điềm lành: chim khách hót trên đầu, người sẽ tinh thần
sảng khoái, cảm thấy ắt có việc tốt việc mừng đến, nhìn thấy hoặc sử dụng số 8
liền cảm thấy có thể mang lại "phát to", không chỉ là phát tài, phát
quan, gia đình cũng phát lớn v.v.... và v.v...
Không nên coi thường việc trọng thị của người ta đối với điềm
báo, trên thực tế nó sản sinh tác dụng dẫn hướng rất lớn đối với suy nghĩ và
hành vi của đời người. Như người ta đang chuẩn bị làm một việc gì đó, bỗng
nhiên quan tài chắn đường liền cảm thấy hôm nay xúi quẩy rất nặng, việc đó cũng
sẽ không làm nữa. Đôi khi người ta không chuẩn bị làm việc gì đó, nhưng sáng sớm
mai tỉnh giấc dậy, ánh mặt trời chói lọi, chim khách hót trước mặt, bỗng nhiên
cảm thấy điềm báo rất tốt, liền lập tức làm ngay việc đó.
Từ đó ta thấy điềm báo đối với cuộc sống của người Trung Quốc
sinh ra ảnh hưởng to lớn. Nhưng cần phải hiểu rõ ràng rằng, người hiện đại
không thể giống người xưa, đem một số việc không hề có liên quan trong tự
nhiên, xã hội và đời người xem là có liên hệ tất nhiên nhân quả, mà lại thờ ơ
không hay biết đối với một số việc có liên quan, do vậy khiến cho đời của mình
sa vào trong bầu không khí thần bí, dẫn đến thao tác đời người sai lầm, vì thế
cần phải học tập người xưa.
Người nước Tề thời xưa có một tập tục lưu truyền rất rộng rãi
là coi hổ và trăn là con vật không tốt, nếu gặp nó liền cho rằng sẽ có thể gặp
không may.
Có một lần, Tề Cảnh công phi ngựa đi săn trong rừng núi, lên
núi thì gặp hổ, xuống đến đầm thì liền gặp trăn, đành hậm hực quay về. Trong
cung điện Cảnh công triệu Tể tướng Yến Tử đến, nói: "Hôm nay quả nhân đi
săn, lên núi thì gặp hổ, xuống đầm thì lại gặp trăn, e rằng đây là điềm chẳng
lành của nước Tề chúng ta?".
Yến Tử trầm tĩnh trả lời: "Một quốc gia đích thực có ba
loại điềm không lành, nhưng những điều đại vương đã gặp thì không nằm trong đó.
Ba điều không lành của một nước là: có nhân tài hiền minh mà đại vương không biết,
đó là điều không lành thứ nhất. Đã biết mà lại không trọng dụng, đó là điều
không lành thứ hai. Dùng rồi mà lại không tín nhiệm họ, đó là điều không lành
thứ ba. Quốc gia chẳng lành đều nằm trong đó cả! Hôm nay đại vương lên núi gặp
hổ, bởi vì trên núi chính là sào huyệt của hổ. Đại vương xuống đầm gặp trăn, bởi
vì đầm nước chính là nơi cư trú của trăn, việc này làm sao có liên quan đến vận
nước? Làm sao có thể nói là điềm không lành của nước Tề được?".
Cách giải thích của Yến Tử có thể gọi là những lời sáng suốt
chí lý. Theo ông, điềm không lành của quốc gia chỉ ở chỗ hiền mà không biết, biết
mà không dùng và dùng mà không tín nhiệm, cũng chính là nói sự quản lý đất nước
được an ninh dài lâu, sự giàu có tôn nghiêm của một quốc gia chủ yếu dựa vào việc
chọn và đề bạt nhân tài và sử dụng hợp lý, xử trí chúng có thỏa đáng hay không
mới là điềm báo của sự phát triển đất nước. Còn về việc lên núi gặp hổ, xuống đầm
gặp trăn thì không có liên quan gì với vận mệnh của quốc gia, bởi núi và đầm là
nơi cư trú của nó, đi đến đó đương nhiên dễ gặp nó, việc đó không thể xem là điềm
không lành của quốc gia. Tiếp thu những lời bình luận này của Yến Tử, các bậc
quân vương không thể sinh ra những ý nghĩ kỳ lạ và làm những việc quái gở nữa,
mà theo những cách đúng đắn để làm kịp thời tuyển chọn và đề bạt, sử dụng hợp
lý những người hiền minh để quản lý đất nước.
Người hiện đại có thể nhận được những gợi ý sâu sắc từ trong
lời nói của Yến Tử. Chúng ta tuyệt đối không nên đem những biến đổi của tự
nhiên và những hoạt động của sinh vật và động vật liên hệ lại với trạng thái đời
người một cách vô lý, đồng thời dùng trạng thái ngẫu nhiên bột phát của người
trước để chỉ đạo hành vi đời người của mình, việc đó ắt sẽ hãm mình vào trong bầu
không khí mê tín, mà còn tạo nên tổn thất to lớn đối với đời người.
Điều chúng ta cần không phải là sợ thần thánh đối với mọi cái
gọi là điềm chẳng lành, mà là phải tích cực vận dụng lý tính sâu sắc để hiểu rõ
mọi nguyên nhân đích thực của trạng thái cuộc đời, dùng thao tác lý tính tinh
thần đi trước đạt được kết quả đời người tất nhiên dẫn đến do dự đoán, suy luận
và đánh giá hành động nào đó của cuộc đời một cách khoa học, lại từ nhận thức
có tính chất dự kiến đối với kết quả để điều chỉnh hành vi của đời người trước
mắt, khiến nó hợp với ý muốn của mình. Đó tức là dùng dự kiến lý tính của đời
người đổi chỗ những điềm chẳng lành hão huyền, như thế mới có thể khiến người
ta tránh làm những hành vi quái dị không thể hiểu nổi, tốn phí tài nguyên một
cách vô ích và để lỡ mất thời cơ. Đương nhiên, cuối cùng còn có thể tránh được
nhiều tai nạn của đời người, tìm được thuận lợi của sự sinh tồn và hạnh phúc đời
người của mình.
"Nhục" là bị người khác làm nhục, nó thường không
phải là chỉ người ta phải chịu cái khổ về da thịt, mà là phải chịu vết thương về
tinh thần, về tâm lý. Người ta sống ở trên đời, giành được lợi ích vật chất cố
nhiên rất quan trọng, nhưng không thể bỏ qua sự thoải mái về tâm lý, về tinh thần.
Cho nên, có nhiều người cảm thấy con người sống chính là
giành tiếng nói. Giành tiếng nói có nghĩa là trong quá trình đời người không thể
để cho người khác bắt nạt, phải sống cho ra người, đứng thẳng lưng, tự mình đứng
ra làm một mình, từ chối, chống lại bất cứ hình thức làm nhục nhân cách nào.
Một đời người chống lại sự sỉ nhục như thế cố nhiên rất tốt,
là người luôn phải có chút khí khái anh hùng, không khuất phục trước quyền thế
ngang ngược, giữ nhân cách và chí khí của mình. Nhưng xã hội là phức tạp, tình
cảnh của đời người biến đổi khôn lường, đôi lúc nén chịu sỉ nhục nhất thời, có
thể hoàn thành sự nghiệp vĩ đại. Cho nên, chịu khổ nhục để gánh trọng trách được
người đời xem là đức tốt, thậm chí là càng tỏ khí phách anh hùng hơn người
không thể chịu nhục. Quá trình đời người của nhà quân sự, khai quốc công thần
tuyệt vời thời nhà Hán, Hàn Tín chính đã giải thích rõ điều này một cách điển
hình.
Hàn Tín do chiến công hiển hách được phong là Hoài Âm hầu,
trước kia khi ông còn là một người dân thường, nghèo khó khốn khổ lại không biết
chú ý trọng cử chỉ, lời nói và giao thiệp. Hầu như ông vừa không mong được tuyển
chọn và cất nhắc lên làm quan, lại không có năng lực đi buôn bán để sinh sống,
chỉ biết dựa vào người khác để ăn cơm thừa, bị mọi người chán ghét. Đôi lúc,
ông liên tục hàng mấy tháng ở lỳ trong nhà đình trưởng đình Nam Xương ăn cơm,
làm cho bà chủ rất ghét ông ta, lại không tiện nói ra. Thế là vào buổi sáng một
hôm, trời chưa sáng đã làm xong cơm cả nhà ngồi trên giường ăn hết cả cơm. Hàn
Tín vẫn theo thời gian ăn sáng đến, vợ đình trưởng không phần cơm cho ông. Lúc
này Hàn Tín mới biết rõ tình cảnh của mình, vô cùng bực bội, rũ áo bỏ đi, và từ
đó cũng không đến cửa nhà này nữa.
Đói khát không chịu nổi, Hàn Tín vác cần câu đến bờ sông dưới
thành Hoài Âm câu cá. Mấy bà già đang giặt bông tơ dưới sông, trong đó có một
bà già tốt bụng, thấy Hàn Tín không có cơm ăn, liền cung cấp cơm cho ông, liên
tục hơn mười ngày, ngày nào cũng như thế. Hàn Tín vô cùng cảm động, nói với bà
cụ: "Tôi sau này nhất định sẽ đền đáp cụ nhiều". Bà già bực mình nói:
"Đại trượng phu không thể mình nuôi sống mình, chẳng lẽ không xấu hổ ư? Ta
vì thương ông mà cho ông cơm ăn, chẳng lẽ là vì mong ông đền đáp ư?". Những
lời nói của bà già làm cho Hàn Tín cảm động rất nhiều.
Trong chợ bán thịt Hoài Ân có một thanh niên trước mặt mọi
người sỉ nhục Hàn Tín, chỉ vào mũi của ông ta nói: "Ngươi mặc dù thân thể
to cao, còn thích mang đao đeo kiếm, thực tế thì nhát như chuột. Ngươi nếu
không sợ chết thì dùng kiếm đâm ta, nếu sợ chết thì phải chui qua háng
ta!".
Hàn Tín ngây người ra, trong lòng giống như đánh đổ bình ngũ
vị mà không có mùi mè gì. Ông nhìn chòng chọc vào tên vô lại này rất lâu, cuối
cùng nghiến răng cúi đầu chui qua chỗ hai chân nó giạng ra, còn bò rồi đi vài
bước. Người đứng trông đầy phố đều cười ầm lên, đều cảm thấy Hàn Tín quá hèn
nhát.
Nhiều năm trôi qua, Hàn Tín tòng quân nhiều lần lập công to.
Tháng giêng năm thứ 5 đời nhà Hán, Lưu Bang phong lại cho Hàn Tín là Sở vương,
đô thành định tại Hạ Phi. Hàn Tín áo mũ tươi sáng trở về nước Sở. Trước tiên
tìm gặp bà già đã từng cho ông cơm ăn, tặng cho nghìn cân vàng. Còn về việc xuống
nhà đình trưởng đình Nam Xương chỉ thưởng cho ông ta một trăm tiền và nói:
"Anh là một kẻ tiểu nhân, làm việc tốt có đầu mà không có đuôi". Lại
triệu kiến người khiến mình chịu nhục luồn háng, đề bạt anh ta làm Trung úy của
nước Sở.
Hàn Tín nói với các quan văn võ: "Người này là một tráng
sĩ. Lúc đầu anh ta làm nhục ta. Chẳng lẽ ta không thể giết anh ta được? Nhưng giết
anh ta thì có gì đáng được ca ngợi nữa? Vì vậy ta đã nén nhịn, kết quả đã hoàn
thành được sự nghiệp như ngày nay".
Hàn Tín tuy nghèo, nhưng cũng là một chàng trai có khí phách
cương trực, việc này có thể nhìn thấy từ trong việc ông ở nhà đình trưởng bị đối
đãi không chu đáo nên rũ áo bỏ đi, cũng có thể biết từ trong việc được bà già
cho cơm ăn nên thề sẽ đền ơn. Nhưng ông lại có thể rèn luyện ý chí con người,
ghìm nén cơn tức giận lại, chịu nhục luồn háng, việc đó không phải người bình
thường có thể chịu nổi, chỉ có con người của Hàn Tín này mới có thể chịu được
nó.
Hàn Tín có khí phách mạnh mẽ vì sao có thể làm được điều này?
Ông cảm thấy mình cố nhiên có thể rút kiếm đâm tên vô lại kia, giành được sự
tán thưởng thuộc loại người có khí phách của mọi người, nhưng rốt cuộc ắt sẽ mạng
phải đền mạng, chịu hình phạt rồi chết. Cho nên ông nhẫn nhịn, luồn qua háng bị
mọi người chê cười. Từ chối sỉ nhục, cố nhiên là bậc trượng phu, thân chịu sỉ
nhục lớn vẫn có thể không làm giảm phẩm hạnh và chí hướng của một người, đó mới
là bậc trượng phu chân chính. Hàn Tín thuộc loại người sau này, do đó ông đã
tránh được hình phạt, đã làm nên công danh của mình.
Cho nên, nhục cố nhiên là không tốt, nhục đối với đời người
là một trạng thái khó mà chịu nổi, nó chà đạp lòng tự tin của con người, bóp chết
lòng tự tôn của con người, nó thậm chí có thể hủy diệt cuộc sống bình thường của
con người. Cho nên, mỗi người đều nên vùng dậy chống lại, vùng dậy từ chối.
Nhưng cũng cần phải nhìn thấy, nhục trong tình huống nhất định,
có thể rèn luyện đức hạnh của con người, kiên định ý chí của con người, đồng thời
chuyển hóa thành nguồn động lực lớn mạnh phấn đấu có triển vọng. Từ đó ta thấy,
người chịu khổ nhục gánh trọng trách càng tỏ rõ bản sắc anh hùng của họ.
6. Phân tích "keo kiệt"
Keo kiệt còn gọi là nhỏ nhen, chỉ một người đối với bất cứ vật
gì của mình đều hết sức quý trọng, cả đến trước nay chưa bao giờ muốn mất một
xu dù là tiền tài và vật chất chẳng đáng là bao cũng đều không nỡ cho người
khác, thậm chí tiêu pha bình thường cũng bị giảm đến mức thấp nhất một cách cố
ý.
Nói chung, người keo kiệt, phần nhiều xuất thân từ nghèo khó,
trải qua cố gắng gian khổ, cảnh nhà mới dần dần khá lên, hiểu được của cải đến
không phải dễ, cho nên hết sức quý trọng. Từ chỗ quý trọng sâu sắc dẫn đến giữ
gìn thắm thiết, không muốn giảm bớt hoặc nhường cho người khác tí nào. Đây còn
là loại keo kiệt bình thường.
Còn có một loại keo kiệt trở thành bệnh trạng, tiền của và vật
chất của họ nhiều đến mức không có chỗ chứa, những cái mà họ chiếm hữu vượt xa
mức mà họ và người nhà có thể tiêu phí hết, nhưng anh ta chính là nhỏ nhen, xưa
nay không muốn thả ra, để một số ra đi, mà so hơn tính thiệt, tiếp tục tham lam
vơ vét không kiềm chế nổi, và không muốn bỏ ra bất cứ giá nào, hoặc cố gắng giảm
bớt trả giá, dẫu rằng phải chịu khổ nhiều hơn nữa cũng vẫn cam lòng. Thậm chí
trước khi chết, vẫn không bao giờ quên kiếm tiền nhập hàng, hơn nữa không để
cho bất cứ ai chiếm được một tí chút tiện lợi.
Thời xưa có một người ở thôn quê, ông ta bình thường vì hết sức
keo kiệt, nên cuối cùng đã giàu to. Không bao lâu ông bị ốm nặng, thoi thóp sắp
sửa tắt thở. Nhưng ông vẫn cố gắng miễn cưỡng duy trì, chính là vì không muốn
nuốt xuống hơi thở cuối cùng này. Ông ta cầu khẩn nói với vợ rằng: "Tôi một
đời đều tiết kiệm đến mức nhỏ nhen, khổ tâm kinh doanh gom góp dành dụm từng ly
từng tí, cắt đứt mọi đi lại với họ hàng thân thuộc, cuối cùng mới được giàu có
như thế này. Sau khi tôi chết, bà có thể lột da của tôi bán cho thợ da, cắt thịt
của tôi tiêu thụ cho lò mổ, lấy xương của tôi bán cho hiệu sơn, việc này có thể
kiếm được khoản tiền lớn".
Người keo kiệt này nhất định muốn vợ ông nhận lời để làm theo
lời ông dặn xong, mới tắt thở chết. Khoảng được nửa ngày trôi qua, khi người
nhà đều đang gào khóc ầm lên, ông ta lại tỉnh lại, gọi vợ lại dặn dò thêm:
"Ngày nay thói đời thay đổi thất thường, tình người đạm bạc nhất thiết
không thể đem da, thịt, xương của tôi cho họ mua chịu!" (xem sách Quảng tiếu
phủ. Tham thân của Phùng Mộng Long, thời Minh).
Nói xong hai mắt trợn ngược, cuối cùng mệnh đã đi về suối
vàng.
Người keo kiệt này, những lời nói và hành động của ông ta rõ
ràng đã đến bước làm cho người ta sởn tóc gáy. Khi còn sống ông ta cực kỳ keo
kiệt để làm giàu. Sau khi chết còn muốn người nhà lột da, cắt thịt và lấy xương
ông bán cho người khác để kiếm tiền. Điều không yên tâm, còn muốn tỉnh lại để
yêu cầu người nhà nhất thiết đừng bán chịu cho người khác - sợ không kiếm được
tiền, đây thật sự là một con quỷ keo kiệt rất sinh động, rất thần tình.
Có lẽ đây chỉ là một chuyện văn học, tính cường điệu rất lớn,
nhưng đối với những người có thái độ keo kiệt sống một đời cũng chẳng khác nào
như một đòn phủ đầu cảnh tỉnh.
Người keo kiệt chỉ chăm chú đem của cải của thế gian chiếm
làm của mình, rất mong muốn lấy tất cả của cải trong thiên hạ cho vào túi riêng
của mình, anh ta không hiểu hoặc không biết việc giành được vật chất chỉ vì nó
có giá trị sử dụng, việc giành được vật chất và tiền tài chỉ là vì nó có thể cải
thiện và nâng cao mức sống của con người.
Do đó đủ thấy, giá trị sử dụng của tiền tài và vật chất mới
là nguyên nhân con người sở dĩ mong cầu, còn người keo kiệt phần lớn đều chỉ
chú ý đến giá trị thu giữ của tiền tài và vật chất. Điều họ theo đuổi là nhiều
đến mấy cũng không vừa, nhiều không phải là để dùng, chỉ là nhiều để mà nhiều.
Do đó, họ giảm ăn bớt dùng, họ một tí không nhường, từng hào từng xu đều nhặt,
nhu cầu tiêu dùng ép đến mức thấp nhất, ham muốn thu lấy để cất giữ thì bành
trướng đến cao nhất. Kết quả ắt là đoạn tuyệt với họ hàng thân thiết, không có
bạn bè, ắt sẽ là một đời gian khổ, không yên ổn không có thú vui đời người, cả
đến chết không nhắm mắt, vẫn muốn chiếm lấy tiền của và hàng hóa.
Người ta sống ở trên đời, mưu cầu tiền tài và vật chất một
cách hợp lý, hợp pháp, tăng thu nhập kinh tế là không thể chê trách được, mấu
chốt là ở chỗ phải làm rõ mục đích, tức là mưu cầu tiền tài hàng hóa là vì tiêu
dùng hay là vì thỏa mãn cái thích tích tụ. Việc tiêu dùng của con người luôn là
có hạn mà tiền tài và hàng hóa lại là vật ở ngoài con người, cho nên thái độ sống
hào phóng một chút là trạng thái tâm hồn lành mạnh hơn so với keo kiệt, nó có
thể làm cho con người thật sự đi hưởng thụ thú vui đời người do tiền tài và
hàng hóa mang lại, có thể làm cho người ta có quan hệ nhân tế vui vẻ tốt đẹp,
còn có thể làm cho nhân gian tràn ngập lòng yêu thương và đầm ấm.
7. Phân tích "tính lười biếng"
Người ta, không một ai ngoại lệ đều có tính lười biếng, có
nhiều người thì rất nghiêm trọng, điều mà họ mong cầu là: Có thể giảm bớt vất vả
thì cứ cố gắng giảm bớt vất vả, có thể giảm bớt tổn thương tinh thần thì cứ cố
gắng giảm bớt tổn thương tinh thần, tốt nhất là: hãy thoải mái, thoải mái nằm
chờ, trên trời sẽ không ngừng rơi những chiếc bánh nướng nhân thịt xuống, há miệng
tiếp nhận là được. Việc này đương nhiên không thể có, họ liền miễn cưỡng đứng dậy
đi làm, nhưng điều trong lòng họ khát vọng vẫn là không vất vả mà giành được,
ít nhất cũng phải ít vất vả mà thu được nhiều.
Đây là bệnh chung mà nhiều người đều mắc, mặc dù cái mà kinh
tế học theo đuổi đích thực là dùng giá phải trả ra ít nhất nhận được lợi ích lớn
nhất. Nhưng từ góc độ đời người để xét, người ta quyết không thể vì thế mà hình
thành tính lười biếng, tính ỷ lại và thói xấu không quan tâm đến điều gì.
Người xưa thường than rằng sự giàu sang của các bậc công
khanh không đủ để truyền được ba đời, điều muốn nói là con cháu họ vì có chỗ dựa
của quyền thế và cơ sở của của cải, liền ỷ lại vào nó không nghĩ tiến lên,
không cầu mong phát triển, từng người một trở nên lười biếng, dần dần mất đi bản
lĩnh tìm cách sống, cũng không có mục tiêu phấn đấu cao xa của đời người, ngày
tháng trôi qua tất nhiên làm cho họ bị xã hội đào thải.
Do vậy, tính lười biếng của con người sinh ra, nói chung bắt
nguồn từ hoàn cảnh và điều kiện tương đối tốt, nhất là tâm lý tự thỏa mãn cộng
với tâm trạng hoảng sợ đối với gian khổ của đời người khiến cho người ta không
nghĩ cách tiến thủ chỉ cầu mong gặp sao hay vậy, từ lười biếng đến trụy lạc tạo
nên tổn thất rất lớn cho cuộc đời của mình.
Lục Quy Mông thời Đường trong sách Lạp trạch tùng thư kể một
chuyện về rồng, đã giải thích vấn đề nhân sinh có liên quan với tính lười biếng
rất sinh động.
Trước đây rất lâu, có một người chuyên nuôi rồng, ông ta chịu
khó nghiên cứu sâu thị hiếu và nguyện vọng của rồng, tình cờ còn thật sự bắt được
hai con rồng, thế là ông đã nhốt chúng lại để nuôi theo phương pháp nhân tạo.
Rồng và người vốn không phải cùng loại, nhưng người nuôi rồng
lại có thể thuận theo tập tính của nó, khiến cho hai con rồng này yên tâm nằm
trong chiếc ao nhỏ ở trong sân, còn cho rằng sông ngòi biển cả không đủ để tạo
cho chúng nô đùa. Hai con rồng này còn cảm thấy thức ăn người cho ăn rất thơm
ngon, đến nỗi cảm thấy những con cá voi to lớn trong biển cả cũng không hợp với
khẩu vị của chúng nữa. Rồng cao hứng nằm ở chỗ nào thì nằm chỗ đó, thích vùng vẫy
một lát thì vùng vẫy. Chẳng bao lâu, hai con rồng này đều thích hoàn cảnh và thức
ăn ở đây, không muốn đi đến nơi khác nữa.
Có một hôm, một con rồng được nuôi dưỡng gặp một con rồng hoang,
phấn khởi chào hỏi với nó nói: "Cậu đang làm gì đó? Đi ngao du khắp mọi
nơi giữa trời đất rộng bao la mãi không thôi thế? Mùa đông giá lạnh thì ẩn náu
trong động; mặt trời mọc lên, dần dần lại bay lên trời. Đây chẳng phải là quá
gian khổ, quá vất vả ư? Nếu đem so sánh thì nơi tôi ở đây vẫn thanh vắng an
nhàn hơn".
Rồng hoang phì cười, ngẩng đầu nói: "Con mắt của cậu
không tránh khỏi quá hẹp hòi. Thế giới tự nhiên giành cho chúng ta làm đẹp thân
thể, đầu lộ sừng ngất nghểu, thân khoác lớp vảy phát sáng lung linh. Trời đất lại
cho chúng ta đức tính tốt đẹp, làm cho chúng ta vừa có thể lăn xuống đáy nước,
lại vừa có thể bay vút vào trong mây. Thế giới tự nhiên còn ban cho chúng ta
trí tuệ tuyệt vời, có thể gọi mây, sai khiến gió. Thế giới tự nhiên cũng giao
cho chúng ta nhiều chức trách: kiềm chế nắng gắt, làm tươi tốt cỏ héo. Như vậy,
tầm nhìn của chúng ta có thể đạt tới ra ngoài vũ trụ mênh mông. Tôi sống trong
đồng hoang bát ngát đi khắp chân trời góc biển, từng trải hết tất cả mọi biến đổi,
việc này chẳng lẽ không phải là niềm vui lớn ư? Còn hãy nhìn cậu kìa, nhút nhát
nằm trong cái ao to bằng dấu chân ngựa như thế, bùn đất hạn chế cậu tự do hành
động, các loại đỉa và giun đất làm bạn với cậu, ăn thì toàn là những thứ cơm thừa
canh cặn. Cho nên, mặc dù tôi và cậu thân thể hình dáng giống nhau, nhưng niềm
vui thì hoàn toàn không giống nhau! Cậu bị người ta đùa giỡn, được người ta
nuôi nấng, chẳng bao lâu sẽ có thể bị người ta bóp họng, xả thịt của thân thể cậu
để ăn. Bây giờ tôi giơ tay cứu viện cho cậu, sao cậu lại quay ngược lại dụ dỗ
tôi, muốn cùng lôi kéo tôi rơi vào trong cạm bẫy? Xem ra như thế, cậu không
tránh khỏi tai họa sẽ đến!".
Nói xong, con rồng hoang bay vút lên không trung mất hút chẳng
thấy còn bóng dáng đâu nữa. Con rồng được nuôi nấng kia lắc đầu không hiểu, vẫn
trở lại cuộn tròn ở bên cạnh chiếc ao nhỏ, đợi người nuôi đem thức ăn đến. Chẳng
bao lâu, hai con rồng đều bị đè ra giết thịt, trở thành món ăn của nhà họ Hạ Hậu.
Tính rồng vốn là như ngựa trời lướt gió tung mây chu du giữa
trời đất, nhả gió bủa mây, nhìn ra ngoài vô cực tự do bao nhiêu, hùng dũng bao
nhiêu, chững chạc bao nhiêu. Nhưng nó vẫn không tránh khỏi có tính lười biếng
có mặt cầu an nhàn, cho nên sau khi trở thành rồng được nuôi nấng, đã tự thỏa
mãn với việc lăn lộn đùa giỡn trong cái ao nhỏ bé, đồng bọn với con giun đất,
con đỉa, ăn uống những thứ cơm thừa canh cặn, căn bản đã không nghĩ đến bay vút
lên trời, chu du bốn phương nữa.
Đó là vì sao? Nguyên nhân chính là ở chỗ nếu là rồng hoang sẽ
phải phấn đấu cố gắng, phải trải hết mọi gian khổ. Còn trở thành rồng nuôi thì
có thể an nhàn không phải lo nghĩ, hưởng cái phúc của thanh nhàn.
Chuyện ngụ ngôn này nói về rồng, nhưng ý của tác giả chắc chắn
là chỉ người. Con người theo tính cách của nó là tinh hoa của trời đất, là đứng
đầu muôn vật, họ biến vũ trụ tự nhiên thành thế giới của con người, sáng tạo ra
hệ thống giá trị của người, từ đó chỉnh lý những việc tốt xấu của vạn vật tự
nhiên, cải tạo vạn vật dùng thích hợp cho loài người, sáng tạo văn hóa, phát
triển xã hội, để làm cho cuộc sống của con người được nâng lên thêm một tầng nấc
mới nữa.
Nếu người ta vứt bỏ bản tính này của mình, hiện rõ mặt lười
biếng, thì sẽ rơi vào trong hoàn cảnh như con rồng được nuôi nấng kia, tự thỏa
mãn với khoảng trời đất sinh tồn đáng thương trong phạm vi cuộc sống chật hẹp,
đặt mình vào trong cuộc sống chất lượng cực thấp còn lơ mơ không hay không biết
gì cả, cuối cùng đến một ngày nào đó, mộng lớn bắt đầu tỉnh, quay đầu nhìn lại
mới phát hiện ra nội dung cuộc đời của mình thực tế quá nghèo nàn, con đường đời
của mình thật quá vô vị, thậm chí gặp phải kết cục, giống như con rồng được
nuôi nấng kia trở thành món ăn để xã hội và người khác hưởng.
Cho nên, con người quyết không thể vứt bỏ lòng hiếu thắng hiếu
cường, nghị lực phấn đấu không ngừng kia, dũng cảm dấn thân vào trong cuộc vật
lộn sóng to gió lớn của đời người. Gian nan cố nhiên đem lại đau khổ cho người
ta, nhưng chỉ có chiến thắng nó mới có thể giành được hạnh phúc của đời người.
Quanh co khúc khuỷu cố nhiên khiến cho người ta cảm thấy gian khổ gấp bội,
nhưng chỉ có thông qua quanh co khúc khuỷu mới có thể đón được con đường bằng
phẳng của cuộc đời, thưởng thức được mùi vị cuộc đời vô cùng phong phú.
8. Phân tích "lạnh nhạt"
"Lạnh nhạt" là bị người ta khinh thường, bị người
ta xa lánh, chán ghét. Người ta sống ở trên đời, thường đôi lúc thời vận không
may, hoặc nghèo khổ thất vọng, hoặc lưu lạc tha hương, hoặc ăn nhờ ở gửi, những
trạng thái này đều có thể làm cho người ta bị lạnh nhạt.
Người lạnh nhạt người khác, thường thường chiếm trạng thái ưu
thế của đời người, trong tay nắm những thứ tài nguyên mà người bị lạnh nhạt thiếu
thốn, anh ta có thể giúp phía bên kia khiến họ thoát khỏi một phần khó khăn,
nhưng nếu anh ta cảm thấy làm như thế không thể nhận được sự đáp lại tương ứng,
thì rất không muốn bỏ ra, hoặc không muốn bỏ ra lâu dài, thế là liền lạnh nhạt
với người khác. Nói chung, người lạnh nhạt người khác thường có quan hệ nào đó
với người bị lạnh nhạt, điều này làm tăng thêm một bước sự mất cân bằng tâm lý
của người bị lạnh nhạt.
Người bị lạnh nhạt ở vào trạng thái thế kém của đời người, họ
cần có sự giúp đỡ của phía bên kia không ở việc này thì ở việc kia, nhưng lại
không tài nào có thể giúp phía bên kia làm được việc gì, thế là họ là một người
bị động, một người tiếp nhận bố thí. Trong trường hợp bình thường, sau khi bị lạnh
nhạt, người ta luôn có thể sinh ra đau khổ tâm lý, nhất là khi sự lạnh nhạt đến
từ bà con thân thích, bạn tốt thậm chí người trước kia đã từng được mình giúp đỡ,
thì đả kích tinh thần họ nhận được càng lớn hơn.
Thời nhà Đường có một thanh niên tên là Vương Bá, nhà rất
nghèo, lưu lạc ở nơi đất khách quê người, sống một mình không nơi nương tựa. Về
sau ở nhờ tại Viện Mộc Lan chùa Huệ Chiêu, Dương Châu. Chùa miếu vì để giương
cao tinh thần quan tâm yêu thương người của Phật giáo nói chung đều bố thí cơm
chay cho khách qua đường ăn. Vương Bá đã theo các sư trong chùa hàng ngày đi ăn
cơm chay. Lâu ngày, các sư trong chùa rất ghét ông ta, cảm thấy cách ăn nhờ này
làm sao có thể kéo dài được mãi? Quy tắc trong chùa chiền là trước mỗi lần ăn
cơm chay đều gõ chuông làm hiệu, hôm đó các hòa thượng cố ý ăn cơm chay xong mới
gõ chuông.
Vương Bá hàng ngày đều chăm chỉ đọc kinh sách, làm thơ viết
văn, hôm đó vừa khéo đã viết được vài khổ thơ hay, nghiền ngẫm thưởng thức lặp
đi lặp lại nhiều lần, bỗng nhiên trong bụng cảm thấy đói, vừa đúng lúc đó tiếng
chuông gọi ăn cơm vang lên. Vương Bá thu xếp bút mực, vui vẻ đi về phía nhà ăn,
vừa bước vào cửa nhìn thấy các hòa thượng đã ăn cơm xong, kéo nhau ra về!
Vương Bá bỗng chốc cảm thấy thói đời biến đổi đến bước này,
đây rõ ràng là lạnh nhạt đối với ông ta, đuổi ông đi một cách chẳng nói chẳng rằng.
Vương Bá đành hậm hực quay về nhà ở, buộc khăn gói, bước lên con đường tốt xấu
khó phân biệt trong cảnh chiều hôm.
Hơn hai mươi năm trôi qua, Vương Bá trải qua cố gắng gian khổ,
đã khắc phục vô vàn khó khăn trên đường đời, cuối cùng vượt hẳn người khác, đã
làm quan cao, được bổ nhiệm làm quan địa phương quản lý vùng Dương Châu.
Hôm đó ông về chơi lại chốn cũ, thăm cảnh vật mới, hồi tưởng
lại chuyện cũ, vô cùng cảm khái. Bất thình lình ông đến chùa miếu ở nhờ năm
xưa, cảnh vật vẫn như xưa, chỉ có điều bài thơ năm xưa mình viết lên đã được
người ta tốn khoản tiền lớn dùng lụa xanh biếc phủ lên trên để bảo vệ. Nhìn nó
rồi đọc, Vương Bá trong lòng cảm thấy như đánh đổ bình ngũ vị, ngọt chua đắng
cay mặn cả năm mùi vị đều có cả. Ông vui vẻ cầm bút viết hai bài thơ tứ tuyệt,
trong đó có bài thứ hai (dịch ý như sau):
Ta đến nhà ăn, hòa thượng đã dùng xong cơm của họ.
Mặt tần ngần nhìn họ cố ý gõ chuông sau.
Hai mươi năm bôn ba, bụi trần đầy mặt.
Nay mới được lụa xanh phủ giữ thơ xưa.
(Xem sách Đường chích ngôn quyển 7 của Vương Định Bảo)
Vương Bá là một người thành công về sự nghiệp, cho nên mới có
thể tự chế giễu một phen đối với sự lạnh nhạt mình phải chịu trước đây. Trên thực
tế, vải lụa xanh che phủ giữ bài thơ ông đề trước kia, lại càng làm nổi bật lên
sự thay đổi của thói đời, sự nhạt nhẽo của tình người và tác phong nịnh hót của
người đời hơn.
Vương Bá từ chỗ bị lạnh nhạt của việc gõ chuông sau đến chỗ
được nịnh nọt của việc lụa xanh che thơ, thực tế có liên quan chặt chẽ với việc
thăng tiến địa vị của ông, Vương Bá sở dĩ cảm khái như thế, nguyên nhân sâu sắc
nhất cũng là ở chỗ đó.
Do vậy có thể thấy, người ta sinh ra ở đời, không nên sợ bị lạnh
nhạt, trạng thái này của đời người luôn đi theo cùng với hành trình của sinh mệnh,
con người không bị lạnh nhạt ở lúc này, chỗ này ắt sẽ bị lạnh nhạt ở lúc khác
chỗ khác. Bởi vì con người không thể trọng cả một đời đều là huy hoàng, luôn có
thể có trạng thái thoái trào, mềm yếu và không vừa ý xuất hiện. Khi người ta nhờ
người khác giúp đỡ, hy vọng được cứu giúp dù không thể thuận buồm xuôi gió, cuối
cùng cũng có thể được vừa lòng vừa ý, trái lại lại thường có thể bị người ta tỏ
ý khinh bỉ, phớt lờ, giả vờ, đối đãi giả dối v.v... Những thái độ lạnh nhạt này
có thể làm cho người ta thất vọng chán ngán, nhất là khi bị đối đãi lạnh nhạt của
người thân và bạn bè, người ta càng cảm thấy chẳng có gì là cuộc sống nữa, thế
giới này thật quá tàn khốc.
Nhưng bị lạnh nhạt có thể sinh ra hai kết quả hoàn toàn khác
nhau: một là với sự đả kích của lạnh nhạt, người ta hoàn toàn thất vọng, từ đó
không còn bất cứ lòng tin nào đối với cuộc sống, sống được ngày nào hay ngày
đó. Một tình huống khác là với sự kích thích của lạnh nhạt người ta quyết tâm
làm thay đổi trạng thái đời người thua kém này, từ đó phấn khởi cố gắng, cuối
cùng có một ngày giành được thành công, đón lấy cao trào phát triển của đời người,
sẽ giống như Vương Bá phấn đấu hai mươi năm cuối cùng đã thành công. Trong lúc
này, người ta có lẽ sẽ phát hiện được, mình đã gạt bỏ hết lạnh nhạt ra xa, chỉ
còn không khí bao trùm tràn ngập đều là nhiệt tình, nịnh nọt lấy lòng, giống
như bài thơ của Vương Bá đề được phủ lụa xanh hào nhoáng để giữ gìn.
Nhưng, người ta quyết không nên quên, lạnh nhạt lại có thể
đang chờ đợi bạn ở một chỗ nào đó ở phía trước.
9. Phân tích "khoe khoang"
Người ta giành được một vật ưa thích, làm được một việc gì vừa
ý thường hay phô trước người khác một hồi, một là sợ người ta không biết nên
không tán thưởng, hai là cho rằng mình có được vật báu đó, làm được việc đẹp
như thế nên ngông nghênh tự đắc.
Nói chung, đem những vật đẹp mình có ra cho người khác xem,
đem những việc vừa ý của mình nói cho người khác nghe, cũng cần phải thưởng thức,
cũng không có gì là không tốt cả. Nhưng nếu lòng khoe khoang hừng hực, khát vọng
muốn nghe lời nói hay, lời nịnh nọt, lời ca ngợi quá mạnh người ta sẽ sa vào
con đường khoe khoang.
Người khoe khoang thường hay làm kiểu cách mất vẻ tự nhiên, cố
ý muốn để lộ ra những cái gì đó, trông chờ được người khác lớn tiếng khen hay,
để thỏa mãn lòng hám hão huyền của mình. Trạng thái đời người này tuy không nhất
định mang đến cho người ta tai họa gì, nhưng lại thường gây ra sự chán ghét của
người khác, thậm chí coi khinh, hơn nữa dễ bồi dưỡng thành tâm lý kiêu ngạo tự
mãn của mình, tạo nên bất lợi lớn đối với sự phát triển của đời người.
Phùng Mộng Long thời Minh trong sách Tiếu phủ. Thù bẩm có kể
câu chuyện của hai người thích khoe khoang.
Có hai người đã kết thành thông gia, đều có tật thích khoe
khoang. Một người trong họ làm được một chiếc giường lớn rất lộng lẫy, mình rất
vừa ý, suốt ngày thưởng thức. Một hôm, ông ta ngồi trên giường nghĩ: Có chiếc
giường đẹp này mà ông thông gia không đến xem, thật cũng không phát huy được
tác dụng. Nhưng thông gia đến nhà nói chung đều phải ngồi ở phòng chính, làm
sao có thể mời vào trong phòng ngủ để xem giường được?
Vắt óc suy nghĩ thầm mãi, ông ta bỗng nhiên trong lòng nghĩ
ra được một kế, giả bờ bị ốm, nằm gục trên giường, để khiến cho thông gia khi
vào thăm nhìn thấy chiếc giường mới lộng lẫy này của ông.
Lúc này, nhà thông gia kia cũng đang buồn, bởi vì ông ta đã
làm xong một chiếc quần mới, cũng muốn phô trước mắt thông gia một phen, nhưng
khổ vì chưa có cớ đi đến nhà thông gia. Bỗng chốc có tin truyền đến, ông thông
gia kia bị ốm. Ông ta vui mừng quá đỗi: đây chẳng phải là cơ hội khoe cái quần
đẹp nhất của mình đó sao?
Thế là, ông ăn diện hoàn toàn mới vui vẻ ra đi. Vừa bước vào
trong cửa lớn của nhà thông gia, liền đi thẳng vào phòng ngủ, ngồi bên cạnh chiếc
giường mới của ông thông gia, hầu như căn bản không nhìn chiếc giường mới, chỉ
đem một chân gác lên rất cao để cho chiếc áo dài mặc ở ngoài lật lên để lộ ra
chiếc quần mới ở bên trong. Vẻ bề ngoài thì thân thiết hỏi: "Ông thông gia
bị bệnh gì mà đến nỗi gầy gò như thế này?".
Tìm kiếm kỹ xảo cuộc sống
Cuộc sống giống như một ống kính vạn hoa, bất cứ một điểm nào
biến động đều có thể phát ra hình thái màu sắc sặc sỡ khác nhau. Cho nên, người
ta sau khi nắm được sự huyền bí của bản chất sinh mệnh, nội dung đời người và
trạng thái sinh tồn, còn phải tiến tới thu nhận được mọi kỹ xảo cuộc sống.
Cái gọi là kỹ xảo cuộc sống là chỉ những phương pháp và đường
lối xử lý vấn đề, đi lại với bạn bè, bồi dưỡng thú vui, nhận được vừa ý trong
cuộc sống con người. Xã hội ngày nay biến đổi khôn lường, phát triển nhanh
chóng. Con người ngày nay trí tuệ ngày càng cao, sự cạnh tranh với nhau cũng
ngày càng diễn ra ác liệt, việc đó sẽ đòi hỏi người ta phải quan sát tỉ mỉ, suy
đoán, học tập từ trong sự từng trải của người xưa, người nước ngoài, nhất là từ
trong cuộc sống hiện thực, thu nhận được nghệ thuật sống cao siêu, vận dụng kỹ
xảo cuộc sống một cách trôi chảy thuận lợi, từ đó nâng cao chất lượng đời người,
tìm được cuộc sống hài lòng.
Do đó, người ta suốt cả cuộc đời đều nên xây dựng thái độ
khiêm tốn "Việc học hỏi là không có bờ bến", cố gắng tìm được kỹ xảo
sinh tồn, cách xử sự cùng với những phương pháp và đường lối làm tiêu tan mọi
trạng thái cuộc sống không tốt. Còn cần phải có thái độ cẩn thận, lời nói hành
vi không chút cẩu thả, thật lòng đối đãi với bạn bè, tiếp nhận vật chất có
cách, thỏa mãn dục vọng biết kiềm chế, tránh xa kẻ xấu, v.v... Chỉ có như thế,
mới có thể làm thay đổi khó khăn, nghịch cảnh, làm tiêu tan những việc lo lắng,
những chỗ làm cho con người bứt rứt trong cuộc sống, khiến cho cuộc sống thuận
lợi, hài lòng và hạnh phúc.
1. Kỹ năng sinh tồn
Con người muốn sinh tồn được, cần phải có một số bản lĩnh.
Con người muốn sinh tồn được tốt, thì cần phải có kỹ năng điêu luyện, cái lẽ đời
này e rằng mọi người đều hiểu biết cả. Nhưng bản lĩnh và kỹ năng khó tìm được,
mà muốn đạt được mức độ điêu luyện thì càng không dễ dàng. Vì thế, người không
có bất cứ bản lĩnh nào thì không nhiều, còn người thiếu kỹ năng thâm thúy thì
đâu đâu cũng có. Điều đó cũng nói lên rằng, người ta ở trên đời vì sao phần nhiều
cuộc sống đều bình thường, vì sao hiện tượng trạng thái đời người khó vừa lòng
người đều phổ biến tồn tại.
Kỹ năng yêu cầu phải điêu luyện, bản lĩnh yêu cầu phải tốt,
việc này phải trở thành mục tiêu quan trọng hàng đầu của mỗi người khát khao trở
thành người đời người hạnh phúc.
Cuộc đời ngắn ngủi, thời gian chóng vánh càng làm tăng mạnh
tính quan trọng và tính bức thiết việc người ta cần phải có kỹ năng sinh tồn
tương đối tốt, đặc biệt là về phương diện này người ta quyết không thể không đi
sâu nghiên cứu được. Vừa có được một số bản lĩnh và kỹ năng đã vội thỏa mãn đến
mức đắc ý quá quên hết tất cả mọi việc, lại không muốn hao tâm tốn sức đi sâu
hơn nữa, đã tốt lại càng đòi hỏi tốt hơn nữa. Cần phải biết rằng, khi bạn chỉ
mong bản lĩnh bình thương, kỹ năng sinh tồn xoàng xoàng, bạn làm sao có thể
mong đạt được cuộc đời trôi chảy và hạnh phúc được?
Người xưa thường đưa ra ví dụ của "chuột bay" để
thuyết minh vấn đề này.
Chuột bay là một loại động vật nhỏ sống ở ngoài đồng ruộng,
lông màu vàng đất, đầu của nó hơi giống thỏ, trên đuôi mọc lông tơ. Loại chuột
này còn được người ta gọi là chuột năm kỹ năng, bởi vì nó nổi lên có năm bản
lĩnh: biết bay, biết chạy, biết bơi, biết leo cây, còn có thể dũi đất làm hang.
Nhưng tuy một mình nó có cả năm kỹ năng, nhưng không cái gì tinh thông: nói là
biết bay, lại bay không lên đến nóc nhà; nói là biết bơi, nhưng một con sông nhỏ
cũng không vượt nổi; nói là biết leo cây, nhưng không lên nổi ngọn cây; chạy
thì có thể chạy, nhưng vẫn chạy không nhanh bằng người; dũi đất thì biết dũi đấy,
nhưng hang đào khoét ra đều không che khuất thân mình (xem Tuân Tử. Khuyến học).
Chuột bay một mình biết đủ cả năm kỹ năng, vốn là việc đáng
vui mừng, vốn nên vì thế đạt được trạng thái sinh tồn rất tốt. Nhưng sự thật lại
không phải như thế, nó chỉ có thể sợ khiếp vía, trốn chui trốn lủi miễn cưỡng sống
qua ngày. Nguyên nhân cơ bản nhất chính là ở chỗ kỹ năng của nó tuy nhiều,
nhưng lại đều như nhau không có cái gì điêu luyện.
Cái lẽ người ta sống ở trên đời cũng giống như thế, hơn nữa
thời gian sống của con người có hạn, thời gian và sức lực người ta dùng vào việc
học bản lĩnh, học kỹ năng cũng rất có hạn, vì thế bản lĩnh họ học được và kỹ
năng họ có được không thể có thật nhiều. Thường có thể nhìn thấy một số người,
họ đích thực rất hiếu học, đã đạt đến trạng thái say mê, nhìn thấy cái gì đều
muốn học, cần học và đi học. Thái độ học tập của họ tốt thì tốt thật đấy, nhưng
kết quả chắc chắn không tốt: họ không thể học hết tất cả mọi bản lĩnh, mọi kỹ
năng trên đời, kết quả của việc học bừa bãi chắc chắn là hiểu được không ít bản
lĩnh và kỹ năng, nhưng chỉ học được những tri thức lơ mơ, biết một chút kỹ năng
qua loa, căn bản không tài nào ứng phó được sự phát triển xã hội và sự thái đời
người ngày càng phức tạp, thậm chí đến lúc trên đầu hai thứ tóc vẫn hai bàn tay
trắng, không biết một tí gì, càng không có gì là tinh thông, giống như
"dùng giỏ tre để gánh nước chẳng được gì cả".
Cho nên, người ta sinh ra ở đời, nhất định phải hiểu rõ cái
lý đời người có hạn, tinh lực con người có hạn, đem trí năng và thể năng quý
báu tập trung vào lĩnh vực mình yêu thích nhất mà lại có điều kiện thực hiện nhất,
để dốc lòng dốc sức học tập lấy một loại hoặc vài loại bản lĩnh và kỹ năng. Việc
này đòi hỏi phải kiên trì mãi mãi, không thể một ngày vãi chài, bảy mươi ngày
phơi lưới được. Việc này đòi hỏi phải khắc khổ cố gắng, mà không thể bụng dạ để
tận đâu, qua loa đại khái được. Có cơ sở quan niệm đúng đắn lại có chịu khó cố
gắng về chủ quan và điều kiện khách quan cho phép, người ta nhất định có thể học
được một số bản lĩnh, cũng nhất định tinh thông một số kỹ năng, như vậy, người
ta sẽ mở ra cánh cửa thông đến hạnh phúc đời người và bước vào con đường bằng
phẳng của đời người.
Một trong những nội dung quan trọng của đời người là học tập.
Người ta từ nhỏ đã nhận được nhiều tri thức từ người mẹ. Lớn lên, lại từ các bạn
bè người quen tìm hiểu được nhiều cái, còn phải vào trường học, do thầy giáo
chuyên nghiệp truyền cho các tri thức. Người ta còn từ trong cuộc sống thực tiễn,
tự mình hiểu và thể hiện ra nhiều lý lẽ v.v... Tất cả những việc đó đều có thể
nói là học tập trong đời người.
Vạn vật trong tự nhiên vô cùng đa dạng, mọi việc trong xã hội
bề bộn phức tạp khó mà đếm hết, từ đó quyết định việc học trong đời là một quá
trình mãi mãi không có chỗ tận cùng. Người ta nếu hiểu rõ điều này, đồng thời
làm từ đó sẽ đặt được nền móng giành được thuận cảnh và hạnh phúc của đời người.
Không hiểu điều này, mà học được một chút ít tri thức đã thỏa mãn đến mức đắc ý
quá quên hết tất cả, thì sẽ cung cấp khả năng cho tai họa và nghịch cảnh đến với
đời.
Nhiều người trên đời vì sao có thể sinh ra cách nghĩ là việc
học có chỗ tận cùng, đồng thời trong hoạt động đời người thực tế thỏa mãn với sự
hiểu biết nông cạn và tri thức ít ỏi đến đáng thương? Điều đó không ngoài hai
nguyên nhân: Học là một việc hao tổn tinh thần và sức lực, là một việc hết sức
gian khổ, người ta học đến một giai đoạn liền có tâm tư sợ khó, không dám hoặc
không muốn tiếp tục cố gắng thêm. Hai là kiến thức của cá nhân có hạn, tâm lý tự
cho là đủ tương đối mạnh, ngồi dưới đáy giếng nhìn trời không biết vũ trụ bao
la ở bên ngoài, không biết tính đa dạng vô hạn và tính phong phú của tri thức,
vì thế tự thỏa mãn với những cái mình tìm hiểu, không đi sâu nghiên cứu.
Lúc đó, người ta có thể đọc phần Trang Tử. Thu thủy, bắt chước
có thể thay đổi thái độ học tập trong quá trình đời người của mình.
Phần này kể một câu chuyện nói là hễ đến mùa thu nước trong
vô số sông lớn sông bé đều chảy về sông Hoàng Hà làm cho mặt nước của sông
Hoàng Hà bỗng nhiên mênh mông, đến nỗi người ta đứng ở phía bên này sông không
thể nhìn thấy rõ mọi vật ở bờ sông phía bên kia. Thần Hà Bá của sông Hoàng Hà
thế là bắt đầu hý hửng cho rằng khắp thiên hạ thì mình là vĩ đại nhất.
Hà Bá thuận dòng đi về phía đông đến biển Bắc Hải. Trông xa về
phía đông, trắng xóa một màu rộng mênh mông bắt đầu cảm thấy mình nhỏ bé không
đáng kể. Hà Bá ngoảnh đầu lại nói với vị thần của Bắc Hải: "Tục ngữ có
câu: "Hiểu được một số lý lẽ thì tự cho là nhất trong thiên hạ, có thể tôi
chính là người như thế! Tôi đã từng nghe người khác nói: "Học vấn của Trọng
Ni (Khổng Tử) không uyên thâm lắm, đạo đức của Bá Di không hẳn là ghê gớm lắm
như thế", tôi vẫn không đồng ý, luôn cảm thấy họ là bậc nhất trong thiên hạ.
Hôm nay tôi tận mắt nhìn thấy cái mênh mông bát ngát của anh mới thấu hiểu được
mình là kiến thức hẹp hòi bao nhiêu. Do đó thấy, tôi nếu không gặp được anh thế
thì sẽ nguy hiểm, bởi vì tôi chắc chắn sẽ bị những người có kiến thức chê cười".
Vị thần của Bắc Hải nói: "Chúng ta không thể bàn về biển
với con ếch ngồi dưới đáy giếng, bởi vì nó bị hạn chế bởi nơi ở của nó. Chúng
ta cũng không thể bàn về băng với những côn trùng xứ nhiệt đới, bởi vì nó bị hạn
chế của mùa vụ. Cũng như thế, chúng ta cũng không thể bàn luận học vấn cao sâu
với những người nông cạn, bởi vì họ đóng khung trong một số rất ít kiến thức có
được. Bây giờ bạn thông qua tự mình thấm nhuần được từ dòng sông có bến có bờ đến
biển cả mênh mông không bến bờ, hiểu ra cái nhỏ bé của mình. Có được thái độ
khiêm tốn này, tôi có thể bàn với anh học vấn cao sâu".
Thần biển trên thực tế đã chỉ ra hai giới hạn lớn của đời người:
một là giới hạn của không gian. Người sống ở khu vực nhất định, tuy dựa vào
công cụ giao thông ngày càng nhanh chóng thuận tiện, người ta có thể đi lại nhiều
địa phương, tầm mắt cũng ngày càng mở rộng, nhưng cuối cùng người ta vẫn chịu hạn
chế của khu vực. Sự hạn chế này dễ làm cho phạm vi của thị giác và cảm giác của
con người nhỏ hẹp, đặc biệt là khi người ta tự cao tự đại, dễ dàng coi những
tri thức của phạm vi hữu hạn là toàn bộ tri thức, xem những điều mình biết, thu
nhận được bao gồm hết tất cả, như vậy thì hết sức sai lầm. Hai là, người ta còn
chịu hạn chế của thời gian. Con người bắt đầu từ lúc sinh ra ở thế giới này từ
thơ ấu đến tuổi nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, đứng tuổi, cuối cùng từ tuổi
già rồi trở về với đất bụi, đời người trải qua so với lịch sử của loài người,
so với thời gian của vũ trụ để xét chỉ là một khoảnh khắc. Người ta nếu lấy tri
thức trong thời gian hữu hạn làm tri thức của vô hạn thì cũng hết sức nguy.
Con người cố nhiên không thể thoát khỏi giới hạn thời gian,
không gian, cho nên không thể giành được tri thức toàn bộ. Nhưng khi người ta
nhìn thấy một cách đúng đắn tính giới hạn của mình, nhận thức được cái hữu hạn
đời người của mình và cái vô hạn của tri thức, thì nên trong hành trình của đời
người hãy vứt bỏ cảm giác tự thỏa mãn, khiêm tốn học tập, khiêm tốn xin chỉ bảo,
trở thành một người có tri thức uyên thâm, một người có tấm lòng rộng mở, một
người có thể dung nạp cả vật chất, cả người khác và cả mình nữa. Tri thức tăng
chắc chắn làm cho kinh nghiệm của đời người ngày càng phong phú, cách nhìn của
con người cũng ngày càng nhạy cảm, đường đời tự nhiên cũng sẽ trôi chảy thuận lợi.
Nhưng ngài Trang Thu (tức Trang Tử) kể chuyện thần sông và thần
biển lại hết sức phản đối người ta trong thời gian đời người hữu hạn lại đi
theo đuổi tri thức vô hạn, cho rằng đây là mối nguy đó. Nhưng người hiện đại
hoàn toàn có thể không hẳn nghe lời khuyên ở mức này, dùng đời người hữu hạn
theo đuổi tri thức vô hạn, mới thật sự có thể lĩnh hội được vẻ đẹp lộng lẫy của
đời người "không vui nào lớn hơn" hơi mang ẩn ý bi kịch.
3. "Không động lòng"
Một con tàu chạy trên mặt nước, gió êm nắng đẹp, hành khách tựa
vào lan can đang chuyện trò vui vẻ, trong đó có cả nhà triết học cổ Hy Lạp
Pyrrhon, ông chủ động nói những điều tâm đắc đời người của mình với các hành
khách.
Ông nói: Trạng thái tốt nhất của đời người chính là không đưa
ra bất cứ sự phán đoán nào hết. Cái gọi là phán đoán, một mặt chính là nhận thức,
phân biệt đối với tính chất của sự vật. Sau khi phân biệt người ta bèn sẽ chọn
cái tốt chê cái xấu, giành cái tốt bỏ cái xấu, ca ngợi cái hay vứt bỏ cái ác,
như thế đời người ắt sẽ sa vào tranh giành nhau, một mất một còn, đánh giết lẫn
nhau hỗn độn. Con người ta, không nên gây khó khăn, tự chuốc lấy đau đầu cần gì
phải làm khổ cho mình? Mặt khác, nếu tìm xét tỉ mỉ có thể phát hiện, nhận thức,
phán đoán của người ta đối với sự vật bên ngoài thực ra đều là sai, người ta
hoàn toàn sẽ không thể nhận thức và đưa ra phán đoán được. Ví như, người ta đều
nói tuyết là trắng, mà tuyết do nước bẩn tạo thành lại có màu đen. Người ta
nhìn cây to ở nơi xa cảm thấy chỉ cao có 1 tấc, cảm giác hỏng đến như thế, liệu
người ta còn có thể tin được không? Một trận mưa xuân làm cho nông dân vô cùng
vui sướng, nhưng lại mang đến cho người đi đường vô cùng buồn phiền. Bạn sống ở
một thị trấn nhỏ nhìn thấy một ngôi nhà lớn có thể cảm thấy thật là quá đồ sộ
hùng vĩ, nhưng anh ta đã từng đến thành phố lớn, nhìn thấy cùng một ngôi nhà đó
sẽ cảm thấy thô sơ và thấp nhỏ như thế thật không đáng nhắc đến. Sự phán đoán
trái ngược nhau như thế, liệu người ta có thể giữ được không?
Cho nên, cảm giác của mỗi người đều khác nhau, mỗi một chủ đề
chính đều tất nhiên có một chủ đề ngược ngang nhau đối lập với nó, bất cứ một
phán đoán nào thật ra không chân thực hơn so với một phán đoán khác. Làm thế
nào bây giờ? Dễ thôi, Pyrrhon tiên sinh khuyên bảo mọi người: Không nên cảm thấy,
không nên phán đoán, không nên hứng thú đối với bất cứ sự vật nào! Đối với việc
đời giữ thái độ siêu nhiên, không động lòng là triết học nhân sinh tốt nhất, là
cách xử sự tốt nhất.
Mọi người lắng nghe rất thú vị, nhưng cũng có hành khách
không hiểu rõ Pyrrhon tiên sinh nói không động lòng rốt cuộc là chỉ cái gì.
Bỗng nhiên mặt nước vừa còn gió yên sóng lặng đã nổi lên một
trận gió lớn, bầu trời quang đãng cũng bị mây đen ùn ùn bao phủ, con tàu bắt đầu
tròng trành dữ dội.
Hành khách bắt đầu lo lắng, có người càng hoang mang bối rối,
không biết làm thế nào để qua tai họa này. Có người dòm bên này, ngó bên kia
nhìn về đất liền, có người lẩm nhẩm cầu trời giúp đỡ, càng có người tâm thần rối
loạn hớt hơ hớt hải.
Duy chỉ có một con lợn, một con lợn uể oải béo phệ đứng ở chỗ
nó bị buộc vào, đang chăm chú nuốt những miếng thức ăn của nó. Ung dung, nhàn
nhã, không chút động lòng cũng không cảm thấy hứng thú đối với bất cứ sự biến đổi
nào của bên ngoài.
"Các bạn hãy nhìn kìa!" Pyrrhon tiên sinh kích động
chỉ vào con lợn kia nói: "Ôi con người, nên không động lòng giống như con
lợn kia!"
Mọi hành khách ngay tức khắc bỗng nhiên tỉnh ngộ cái không động
lòng của Pyrrhon tiên sinh té ra là như thế.
Con tàu cuối cùng tránh được sóng gió, đã cặp bến cảng. Mọi
người thở phào nhẹ nhõm, xách hành lý nối nhau lên bờ. Nhưng người ta nhìn thấy
Pyrrhon tiên sinh ung dung dạo bước, vẫn đang như suy ngẫm ý tưởng triết lý huyền
diệu của ông.
"Ối, tiên sinh phía trước có bức tường chắn!" Hành
khách trông thấy Pyrrhon tiên sinh đi thẳng tới bức tường chắn, không kìm nổi sợ
hãi kêu lên như thế.
Pyrrhon tiên sinh như nghe thấy lại như không nghe thấy, như
nhìn thấy lại như không nhìn thấy vẫn tiếp tục đi.
Nghe "đốp" một tiếng, đầu của Pyrrhon tiên sinh đã
đụng vào bức tường đá, ngay tức khắc máu tươi chảy ra.
Pyrrhon tiên sinh nói với mọi người quan tâm ông: "Tôi
không tin cảm giác của tôi về ở phía trước có bức tường đá là thật, tôi không
thể thừa nhận sự phán đoán ở phía trước có bức tường chắn vì thế phải đi vòng
là đúng. Vì sao tôi không thể đi thẳng?"
Trong đám đông, có người kinh ngạc, có người khâm phục, có
người không hiểu nổi, có người cười ầm lên.
Pyrrhon tiên sinh bắt đầu từ sự hoài nghi tính chân thực của
cảm giác, phản đối người ta đi nhận thức, đi phán đoán đối với sự vật bên
ngoài, cho nên chỉ bảo người ta quyết không nên đi nhận thức, đi phán đoán, chỉ
mong linh hồn tuyệt đối an ninh - giống như con lợn "không động lòng"
kia.
Người đời bực bội, kích thích mạnh mẽ, tổn hao tinh thần,
trong lòng thấp thỏm, chẳng phải đều vì bận rộn để cảm nhận sự vật, phân biệt sự
vật, giành lấy sự vật ư? Xét từ việc ổn định tâm tư quá kích động, ghìm nén đòi
hỏi vật chất quá mức, làm tiêu tan nỗi day dứt tổn thương thân thể và nguy hại
tính mệnh, "không động lòng" đích thực là thao tác nhân sinh có ích đối
với con người, có thể học tập nó vận dụng nó.
Nhưng hoàn toàn "không động lòng", hoàn toàn phủ định
cảm giác, tri giác và lý tính đối với sự vật bên ngoài, đó chẳng phải chính là
ruồng bỏ đối với bản thân con người ư? Do đó chỉ có thể sa vào trường hợp con lợn
"không động lòng" nổi tiếng kia mà thôi.
Cuộc sống giống như lợn e rằng chẳng có ai bằng lòng như thế
phải không?
4. Nhận biết người không dễ
Nhận biết người chính là trong quá trình gặp gỡ với người
khác, dần dần từ ngoài vào trong tìm hiểu tính cách, sở thích, tài năng và theo
đuổi của phía bên kia. Một người liệu có thể chuyển những người gặp thành người
quen biết và xây dựng nên tình thân thắm thiết hay không, điều đó quan hệ đến
những vấn đề lớn như khi gian nan khốn đốn, mình có thể nhận được sự giúp đỡ của
phía bên kia hay không, khi hoàn cảnh thuận lợi vừa lòng mình có thể nhận được
sự nhắc nhở và lời khuyên thiện ý của phía bên kia hay không, đó là một trong
những mấu chốt đời người có thuận lợi hay không.
Bởi vì, bạn nếu có thể biết được đối phương, sẽ có thể bảo đảm
đi lại với người quân tử thực lòng nhất, đương nhiên có thể nhận được sự giúp đỡ
của đối phương. Còn không biết nổi tính tình chân thực của đối phương, thì có
thể đi lại với kẻ tiểu nhân gian trá, thế thì sẽ có thể bị tổn hại rất lớn.
Một trong những nội dung quan trọng của đời người chính ở chỗ
đi lại làm quen với đủ mọi loại người, từ trong quá trình này, trước hết nhận
rõ đối phương sau đó mới quen đối phương, cuối cùng thì chuyển đối phương thành
bạn bè có mối quan hệ thân thiết của mình. Cho nên người ta phải quen nhiều người,
càng phải biết nhiều người. Việc làm quen với người khác không khó, hai bên
thông báo họ tên mình là được, nhưng biết người thì khó, bởi vì phải thật sự
tìm hiểu những cái sâu sắc bên trong của đối phương, không phải là quan sát sơ
sài qua loa một tí đã có thể hoàn thành, cũng không phải là chỉ một, hai ngày
có thể thực hiện được.
Cho nên, người ta quen người, biết người, đi lại với người
không thể không thận trọng được.
Nước Tề thời Chiến quốc vì có Yến Tử là Tướng quốc, đất nước
rất giàu mạnh. Lúc đó có một người tên là Bắc Quách Tao, ẩn cư ở nông thôn,
hàng ngày đan lưới bắt cá, cắt cói cắt lau, lấy việc bện giày cỏ làm kế sinh
nhai. Vì nhà có mẹ già phải nuôi dưỡng, thu nhập lại quá ít ỏi, đời sống rất
gian nan. Một hôm, ông ta đến tướng phủ của Yến Tử, nói: "Người ta đều nói
Ngài vô cùng nhân ái, xin Ngài hãy cứu tế cho tôi một ít để nuôi mẹ nhé".
Yến Tử chẳng nói gì, sai người đem tặng lương thực và tiền bạc. Bắc Quách Tao
chỉ nhận lương thực, còn tiền bạc thì trả lại.
Tề Cảnh công bắt đầu trở nên kiêu ngạo và ngang ngược, Yến Tử
mấy lần can gián đều không nghe, trái lại bị Cảnh công xem là cái đinh trong mắt,
cái gai trong thịt, muốn ám hại ông. Yến Tử chẳng có cách nào hơn đành bí mật
trốn ra nước ngoài. Trên đường ghé qua cửa nhà Bắc Quách Tao, xuống xe bước vào
nhà để tạm biệt. Bắc Quách Tao chẳng chút vội vàng cứ từ từ tắm xong mới ra gặp
Yến Tử, hỏi: "Ngài rốt cuộc là đi đâu?" Yến Tử đáp: "Tôi bị Quốc
quân nghi kỵ, không có chỗ dung thân, đành trốn sang nước khác". Bắc Quách
Tao chắp tay: "Thế thì Ngài nên chú ý giữ gìn sức khỏe nhiều hơn" rồi
quay người bước vào nhà.
Yến Tử trong lòng không vui, lại không tiện biểu hiện ra trước
mặt, ra khỏi cửa lên xe thở dài một tiếng: "Người chạy trốn thì phải chịu
đối xử như thế đấy! Ai bảo ta không nhận biết người?" Vẻ lạnh nhạt của lời
nói việc làm của Bắc Quách Tao như đâm mạnh vào trái tim Yến Tử.
Thực ra, Bắc Quách Tao đợi Yến Tử vừa đi khỏi liền đi tìm bạn
chí tình của mình đến bàn bạc. Ông ta nói: "Tôi chịu ơn lớn của Yến Tử, được
lương thực nuôi sống mẹ già. Đã chịu ân huệ của người khác, khi họ gặp tai nạn,
nhất định phải dũng cảm xông ra để giải cứu. Hiện tại Yến Tử bị vua Tề nghi kỵ,
tôi phải lấy sinh mệnh của mình ra để phân trần rõ cho ông ấy!".
Bắc Quách Tao lấy ra bộ quần áo tốt nhất, mặc vào rất chỉnh tề,
bạn của ông đeo kiếm cùng đi theo ông đến gặp những người tùy tùng của Tề Cảnh
công. Ông ta hô lớn: "Yến Tử là người hiền tài trong thiên hạ, ngày nay lại
bị ép trốn khỏi nước Tề, xem chừng nước Tề sắp loạn to rồi! Tôi thề chết lúc
này tại đây, dùng đầu của tôi báo ơn Yến Tử, còn hơn sống nhìn nước Tề gặp bất
hạnh!" rồi quay người sang nói với người bạn: "Tôi sau khi chết, xin
hãy đem đầu của tôi cắt ra bỏ vào trong hộp, giao cho Yến Tử". Nói xong,
liền tự mình dùng dao cắt cổ chết.
Người bạn của ông vừa buồn vừa căm giận, liền hô lớn: "Bắc
Quách tiên sinh đã chết vì nước Tề, tôi cũng phải chết vì ông ấy!" Nói
xong cũng tự sát.
Tề Cảnh công ở trong cung nghe nói chuyện này, sợ quá mặt tái
đi, tự nghĩ thầm trong bụng: Các hiền sĩ trong thiên hạ lại coi trọng Yến Tử
như thế, cam lòng chết vì ông ta, có thể ta thật đã trách nhầm ông ta rồi. Vội
vàng sai người đánh xe đuổi theo. Lúc này Yến Tử đã chạy trốn đến biên giới rồi,
được biết lệnh vua đã quay về đô thành của nước Tề.
Sau khi trở lại tướng phủ bố trí lại ổn thỏa, Yến Tử mới nghe
nói Tề Cảnh công sở dĩ thay đổi ý nghĩ là vì việc tự sát của Bắc Quách Tao và bạn
của ông ta, không ghìm nổi cảm khái than thở: "Ta mới đầu còn trách người
này không có nghĩa tình nữa! Quả là thật không biết người rồi!".
Yến Tử là Tướng quốc hiền đức nổi tiếng thiên hạ, trí tuệ hơn
người, tài hoa nổi trội, còn không thể biết được tấm lòng chân thực của Bắc
Quách Tao, nghi kỵ nhân phẩm của ông ta, huống hồ loại phàm phu tục tử hạng ta?
Do đó, từ việc quen được một người đến việc biết được một người
cần phải đi lại nhiều, quan sát nhiều. Nghe lời họ nói, càng phải quan sát hành
vi của họ. Nhìn hình dáng của họ càng phải hiểu sâu tấm lòng của họ. Chỉ có nhất
loạt tìm hiểu đối phương từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài thật rõ ràng, mới
có thể quyết định có gắn bó keo sơn hoặc chỉ giữ việc đi lại qua loa hay không?
Là xem họ là bạn tri kỷ, hay là chỉ xem họ là khách qua đường? Lúc nguy nạn có
thể trông mong họ đem hết sức giúp đỡ hay là nghĩ theo cách khác? v.v...
Trong một đời của một người sẽ quen biết vô số người, nhưng
những người thật sự thổ lộ hết tình cảm với nhau lại có được bao nhiêu? Cho nên
quen người, biết người phải thận trọng, phải tích cực, phải dùng đầu óc suy
nghĩ nhiều, còn phải có lòng kiên nhẫn.
5. "Đạo lý" trong "hũ rượu"
Việc quan trọng nhất trong một đời của người Trung Quốc xưa
không gì hơn đi lễ bái Thiên Địa, Tổ tiên và Thánh sư. Thiên Địa không phải là
bầu trời và mặt đất tự nhiên mà người hiện tại gọi, mà là thần thánh cao nhất
có thể thưởng thiện phạt ác có dáng dấp của thần nhân cách, ẩn trong "minh
minh chi trung" không biết ở chỗ nào, cho nên dùng Thiên Địa để gọi. Tổ
tiên là cội nguồn của sinh mệnh mỗi người, mà người chết là thần. Là tổ tiên của
mình, họ trong cõi âm gian người ta nhìn không thấy đang theo dõi chặt chẽ con
cháu của mình, có thể xua ma đuổi tà, ban phúc cho đời sau. Thánh sư là người dạy
bảo người rõ ràng đạo làm người, họ định ra nghi lễ cho nhân gian, xác định
khuôn phép cho luân thường đạo lý và quan hệ giữa người với người. Ba việc này
có liên quan chặt chẽ với sinh mệnh và cuộc sống của mỗi người, mà còn đều vĩ đại,
cao cả và thiêng liêng như thế, cho nên dân chúng của Trung Quốc thời xưa không
tiếc tiền bạc đã lập đền đài khắp mọi nơi, không tiếc thời gian để tế lễ, việc
này đã tạo nên nội dung quan trọng trong một đời của người Trung Quốc thời xưa.
Một hôm, Khổng Tử dẫn các đệ tử đến nước Lỗ, ông là một người
đặc biệt coi trọng truyền thống và nghi lễ cúng tế, trước tiên dẫn mọi người đến
tông miếu của Lỗ Hoàn công tham quan lễ bái.
Đây là một ngôi tông miếu thờ tổ tiên của vua, quy mô to lớn,
trang hoàng lộng lẫy, khói hương nghi ngút, trang nghiêm cung kính.
Mọi người nín thở yên lặng theo Thầy giáo nối tiếp nhau đi
vào, cung kính thắp hương tế bái. Lễ xong, một đệ tử bỗng nhiên trông thấy trên
bàn thờ có một hũ rượu hình dáng kỳ lạ, gây nên sự hiếu kỳ và khó hiểu của mọi
người.
Khổng Tử hỏi người coi miếu: "Cái hũ đựng rượu này có
công dụng gì?" Người coi miếu trả lời: "Nó là cái hũ rượu dùng làm lời
răn của các bậc quân vương".
"Lời răn mình" tức thường đặt nó ở đầu bàn để nhắc
mình cần chú ý những câu danh ngôn nào, nói chung viết nó vào giấy hoặc sổ,
treo nó trên tường. Nhưng đây là một hũ đựng rượu hình dáng kỳ lạ, mà đặt ở
trên bàn, thì làm sao gọi là lời răn?
Các đệ tử lại càng thêm kỳ lạ và khó hiểu.
Khổng Tử nói: "A! Ta biết công dụng của nó rồi".
Quay người sai một đệ tử đi ra ngoài múc một gáo nước, Khổng Tử tự tay đem nước
đổ từ từ vào hũ rượu. Nhưng thấy ông hết sức chăm chú, nét mặt trang nghiêm, mọi
người yên lặng đứng im nhìn các thao tác của thầy giáo.
Nước đổ vào hũ từ từ, thân hũ rượu bỗng nhiên nghiêng đi, như
đứng không vững nữa. Khi nước đổ đến một nửa thân hũ, hũ rượu đã khôi phục lại
tư thế đứng đoan chính. Nước lại tiếp tục đổ vào cho đến lúc trào ra miệng hũ.
Nhưng thấy hũ rượu vừa nghiêng, ào một tiếng, hũ nhào đổ, nước chảy ra hết.
Mọi người đều lùi về phía sau, đứng nhìn khiến chẳng ai hiểu
gì cả, "Quá lạ! Quá lạ!" người học trò Tử Lộ có năng khiếu thông minh
rất cao liền tuôn ra hai tiếng "quá lạ" quay mình hỏi Khổng Tử:
"Thưa Thầy, chiếc hũ rượu này khi có lượng nước ít thì nghiêng lệch, đổ nước
vào đến giữa hũ lại đứng ngay ngắn, mà nước đổ vào đầy lại đổ nhào. Vậy chỗ giữa
này có điều gì huyền bí không?".
Khổng Tử rất hài lòng đối với Tử Lộ có thể nêu lên vấn đề như
thế, nói với các đệ tử: "Chúng ta đều là người thì phải hiểu rõ đạo lý đối
nhân xử thế, ba trạng thái của hũ rượu hiện ra chính là đạo làm người. Một người
trong bụng rỗng tuếch là không thể đứng trong xã hội, giống như hũ rượu khi có
nước rất ít ắt sẽ bị nghiêng lệch. Một người thông minh học rộng, lại khiêm tốn
không kiêu ngạo, đối nhân xử thế thận trọng, thì có thể giống như trong hũ có
nước một nửa hũ có thể đứng thẳng ngay ngắn. Một người nếu như giả bộ tự cao,
không coi ai ra gì, làm việc làm người đều quá mức quá đáng, thế thì ắt gặp phải
thất bại, giống như chiếc hũ này nước đầy nên lật nhào. Cho nên, cho dù mình có
sức lực hùng dũng, cũng không thể để lộ ra ngoài. Giàu có cường thịnh cũng
không thể tự cho là thỏa mãn, mà nên cần cù tiết kiệm. Đây chính là đạo lý mà
người ta thường nói đến làm người phải không ngã vào một bên nào, lấy hơn bù
kém!".
Khổng Tử lấy tính chất vốn có kỳ lạ của chiếc hũ rượu - lời
răn của bậc quân vương đã trình bày một số lẽ đời sâu xa. Làm người nhất thiết
phải tránh ngu muội rỗng tuếch, lại phải tránh tràn ngập kiêu căng. Xử thế phải
có chừng mực dôi dư, không thể một mực theo đuổi đến cực đỉnh. Đây đích thực là
những danh ngôn chí lý của đời người.
Các đệ tử của Khổng Tử từ trong chuyện hũ rượu đã hiểu ra được
rất nhiều, người hiện đại cũng nên từ đó hiểu ra được đạo làm người lấy đó để sắp
xếp đời người ắt có nhiều lợi ích rất lớn.
6. Muốn câu cá lớn phải thả dây cho dài
Con người ngày nay, phần lớn trong đầu óc đều đầy rẫy quan niệm
kinh tế học đưa vào sản xuất, có một phần tinh lực hoặc tiền tài đưa vào, sẽ
trông mong có một phần thu hoạch, thậm chí có hai, ba phần thu hoạch. Đương
nhiên, chi phí giá thành ít nhất thu được kết quả thu lợi lớn nhất là điều mọi
người ước mơ.
Thế là đầu cơ trục lợi trở thành hành vi của đời người phổ biến,
người ta không thể ghìm nén nổi trái tim cháy bỏng, mong ngóng và nhảy nhót mạnh,
luôn luôn tất tả ngược xuôi trên con đường cầu danh cầu lợi và hưởng thụ. Cuối
cùng tĩnh tâm nghĩ lại, mới phát hiện học thuyết "đưa vào sản xuất" về
kinh tế là chính trực vô tư. Đưa vào bao nhiêu chỉ có thể sinh ra tương ứng bấy
nhiêu, trên đời không thể rơi xuống chiếc bánh có nhân, mà dưới đất cũng không
thể phun ra rượu nho. Người ta muốn có thu hoạch thì phải có tiêu phí. Người ta
muốn có thu hoạch lớn ắt phải trả ra giá lớn, đây là đạo lý từ xưa đến nay vững
chắc không gì phá vỡ nổi.
Nước Nhiệm thời xưa (nay thuộc Tế Ninh, Sơn Đông) có một công
tử mất rất nhiều công sức làm một lưỡi câu lớn, buộc vào một sợi dây to, trên
lưỡi câu mắc vào một cái mồi câu làm bằng thịt của 50 con trâu thiến. Sau đó ngồi
ngay ngắn trên núi Cối Kê, vung cần câu vào trong biển Đông, ngày này qua ngày
khác, suốt một năm ông đều chưa câu được một con cá nào. Nhưng ông quyết chí
không lay chuyển, kiên trì làm mãi mãi.
Cuối cùng có một hôm, một con cá to đã nuốt mồi, nó kéo chiếc
lưỡi câu đi theo, thoắt chìm vào trong nước, thoắt lại quay cuồng chạy trốn,
vung vây xòe vẩy biển cả bị cuộn sóng lên như đỉnh núi, tiếng rung như quỷ thần
gào khóc, tiếng ầm truyền đi xa đến hàng ngàn dặn, khiến cho người ta phải biến
sắc mặt và kinh sợ.
Nhiệm công tử bình tĩnh vững vàng, cuối cùng đã kéo được con
cá to này lên khỏi mặt nước, dùng thịt cá khô do mổ thịt nó chế biến thành để
cho tất cả mọi người thuộc vùng từ phía đông Triết Giang đến phía bắc Thương
Ngô cùng ăn một bữa sướng miệng.
Con cá to như thế đủ để làm cho đông đảo người đời hám lợi ước
ao thèm muốn. Nhưng không nên quên rằng, muốn câu được nó Nhiệm công tử đã phải
chuẩn bị biết bao nhiêu, hao tốn không biết bao nhiêu vật liệu, mất đi cả một
thời gian dài! Vị công tử này hiểu được đạo lý này, nhưng người đời có hiểu
không?
Cho nên, người ta sinh ra ở đời, bất kể muốn thu nhận được
cái gì, tri thức cũng vậy, của cải cũng vậy hay sức khỏe thân thể, hưởng thụ vật
chất v.v... đều phải có trả giá, hơn nữa phải có mong muốn trả giá tương ứng.
Cũng có nghĩa là trả giá ít, thì chỉ giành được ít, trả giá lớn mới có thể
giành được nhiều, không muốn trả giá, vậy thì quyết không nên mong cầu có thu
hoạch.
Chuyện Nhiệm công tử câu cá, đích thực nói với chúng ta rất
nhiều lý lẽ của đời người.
Ghen tỵ là bệnh chung của những người bình thường, là một thứ
tình cảm căm ghét sinh ra đối với người khác có cuộc sống ở trạng thái tốt hơn
và sự vật nhiều hơn so với mình, phát triển đến cực độ sẽ có thể làm cho người
ta mất hết lý trí, làm nhiều việc ngu xuẩn.
Đố kỵ là mới đầu do người ta sinh ra lòng hâm mộ đến cực độ đối
với sự vật người khác có, sau đó dùng trăm phương ngàn kế, thậm chí không từ một
việc xấu xa nào để đoạt lấy, kèm theo đó là những hành vi ác ý làm tổn thương,
rêu rao phỉ báng và giở trò âm mưu đối với người khác, muốn đặt họ vào chỗ chết
mới hả dạ.
Hoạt động tâm lý bất mãn thì tương đối phức tạp, người bất
mãn luôn cảm thấy người khác và xã hội mắc nợ anh ta rất nhiều, mình từ trước đến
nay chưa được đãi ngộ công bằng, vì vậy về tâm lý luôn trong trạng thái không
cân bằng, trong cuộc sống luôn nhìn ai cũng đều không vừa mắt.
Do đó ta thấy, ghen tỵ, đố kỵ và bất mãn là rơi vào trong bể
khổ đời người mênh mang, khiến cho người ta cảm thấy cuộc sống tẻ nhạt, xã hội
hoàn toàn xa lạ đối với mình, mọi người không một ai dính líu với mình. Thế giới
này đã không có một nơi nương tựa, con người trong chặng đường đời cô độc sẽ
đành lặng lẽ chịu đựng bệnh tâm lý như thú dữ cấu xé tim gan.
Vậy thì có phương thuốc hay nào để làm tiêu tan ghen tỵ, đố kỵ
và bất mãn không?
Đương nhiên là có, hơn nữa rất thần kỳ.
Nghe nói ở thành Abdera cổ Hy Lạp, có một gia đình quý tộc
giàu có, tất cả có ba anh em. Người em út tên là Democritos, ông khá thông tuệ
hơn người.
Sau khi cha mẹ qua đời, Democritos không có hứng thú đối với
tiền tài, một lòng muốn đi du lịch ra ngoài, tăng thêm kiến thức. Hôm đó, ông
và hai người anh phân chia gia tài, số tiền mặt nhận được là rất ít, chỉ có một
trăm Taradon. Ông đem số tiền này nhét vào bao, tinh thần phấn chấn lên đường.
Democritos ăn gió nằm sương, nhiều năm vượt đèo lội suối, đã
từng đến Ai-cập, Babilon, Ba-tư, cũng đã đến Athène. Đến khi cuộc lữ hành của
ông kết thúc trở về quê hương, tiền của ông đã tiêu hết, trở thành một người
nghèo rớt mùng tơi.
Theo phong tục địa phương, những người tiêu pha phung phí tài
sản của cha ông, sau khi chết không được an táng theo trật tự bình thường, người
đó cũng bị người địa phương xem thường cho là con cháu bất hiếu.
Democritos vẻ mặt không hề hổ thẹn, lớn tiếng nói với mọi người:
Mặc dù tôi đã tiêu pha phung phí, bởi vì tôi đã từng đến rất nhiều nơi, làm
quen với rất nhiều bạn bè thông minh tột đỉnh, tăng thêm kiến thức và tài cán.
Tôi mặc dù mất hết tài sản, nhưng đã làm đầu óc phong phú. Người cùng trang lứa
với tôi, có ai đã từng đến những nơi xa xôi như thế giống như tôi? Có ai đã thấy
và biết nhiều đất nước, nhân dân khác nhau và cuộc sống khác nhau ở mỗi nơi nhiều
như tôi không? Lại có ai như tôi đã tự mình được lắng nghe nhiều cuộc diễn thuyết
tràn ngập trí tuệ như thế không?
Mọi người đứng nhìn nhau, quả thực không có lấy một người về
phương diện này có thể so sánh được với Democritos.
"Tôi còn học được việc dựng hình học và đưa ra chứng
minh, ngay cả những người chuyên đo đạc ruộng đất Ai-cập cũng không thể làm được
tốt hơn tôi". Democritos nói xong rút từ trong túi ra một quyển sách đưa
cho đám người ngày càng đông xem, chỉ thấy tên sách là Đại hệ thống thế giới.
Democritos lại lớn tiếng đọc lên. Mọi người càng nghe càng
náo nức, càng nghe càng bị hấp dẫn bởi nội dung tuyệt vời của nó.
Democritos có học thức phong phú như mọc thêm đôi cánh, phút
chốc liền truyền đi khắp thị trấn nhỏ, mọi người bỏ hết công việc đang làm,
không gọi mà đến tập trung đông đúc xung quanh Democritos.
Democritos thấy người đến ngày một đông, liền nói lên đạo lý
sống như thế nào tốt hơn. Ông nói:
"Cách sống của mỗi người đều có thể có nhiều phương thức,
nếu như sống một cách hèn hạ, ngu xuẩn, phóng túng, tà ác thì chỉ có là sống
trong quá trình chết dần chết mòn. Cho nên, bất cứ người nào khi sắp xếp cuộc đời
của mình đều nên theo đuổi những cái có ích lợi đối với tâm hồn, theo đuổi những
vật thiêng liêng, làm người tốt, học tập người tốt.
Mọi người chỉ cần suy xét tỉ mỉ một chút thì có thể hiểu rõ,
cái làm cho người ta hạnh phúc không phải là thân thể dũng mãnh và tiền bạc lóa
mắt, mà là lòng ngay thẳng của con người và sự công bằng xác đáng của xã hội."
Democritos ngừng một lát, bằng ánh mắt sáng quắc quét nhìn
đám người đông nghịt một lượt, tiếp tục nói:
"Người ta không khiêm tốn học tập thì không nhận được bất
cứ tài nghệ nào. Y học có thể loại bỏ được bệnh tật của thân thể con người, duy
chỉ có triết học có thể loại bỏ được nỗi buồn trong tâm hồn con người. Nhiều
người chỉ biết khấn cầu thần linh cho mình có thân thể bình yên khỏe mạnh,
không ai biết chỉ có mình mới là người chúa tể thật sự của việc có khỏe mạnh
hay không. Họ làm tổn thương sức khỏe của mình một cách không kiềm chế, như
buông lỏng tình dục, chính là làm nguy hại đối với sức khỏe của mình."
Đám người hơi náo động. Democritos biết, những lời nói này của
mình chưa hẳn có thể làm cho tất cả mọi người tin phục, bởi vì nhiều người cảm
thấy trong buông thả tình dục nhận được khoái cảm cực lớn, làm sao có thể làm
nguy hại sức khỏe?
Democritos nói giọng chậm lại: "Điều quan trọng nhất
trong cuộc sống của con người là làm cho tâm hồn được yên ổn, đây cũng là hạnh
phúc lớn nhất, cao nhất của đời người. Mà việc này chỉ có thông qua việc kiềm
chế đối với mọi hưởng lạc của cuộc sống và việc phối hợp nhịp nhàng hữu hiệu của
cuộc sống mới có thể đạt được. Sự thiếu thốn và việc thay đổi vị trí quá mức
trong cuộc sống đều sẽ dẫn đến xáo trộn mạnh mẽ của tâm hồn, tâm hồn nghiêng ngả
không ngừng giữa hai cái này là không tài nào ổn định được. Cho nên nguyên tắc
cao nhất của đời người phải là: chỉ đặt tâm tư của mình vào sự việc có thể làm
được, phải thỏa mãn với những cái mình có thể chi phối. Một người nếu như chỉ
đi ngưỡng mộ những người có trạng thái tốt hơn mình, chỉ đi theo đuổi những sự
việc vượt quá khả năng của mình có thể làm được, lòng tham không thỏa mãn, ắt sẽ
làm cho tâm hồn sa vào trong xáo động mãi mãi không được yên ổn. Để đạt được trạng
thái đó lại phải suy nghĩ, dùng mưu tính kế, thậm chí không từ một hành động xấu
xa nào không làm, cuối cùng đã làm việc phạm pháp không thể cứu vãn nổi. Lúc
đó, con người không chỉ tâm hồn sa vào trong đau khổ, mà thể xác cũng khổ không
sao kể hết. Cho nên, không nên ham muốn những thứ không thuộc về mình, phải thỏa
mãn với những cái đã có, đã nhận được, thường nên so với những người không bằng
mình, ngẫm nghĩ những đau khổ của họ, mình sẽ có thể vui mừng một lần, tâm hồn
sẽ yên ổn một thời rồi. Khi người ta có thể đi xử sự và làm người như thế, ắt
có thể xua đuổi được mấy việc tệ hại làm nguy hại con người không ít trong cuộc
sống: ghen tỵ, đố kỵ và bất mãn".
Cuộc diễn thuyết của Democritos được một trận vỗ tay nhiệt liệt,
ông đã giành lại được sự tôn kính của mọi người. Không những không bị công
chúng khiển trách, người thị trấn Abdera còn cung cấp cho ông một khoản tiền lớn
để ông chuyên tâm nghiên cứu học vấn, còn dựng một bức tượng, ông đã trở thành
niềm kiêu hãnh của thị trấn nhỏ. Sau khi Democritos tạ thế, người ta lại cử
hành tang lễ long trọng, để cho nhà hiền triết cổ Hy Lạp này an giấc trong non
xanh nước biếc.
Democritos đã du lịch khắp bốn phương, dày công suy nghĩ tích
tụ thành "phương thuốc tốt" cứu trị bệnh ghen tỵ, đố kỵ và bất mãn.
Nói một cách khái quát là: Hãy thỏa mãn với trạng thái sinh tồn đã có, không đi
so đo với người tốt hơn mình. Làm như thế chẳng lẽ không phải là làm cho con
người mất đi động lực theo đuổi của đời người sao? Trên thực tế, ghen tỵ, đố kỵ
và bất mãn vừa phải chưa hẳn không phải là việc tốt, nó có thể làm cho con người
nhìn thẳng vào khuyết điểm và khiếm khuyết của mình cổ vũ phấn khởi cố gắng
dũng khí để giành lấy. Nhưng, người ta nhất định phải tự biết năng lực của mình
và phạm vi điều kiện cho phép, không thể miệt mài theo đuổi mục tiêu không thể
thực hiện được, đây là điều thứ nhất. Hai là điều cần phải đặc biệt cảnh giác
là ghen tỵ, đố kỵ và bất mãn quá mức, nó sẽ làm cho con người mất hết lý tính,
lúc đó con người không phải xuất phát từ lập trường tự mình phấn chấn đi tìm,
mà là từ phương diện cố gắng làm thế nào để quật ngã đối phương. Điều đó sẽ
không chỉ gây ra bệnh tâm lý của mình, càng sẽ làm nguy hại người khác và xã hội.
Cho nên, người ta nhất định phải lắng nghe tỉ mỉ những lời răn dạy nói trên của
Democritos mấy ngàn năm trước đây.
8. Cầu gấp không thành
Xã hội hiện đại, tất cả mọi việc đều biến đổi nhanh. Người ta
cắm đầu cắm cổ vào những việc hôm nay, còn ngày mai, ngày kia, tháng sau, thậm
chí cả vài năm sau nên làm gì, cũng đều nằm trong kế hoạch trước. Thế là ngày này
qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác bận tíu tít.
Nhịp sống của mọi người cũng biến đổi ngày càng nhanh, trước
tiên có cao trào hàng hóa vô cùng tận làm cho người ta không kịp nhìn, làm cho
người ta hao tổn sức lực và tinh thần để giành lấy. Hai là công cụ giao thông
ngày càng tiện lợi nhanh chóng được chế tạo ra, khơi dậy nguyện vọng của người
ta đến các nơi tham quan, thưởng thức các lối sống khác nhau, thế là người ta
liền chạy đi hết trạm này đến trạm khác không ngừng.
Nhịp sống nhanh khiến đời người trở nên ngày càng phức tạp.
Có một số người bắt đầu tham lam, cầu mong có thể có mọi quyền thế và của cải
trên đời, chiếm hữu rất nhiều người đẹp, dùng để làm thỏa mãn dục vọng của
mình. Có một số người thì chẳng hay biết gì cả, không biết trong xã hội biến đổi
nhanh chóng này mình có thể cầu cái gì, có thể làm cái gì, cũng liền theo đuổi
người ta, tùy ý để hành động.
Nhịp sống nhanh dẫn đến một biến đổi quan trọng về tâm trạng
của con người, chính là mọi người đều có khuynh hướng nôn nóng cầu thành công.
Người ta phổ biến đều ý thức được lĩnh vực của đời người rộng lớn vô hạn, sự
huyền bí của vũ trụ vô cùng vô tận, sự vật mới lạ trên đời xẩy ra luôn luôn, mà
hưởng thụ của đời người cũng vĩnh viễn vô tận, nhưng thời hạn của đời người lại
ngắn ngủi như thế, cho nên trong khoảng thời gian rất có hạn, người ta đều mong
muốn có thể cố gắng tiếp xúc nhiều hơn, hưởng thụ nhiều hơn, giành được nhiều
hơn, thành công nhiều hơn. Một cái nhiều một cái ít, tất nhiên đã tỏ rõ lượng
tiềm tàng của cuộc đời tăng lên, lại nổi lên tâm trạng có tính phổ biến của con
người muốn nhanh chóng thành công.
Nhưng sự thật của đời người đã chỉ cho chúng ta thấy, muốn
nhanh chóng thành công thường không thành, thường thất bại, đây là chân lý
không đổi từ ngàn xưa.
Lâm tiên sinh thời Tống có một lần dạo bước bên dòng suối.
Đưa hết tầm mắt nhìn ra xa xa, cây thông và tre xanh khắp núi khắp đồng, thướt
tha yểu điệu, gió nhẹ lướt qua mặt, chim chóc líu lo hót hiện ra một phong cảnh
rừng núi ruộng vườn khiến người ta khoan khoái nhẹ nhàng. Lâm tiên sinh mắt
nhìn về phía xa vời, từ từ bước, bỗng thấy hai ông lão đang ngồi riêng biệt từng
người trên tảng đá lớn, buông cần câu câu cá. Nhưng thấy ông lão đầu tóc đều bạc
hết, một lát liền nhấc cần câu lên, câu được một con cá đang nhảy nhót lung
tung trên dây câu, một lát lại nhấc cần lên, hết con cá này đến con cá khác bị
kéo lên. Còn một ông già khác buông câu, mặt trời sắp ngả về tây mà trong giỏ vẫn
trống không, chẳng có thu hoạch gì cả.
Ông già này cuối cùng kiềm chế không nổi, đặt cần câu xuống,
cung kính nhờ ông già kia chỉ bảo, nói: "Cá hai người chúng ta dùng để ăn
như nhau, lại cùng thả câu trong cùng một dòng sông, vì sao hiệu quả hai người
lại chênh lệch nhau lớn như thế?".
Ông già kia thu ánh mắt đang chăm chú nhìn vào mặt nước lại,
lấy tay nhẹ sờ chòm râu trắng, từ từ nói: "Khi tôi thả lưỡi câu xuống,
trong lòng chỉ biết có tôi, không nghĩ đến cá. Mắt không đảo đi đảo lại, vẻ mặt
không đổi, cá ở trong nước hoàn toàn không cảm thấy tôi là đang câu chúng, cho
nên sẽ dễ mắc câu. Còn ông buông cần xuống, trong lòng nghĩ đều là cá, trong
ánh mắt đưa đi đưa lại cũng đều là cá, tinh thần căng thẳng biến đổi nhiều,
lòng mong cá lộ rõ ràng chân tướng, cá ở trong nước chẳng phải đều bị ông dọa
chạy hết! Ông làm sao còn có thể câu được cá?"
Ông già này vừa nghe cảm thấy có lý, liền ngồi trở lại hòn đá
to, theo lời chỉ bảo làm việc, quả nhiên thuận lợi liên tục đã câu được hết con
cá này đến con cá khác.
Lâm tiên sinh sau khi trở về đã đem những điều trông thấy ghi
vào trong sách Điền gian thư. Tạp ngôn, cảm khái mãi không thôi.
Mọi người trên đời đều trông mong lấy được vật này giành được
vật kia, trong lòng nghĩ đều là vật, trong mắt cũng đều là vật, toàn tâm toàn ý
lộ ra cũng là tính bức thiết cần vật chất. Kết quả của bệnh nóng vội cầu mong
thành công này thường đều không tốt - vật tuy chưa giành được, ngược lại gây ra
xấu hổ cho mình. Vì thế, người ta sinh ra ở đời, trong quá trình tìm thấy một vật
nào đó, phải bình tĩnh, xét đoán thời cơ, không nôn nóng cầu thành công, không
nhất định cứ phải cầu cho bằng được, vận dụng tâm trí và tài năng một cách đúng
đắn, mới có thể đạt được mục đích.
9. Kẻ hám lợi nung nấu ruột gan nói
Người ta đều có lòng hám lợi, cũng đều có ý hám của. Người ta
sinh ra ở đời bận bịu tíu tít, suy cho kỹ phần nhiều cũng là vì hai chữ dục lợi.
Nhưng thái độ làm người của con người còn thường phải nghĩ giành lợi phải có
chính nghĩa, thỏa mãn ham muốn phải có khuôn phép, do vậy, hạn chế thậm chí kìm
nén việc cầu dục lợi nào đó của mình trở thành bộ phận quan trọng của việc học
để làm người của con người.
Song có một số người không cho là như thế, càng không làm như
thế. Trong con mắt họ chẳng qua chỉ là lợi, điều họ mong chẳng qua là ham muốn,
họ nhìn khuôn phép trên đời là thứ vô nghĩa, vứt bỏ mọi chuẩn mực hành vi không
tiếc, chỉ vui vì giành được lợi, chỉ say sưa vì ham muốn được thỏa mãn, sa vào
kẻ hám lợi làm bậy, việc này đối với đời người không có hại nào lớn hơn.
Thời xưa nước Tấn có một người hám lợi làm bậy, ông ta đến chợ,
nhìn thấy đồ vật là lấy, trong miệng còn nói ra vẻ thông thạo: "Những thứ
này tôi có thể ăn, những thứ này tôi có thể mặc, những thứ này có thể để tôi
tiêu pha, những thứ này có thể làm đồ dùng của tôi". Trên chặng đường đi vừa
cướp vừa nói, đi hết chợ thì ông ta đã lấy đủ mọi thứ, quay người sắp sửa chuồn.
Vị quan lại trong chợ theo sát ông ta ở phía sau, nhìn thấy tình trạng đó vội
vàng lấy tay chặn ông ta lại, giơ tay đòi ông ta trả tiền các thứ hàng hóa đã
cướp.
Người nước Tấn này nói một cách cười cợt nghịch ngợm: "Mỗi
khi tôi cuồng nhiệt theo đuổi lòng tư lợi đến cực độ, thì hai mắt tôi mơ mơ
màng màng, tí tách tóe ra những đốm lửa tất cả mọi đồ vật trên đời hầu như vốn
đã thuộc về tôi, tôi hoàn toàn không ý thức được là của người khác. Đại nhân,
ngài cho tôi những thứ này thôi, đợi tôi giàu sang tự nhiên sẽ trả lại
ngài".
Vị quan lại vừa nghe đùng đùng nổi giận, giơ chiếc roi cầm sẵn
trong tay đánh ông ta, đoạt lại những thứ ông ta đã cướp, rồi đi.
Hai bên đường có rất nhiều người đứng xúm lại xem, nghe những
lời biện bạch của người nước Tấn này đối với hành vi cướp đồ đạc của ông ta,
không ghìm nổi đã chỉ chỉ trỏ trỏ và phá lên cười chế giễu ông ta.
Người nước Tấn này đã làm hiệu tay chửi người, ngang nhiên và
mặt không chút hổ thẹn nói: "Trên đời kẻ hám lợi tham của so với tôi còn nặng
hơn vẫn còn vô khối người, họ thường trăm phương ngàn kế ngấm ngầm ăn cướp, còn
tôi chẳng qua là công khai lấy giữa ban ngày, chẳng lẽ không tốt hơn họ sao? Có
gì mà phải chê cười!".
Thói nết của vị nhân huynh này có thể gọi là rất kỳ lạ, cái hừng
hực của lòng hám lợi, có thể làm cho những vật mà mắt ông ta nhìn thấy đều biến
thành những vật của mình, không biết chủ của vật đó không phải là ông ta. Nhưng
làm cho tất cả mọi vật tốt trên đời mà ông ta cảm thấy trong đầu đều là của ông
ta có, không biết người bên cạnh còn có thể thừa lại cái gì.
Những thứ mà "lợi" và "ham muốn" mưu cầu
vốn là những vật chất ở bên ngoài con người, nhưng cầu lợi và đạt được ham muốn
lại là ý nghĩ và hành vi thuộc chủ quan con người. Dục vọng đối với mưu cầu vật
chất bên ngoài quá thịnh sẽ có thể làm cho tâm trí con người không trong sáng,
thậm chí sinh ra ảo tưởng, làm ra những việc đáng xấu hổi, đáng chê cười, đáng
trách, đáng trừng trị theo pháp luật.
Nhiều tấn bi kịch đời người ở trên đời chẳng phải chính là dẫn
đến như vậy sao? Một số người dục lợi nung nấu ruột gan đã vứt bỏ tất cả mọi
quy phạm đạo đức và pháp chế của xã hội, đi ăn trộm ăn cướp, đi cướp của giết
người, cuối cùng thì phải kéo theo dây xiềng leng keng vào ngục, thậm chí phải
đầu lìa khỏi cổ. Còn có một số người dục lợi tuy nung nấu ruột gan, nhưng đầu
óc vẫn còn tương đối tỉnh táo, không làm những việc vi phạm pháp luật, nhưng suốt
ngày mong phát tài, cảnh hấp dẫn ở trong đầu không ngoài làm giàu, dốc hết tâm
sức lao vào việc kiếm tiền, bất cứ mọi hoạt động khác của đời người đều không
gây được chút hứng thú nào của họ. Kết quả cũng vẫn là sức lực và tinh thần mệt
mỏi ở chốn lợi dục, cái khát khao mong cầu vẫn không đến, cái cần tránh xa thảy
đều kéo đến, đời người ảm đạm, không có chút hứng thú nào đáng kể. Kẻ nghĩ
không thông suốt đành tự tìm vào con đường chết, bằng không thì chịu sống một đời
trong nỗi khổ vĩnh viễn cầu mong không được.
Cho nên, việc cầu lợi thỏa lòng ham muốn là việc tuy con người
không thể tránh, tuy là bộ phận tạo thành quan trọng của đời người, nhưng quyết
không thể đạt đến mức độ "nung nấu ruột gan", phải biết ghìm nén lòng
hám lợi hám của không cần thiết, không có khả năng. Phải chủ động thực hiện
mong muốn của mình trong phạm vi cho phép của xã hội, điều hết sức quan trọng
là trong quá trình cầu lợi và theo đuổi dục vọng không thể lợi mình hại người
khác.
Giành được cái lợi chính đáng, thỏa mãn được dục vọng bình
thường là cơ sở hạnh phúc đời người, người ta không thể không đi theo đuổi nó,
nhưng cầu nó phải có đạo lý, chiếm nó phải có phương pháp, tức không thể không
kiềm chế được.
10. Thuật đề phòng lừa đảo
Thế giới ngày càng tuyệt vời, ý muốn của người người muôn màu
muôn vẻ, chìm nổi vật lộn trên đời một cách nhộn nhịp. Người thành công, đời
người giành được thành tựu xuất sắc, hạnh phúc mỹ mãn mọi việc như ý. Kẻ thất bại
đời người tăm tối, vấp váp thất bại, vận đen, không thuận đủ điều. Thế là có một
số người khi những cái giành được trong hiện thực có khoảng cách tương đối lớn
so với mục tiêu mình mong cầu mà lại không có khả năng làm thay đổi, liền tìm mọi
cách bước vào con đường không ngay thẳng, bắt đầu lừa đảo.
Con người là chúa tể của muôn loài, một khi bắt đầu làm việc
lừa dối sẽ phát minh sáng tạo ra mọi cách lừa đảo, làm cho người đời không sao
đề phòng nổi. Người ta trong cuộc sống có lẽ sẽ hiểu được sâu xa rằng: Làm sao
phòng ngừa được không bị mắc lừa là một bài học quan trọng của đời người. Nếu
có người không cho là đúng, vậy thì xin hãy xem tên lừa đảo cao siêu thời xưa
đã thuận lợi ra sao.
Cuộc đời của các nhà hiền triết thời xưa
Chương này sẽ nêu ra mười nhà tư tưởng lớn trong lịch sử
Trung Quốc, từ theo đuổi đời người đến điều khiển cuộc đời của họ, từ tư tưởng
sâu xa đến phương thức phương pháp xử lý vấn đề nhân sinh của họ, những gì cần
có đều có đủ tất cả. Từ nội dung trong chương này, mọi người có thể nhìn thấy sự
hiểu biết sâu sắc và những lời lẽ thể hiện trí sáng suốt nhìn thấy được tương
lai xa xôi của Lão Tử đối với đời người. Có thể nhìn thấy sự theo đuổi kiên trì
của Khổng Tử đối với quan niệm nhân sinh. Có thể nhìn thấy trạng thái đời người
tiêu dao khoáng đạt của Trang Tử; có thể nhìn thấy cách xử thế của "Đại
trượng phu" Mạnh Tử; có thể nhìn thấy hình bóng của Mặc Tử phấn đấu không
ngừng cho mục tiêu đời người. Có thể nhìn thấy sự phân tích của Hàn Phi Tử đối
với lý trí và sự cay nghiệt của đời người, còn có thể nhìn thấy nhà thuần Nho Đổng
Trọng Thư quy nạp đời người vào trong cái khung lễ pháp nghiêm khắc ra sao, lại
có thể nhìn thấy sự cố gắng của nhà hiền triết Chu Hy quy hoạch sự theo đuổi và
điều khiển đời người. Có thể nhìn thấy nhà Đại nho Lục Cửu Uyên hết sức tôn
sùng đối với tác dụng có tính quyết định của tinh thần chủ quan trong quá trình
đời người, đặc biệt là nhìn thấy cuộc đời cô phẫn, thê lương và kiên trì của
Vương Phu Chi.
1. Cuộc đời của nhà triết học lớn Lão Tử
Lão Tử là nhà tư tưởng, người sáng lập phái Đạo gia cuối thời
Xuân thu ở Trung Quốc. Nghe nói, Lã Tử họ Lý tên Nhĩ, tự Bá Dương, thụy hiệu là
Đam, là người ấp Khúc Nhân, xã Lệ, huyện Khổ nước Sở (nay thuộc miền đông huyện
Lộc ấp tỉnh Hà Nam). Ông đã từng làm chức Sử quan quản lý thư viện triều nhà
Chu. Sau khi nhà Chu suy, ông đi Tây du đến cửa quan Hàm Cốc, Quan lệnh là Doãn
Hỷ nói với ông: "Bây giờ Ngài sắp đi ở ẩn rồi, xin Ngài hãy viết ra những
kiến giải của Ngài cho tôi". Lão Tử từ chối mãi không xong, đã viết ra Đạo
đức kinh (tức sách "Lão Tử" năm ngàn chữ), trình bày một cách hệ thống
tư tưởng và chủ trương của ông. Nghe nói, Lão Tử viết xong sách này, tức khắc
cưỡi trâu xanh ra khỏi cửa quan, nhanh chóng lướt qua không biết đi đâu.
Chính bản thân Lão Tử đã từng trải những biến đổi lớn của xã
hội, đã hiểu sâu sắc việc đời biến ảo khôn cùng, đã chỉ ra cho mọi người nếu muốn
đứng vững trong xã hội thì nên trở về với đại đạo, nắm vững tính chất của đạo để
ứng phó với việc đời. Do đó phải không tranh giành, ở thế yếu, ở thế dưới, ở địa
vị bất lợi, thông qua con đường này để đạt được địa vị và mục đích "tranh
giành, ở thế mạnh, ở thế trên, có lợi". Còn người ta nếu muốn giữ được
mình sống, sống mãi để nhìn tương lai trong hoàn cảnh bên ngoài hiểm ác, thì cần
phải suy nghĩ và sống theo phương thức của Đạo.
Nhiều lời dạy bảo trình bày dưới hình thức thơ triết lý của
Lão Tử là khác với những quan niệm của người bình thường, đến nỗi thường bị người
ta xem là những lời kỳ quái, chả bõ cười. Nhưng người ta chỉ cần tĩnh tâm tiến
hành thể nghiệm tỉ mỉ, cuối cùng có thể cảm nhận được những lời của Lão Tử là một
trí tuệ lớn chân chính, một ý thức sinh mệnh mạnh mẽ, người ta nếu có thể hiểu
nội dung chân thực của nó và khép léo tiến hành điều khiển cuộc đời thực tế, nhất
định có thể có thu hoạch không ngờ tới.
Hồi còn trẻ Lão Tử theo học với Thương Dung, nghe nói Thương
Dung là một vị tiên đi mây về gió, ăn gió nằm sương, phép mầu không giới hạn.
Nhưng nhiều năm trôi qua, ông vẫn không truyền cho Lão Tử bất cứ đạo thuật nào.
Bỗng một hôm, ông thè lưỡi ra hiệu trước Lão Tử, Lão Tử rất khó hiểu đối với
dáng điệu kỳ lạ này của người thầy, suy nghĩ rất lâu, cuối cùng mới bừng tỉnh
ngộ: lưỡi do mềm mới có thể tồn tại lâu dài, răng do cứng nên mòn sớm. Làm người
cũng nên dùng mềm dịu xử thế, mới có thể tránh được tai họa, kéo dài tuổi thọ,
mà còn giành được hạnh phúc.
Cho nên, Lão Tử ân cần dạy bảo người đời: Người ta khi sống
thân thể mềm mại, sau khi chết thì cứng đờ. Hoa cỏ cây cối cũng lại như thế.
Cây cỏ lúc mới sinh, thì cành lá mềm dẻo, nếu khô héo thì chết, sẽ cứng đi và
ròn, vì thế những thứ cứng rắn thuộc về loại chết còn những thứ mềm yếu thuộc
loại sinh tồn.
Nhưng, người ta sống vì sao cứng rắn không tốt, mềm dẻo mới
được đây? Nói chung người ta luôn cho rằng, kẻ mạnh có thể dùng thế lực mọi nơi
đều đắc ý, còn kẻ yếu thì vì hiền lành nên bị người ức hiếp bị người chà đạp.
Nhưng theo Lão Tử, sự việc thật ra không phải như thế. Kẻ mạnh, vì sự cứng rắn
của nó ắt bị nhiều người trách móc và công kích, cuối cùng nhất định vì cứng rắn
nên bị tổn thất. Kẻ yếu ở vào địa vị thấp hèn dễ gây được sự đồng tình và
thương hại, đức tính mềm dẻo của họ lại có thể tránh xa được sự tranh chấp và
nguy hiểm của thế tục, cho nên kẻ yếu tất nhiên có thể sống cuộc sống lòng yên
tĩnh, thanh thản, từ đó giữ được mình toàn vẹn, hưởng tận tuổi thọ thiên nhiên.
Nhiều người trong xã hội tự cậy mình cứng rắn rắp tâm muốn nổi
trội hơn người, đến cuối cùng lại phải chết không yên ổn. Còn những người dùng
nguyên tắc mềm dẻo xử thế, gặp việc không tranh trước, tránh né, kết quả lại bảo
toàn được tính mạng, kéo dài tuổi thọ.
Lão Tử lặng lẽ quan sát sự biến đổi to lớn của vũ trụ và những
tin tức về sống chết của nhân gian, lĩnh hội và tỉnh ngộ ra trí tuệ lớn của đời
người là "kẻ cứng rắn là kẻ chết, kẻ mềm dẻo là kẻ sống". Nhưng người
hiện đại khi vận dụng vẫn nên thận trọng. Người ta sinh ra ở đời, giữ mềm dẻo,
tỏ ra mềm dẻo đều chỉ nên là một phương pháp tự mình bảo vệ, mà tuyệt đối không
nên diễn biến thành thứ triết học sinh tồn kiểu "rùa đen rụt cổ".
Tương truyền năm 522 trước công nguyên, hai nhà tư tưởng lớn
thời xưa của Trung Quốc, Khổng Tử và Lão Tử gặp mặt tại kinh thành Lạc Dương thời
triều Chu. Khổng Tử giữ đạo đức cao cả là cái phúc của đời người. Lão Tử cho rằng
tùy theo tự nhiên là cái phúc của đời người, mặc dù quan điểm khác nhau, nhưng
lại tụ họp với nhau rất vui vẻ.
Lão Tử khuyên bảo Khổng Tử: nhà buôn hàng hóa rất nhiều cố ý
che giấu của cải của mình, người quân tử đạo đức đạt đến tột đỉnh vẻ bề ngoài
giống như người ngu. Ông ơi, nhất định phải loại bỏ vẻ kiêu căng và mạnh mẽ
nhúng tay vào xã hội, thi thố tài cán dục vọng, những điều này đối với ông chẳng
có ích gì.
Khổng Tử sau khi trở về đã đánh giá Lão Tử như sau: Đối với
chim, cá, muông thú, tôi biết rõ chúng bay như thế nào, bơi lội như thế nào, chạy
đến đâu, cho nên tôi dùng công cụ tương ứng để bắt chúng. Nhưng đối với rồng
tôi lại không biết nó bay bổng lên như thế nào. Lão Tử chính giống như một con
rồng: trong đám mây lúc ẩn lúc hiện, cao không thể níu lấy, không tài nào nắm
được.
Lão Tử bị nhà Nho xem là rồng này, tài học của ông đích thực
giống như rồng bay bổng trong mây, ẩn mà không hiện khiến cho người ta khó mà
nhìn thấu.
Trong tư tưởng của Lão Tử, đạo là phạm trù cao nhất, tính chất
duy nhất có thể hiểu là thuận theo tự nhiên, ngoài ra người ta không thể nói nó
là gì, chỉ có thể nói nó không phải là gì cả. Loại đạo cao sâu khôn lường này
là cái gốc của vũ trụ, là cái nguồn của vận hành xã hội, cũng là khuôn mẫu của
đời người.
Cho nên học giả Đạo gia này chỉ ra rằng, người ta chỉ có giữ
nguyên tắc thuận theo tự nhiên để cư xử với mọi người, để sắp xếp cuộc sống của
mình, mới có thể giành được hạnh phúc chân chính. Vì vậy, người ta không những
phải cắt bỏ quan niệm thế tục lấy thỏa mãn vật chất làm hạnh phúc, cũng cần phải
vứt bỏ tư tưởng Nho gia lấy theo đuổi đạo đức cao cả làm hạnh phúc.
Việc này làm sao có thể đây? Tranh quyền đoạt lợi, thèm muốn
an nhàn, hầu như là bản tính của con người, mà khắc khổ với việc rèn luyện đạo
đức lại tỏ ra trong sạch và cao thượng như thế, hai cách theo đuổi này đều làm
cho người ta khó mà cắt bỏ.
Lão Tử để thôi thúc người ta lặp lại cuộc sống của đạo, giành
được hạnh phúc đời người chân chính đã phân tích một cách cặn kẽ: Lợi ích vật
chất mà người đời tất tưởi cầu mong, thường thường mang lại cho người ta không
phải là hạnh phúc mà là tổn hại sức lực tinh thần và tai họa của đời người. Ví
như màu sắc lộng lẫy và âm nhạc hay hầu như có thể cho người ta hưởng thụ; mùi
vị thơm ngon và đi săn bắn ngựa rong ruổi khắp nơi hầu như cũng có thể làm cho
người ta giành được niềm vui rất lớn. Nhưng màu sắc quá sặc sỡ, âm nhạc quá ầm
ĩ làm cho người ta "lóa mắt", "điếc tai". Mùi vị quá ngon,
đủ để khiến người ta "ngấy miệng". Cưỡi ngựa chạy rong ruổi khắp nơi,
cuối cùng sẽ khiến người ta trong lòng "phát rồ". Còn những báu vật
hiếm có kia thường làm cho người ta đêm không ngủ được, ban ngày cũng không dám
mơ đến.
Như vậy, Lão Tử đã quy nạp thành một đoạn danh ngôn:
"Tai họa không có gì lớn hơn không biết thỏa mãn, tội không gì lớn hơn
tham không biết chán, cho nên, người biết thỏa mãn mới là người vĩnh viễn thỏa
mãn". Tai họa lớn nhất của con người là đều bắt nguồn từ ham muốn vật chất.
Bởi vì một là, dục vọng của mỗi người đều không tài nào lấp đầy, người được A sẽ
nghĩ đến B, được B lại nghĩ đến C cứ như thế mãi. Dục vọng thực tế là một chuỗi
kéo dài đến vô tận, không có lúc nào thỏa mãn và khả năng thỏa mãn, nó ắt sẽ nhấn
chìm mọi chúng sinh vào trong buồn phiền vô hạn, không có sức tự rút ra, còn
đâu có thể nói đến hạnh phúc nữa? Hai là, người người theo đuổi sự thỏa mãn vật
chất của mình, lại có thể tạo nên đấu tranh giữa người này với người khác,
tranh giành giữa nhà này với nhà khác, nước này đánh nước kia. Xã hội thế là giống
như ngọn núi lửa nổ ra thất thường, nguy cơ chồng chất. Thế gian giống như một
bãi chiến trường sống chết vật lộn nhau, mọi ngời ghen tỵ nhau, anh lườm tôi,
tôi lườm anh, cứ như vậy làm sao có thể giành được hạnh phúc đời người chân
chính?
Vậy thì làm thế nào đây? Lão Tử cho rằng mọi người cần phải
ghi tạc cái gọi là "Đạo lý biết thỏa mãn", xem bản thân việc "biết
thỏa mãn" là "đủ", cái đã "đủ" này mới là cái "đủ"
chân chính. Điều đó cũng có nghĩa là, bất kể việc giành được vật chất trong hiện
thực và trạng thái thỏa mãn dục vọng như thế nào, người ta đều phải đem cái
"không đủ" trong hiện thực đổi thành đã "đủ" về nhận thức
tâm lý, cái "đủ" theo tinh thần này mới là sự thỏa mãn căn bản nhất -
"đủ lâu dài". Như vậy, người ta sẽ có thể thoát khỏi sự ầm ỹ tranh
giành của thế gian, luôn giữ được tiết tháo không bị ham muốn khuấy động, thỏa
mãn với những cái đã có, từ đó vui sướng vô cùng, hạnh phúc tràn trề, tự do thoải
mái.
Lão Tử nói: Người có đạo đức cao nhất từ trước đến nay không
ra sức theo đuổi và biểu hiện ra sự cao cả của đạo đức, cho nên họ là người có
đạo đức chân chính. Những người trông bề ngoài có vẻ có đạo đức, hết sức làm
theo, tuân theo điều luật đạo đức do người tạo ra, thực ra thì là biểu hiện vô
đạo đức. Bởi vậy, "đạo lý lớn" bãi bỏ, mới xuất hiện cái gọi là
"nhân nghĩa"; trong gia đình có bất hòa mới sinh ra "hiếu thuận";
chính trị quốc gia có lộn xộn mới có cái gọi là "trung thần". Tất cả
mọi đạo đức của thế tục chẳng qua là sản phẩm của xã hội vô đạo!
Tương truyền thời xưa học giả Dương Chu có một lần gặp nhà
triết học lớn Lão Tử ở nước Lương, ông rất cung kính mời Lão Tử đến nhà, hầu hạ
xong quỳ dưới đất xin Lão Tử chỉ bảo cách xử thế. Lão Tử chậm rãi nói:
"Việc đi lại với người khác quan trọng nhất là không nên
chỉ nhìn vẻ bề ngoài của người ta như thế nào, chủ yếu cần phải nhìn nội tâm của
họ, người thời xưa chính là đã làm như thế. Còn kẻ "phàm phu tục tử"
thì chỉ nhìn vẻ bề ngoài của người ta, vẻ bề ngoài hợp với mình thì gần gũi, vẻ
bề ngoài không hợp thì xa lánh. Trên thực tế, ông nhìn một người, họ có thân thể,
tay chân, đầu tóc, răng, ông đã cho họ là người, nhưng họ bên trong có một trái
tim thú. Ông nhìn thấy vẻ bề ngoài của người khác đã gần gũi họ, sao không biết
họ có trái tim thú, thế thì sẽ nguy hiểm. Còn những loài cầm thú có cánh, có sừng,
có vuốt, biết bay biết nhẩy, lại có thể có trái tim người, ông nhìn thấy vẻ bề
ngoài cầm thú của nó, đã xa lánh nó, đó cũng là sai lầm".
Lão Tử nhìn ra cánh đồng mênh mông bên ngoài đã về đêm, tiếp
tục nói: "Trước đây rất lâu, Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông và Hạ Hậu có người
là mình rắn mặt người, có người là đầu trâu mũi hổ, không có vẻ bề ngoài của
người, lại có thánh đức cao nhất. Còn những người như: Hạ Kiệt, Ân Trụ, Lỗ Hoàn
và Sở Mục, hình dáng bề ngoài là người, nhưng trong ngực lại chứa một trái tim
cầm thú. Nếu như người ta chỉ nhìn vẻ bề ngoài mà cho họ cũng là thánh đức, thế
thì chẳng đã sai lầm to rồi không?
Trên thực tế từ khía cạnh tránh họa để hiểu tư tưởng của Lão
Tử, ông chỉ ra là người ta khi đi lại với người khác, nhất định phải biết mặt
cũng phải biết lòng. Đối với người trong ngoài không như nhau nhất định phải
chú ý, cần giữ một khoảng cách để tránh rước lấy tai họa, bất lợi cho mình.
Nhưng, trên đời người ta phần nhiều là trông mặt gửi vàng, thường phải sau khi
chịu đựng nhiều đau khổ, được bài học thực tế đích thực mới có thể bừng tỉnh ngộ.
Người đời đều thích phúc sợ họa, hy vọng trong một đời của
mình vận khí tốt, hạnh phúc nhiều, ở trong tình cảnh thuận lợi, còn hết sức
chán ghét và trốn tránh vận đen, tai nạn, bước gập ghềnh của đời người. Hơn nữa,
trong quá trình sinh tồn người ta lại nghĩ hết tất cả mọi biện pháp mưu cầu hạnh
phúc, tích tụ của cải, tranh lấy quyền thế, san phẳng đường đời. Nhưng điều
đáng buồn là nhiều lúc, người ta cầu phúc lại được họa, trông mong giàu có lại
phá sản, theo đuổi địa vị cao sang lại bị tai hại, có ý đồ thuận cảnh lại bị
ngã đến thê thảm.
Hiện thực sinh tồn cay nghiệt, sao không làm cho người ta suy
nghĩ nhiều?
Lão Tử đã cặn kẽ vạch ra đối với ý kiến trái ngược sâu xa này
của phúc họa đời người. Ông dùng ngôn ngữ thông thường của thơ đã viết:
Họa hề phúc chi sở ỷ,
Phúc hề họa chi sở phục,
Thục chi kỳ cực?
Kỳ vô chính dã.
Chính phục vi kỳ,
Thiện phục vi yêu.
Nhân chi mê,
Kỳ nhật cố cửu.
ý nói là trong tai họa của nhân gian ẩn náu sự manh nha của hạnh
phúc, trong hạnh phúc đời người chôn vùi hạt giống của tai họa. Vì vậy, họa có
thể chuyển hóa thành phúc, phúc cũng có thể chuyển hóa thành họa; bình thường
có thể chuyển hóa thành kỳ dị, thiện cũng có thể dẫn đến ác. Lão Tử cho rằng
người ta không hiểu rõ cái lẽ này đã rất lâu. Trong quá trình sinh tồn của con
người, sự chuyển hóa của họa và phúc nhất định có cái rốt cuộc của nó, người ta
cần cố gắng nắm vững quy luật của nó.
Câu chuyện "Tái Ông mất ngựa" thuyết minh rất rõ đạo
lý phúc họa dựa vào nhau, ẩn vào nhau.
Thời xưa ở một nơi cách cửa ải không xa có một gia đình cư
trú. Người con trai thường ngày thích cưỡi ngựa, thường là dù có việc hay không
có việc đều cưỡi con ngựa mình thích chạy rong ruổi khắp nơi, người cha vốn là
một bậc gia trưởng rất có kinh nghiệm sống.
Một hôm con ngựa của người con trai không rõ vì nguyên cớ gì,
bỗng nhiên vượt chuồng chạy đến nơi người Hồ ở bên ngoài cửa ải. Mọi người hàng
xóm đều đến an ủi anh ta, tỏ ra đáng tiếc. Người cha anh nói: "Họa này biết
đâu có thể trở thành phúc chăng?"
Mấy tháng trời trôi qua, con ngựa của nhà anh không những chạy
về, còn mang theo một con tuấn mã của người Hồ. Mọi người hàng xóm lại đều đến
chúc mừng. Người cha anh nói: "Cái phúc này lại chưa chừng có thể biến
thành họa đây?".
Nhà có ngựa tốt, người con trai này lại thích cưỡi ngựa,
không bao lâu lại xẩy ra họa, người con trai bị ngã ngựa, chân bị gẫy. Hàng xóm
lại đến an ủi, cha anh lại nói: "Sao biết được "họa" này lại
không thể biến thành phúc đây?". Qua một năm, quân Hung nô ở ngoài biên ải
rầm rộ đến xâm lược, tất cả thanh niên vùng lân cận đều chết trong chiến tranh
chống lại người Hồ, duy chỉ có người con trai này do chân có tật mà tránh được
lệnh gọi nhập ngũ, cùng với cha đã bảo toàn được tính mạng.
Người cha này trước sau đã dự đoán ba lần chuyển dịch phúc họa,
tất cả đều ứng nghiệm, cho nên tục ngữ nói rất hay: "Tái Ông mất ngựa, đâu
biết không phải là phúc?"
Tình huống họa phúc dựa lẫn nhau, ẩn trong nhau đòi hỏi người
đời phải hiểu sâu xa quan hệ chặt chẽ giữa họa phúc, phải vượt khỏi giới hạn của
không gian và thời gian để quan sát vấn đề, nghĩa là không chỉ nhìn thấy họa và
phúc lúc này, chỗ này. Như thế, người ta sẽ có thể đứng ở tương lai, từ nhiều
phương diện đối xử một cách đúng đắn với trạng thái họa phúc hiện tại, điều chỉnh
tình trạng tâm lý và hành vi của mình hướng tới hoặc tránh đi. Như vậy sẽ giành
được một loại trí tuệ sinh tồn khôn khéo nhất. Cho nên, Lão Tử sau khi chỉ ra đạo
lý họa phúc chuyển đổi nhau, lại viết:
Thị dĩ thánh nhân phương nhi bất cát,
Liêm nhi bất quệ,
Trực nhi bất tứ,
Quang nhi bất diệu.
Lão Tử chỉ rõ, đã là họa có thể chuyển hóa thành phúc, phúc lại
có thể chuyển hóa thành họa, vậy thì trí tuệ sinh tồn lý tưởng nên là: người ta
có thể "cương cường chính trực" nhưng không thể lộ ra sắc sảo. Người
ta có thể có tỏ rõ tài năng, nhưng không thể làm hại người khác. Người ta phải
ngay thẳng, nhưng không thể bừa bãi. Người ta có thể có trí tuệ cao siêu nhất,
nhưng không thể khoe khoang.
Trong thực tế những ý kiến này đều nói lên, đành rằng sự vật
đều tất nhiên chuyển hóa sang phía đối lập, phúc họa nhất định vĩnh viễn đổi chỗ
lẫn nhau, vậy thì trong quá trình sinh tồn người ta sẽ phải tránh quá cực đoan
để ngăn ngừa tác dụng của quy luật "già néo đứt dây" xẩy ra.
Cũng có nghĩa là, đã là phúc ắt sẽ chuyển hóa thành họa, vậy
thì làm sao ta phải đi tìm phúc? Đã là phúc sau cái họa vẫn phải chuyển hóa về
phía đối mặt sao ta lại phải tránh họa này để được họa kia? Cho nên, nhất định
không nên cố sức đi tìm phúc tránh họa, con người chỉ cần thực hiện giữ được trạng
thái hoàn toàn theo tự nhiên không tranh giành, không hành động không cầu mong,
thì có thể loại bỏ được tai họa, giành được cảnh sinh tồn thuận lợi và đời người
hạnh phúc.
Trí tuệ sinh tồn này của Lão Tử không tránh khỏi cách xa hiện
thực một chút. Quan niệm họa phúc của các ẩn sĩ rốt cuộc khác với cách nhìn của
người bình thường. Mặc dù người ta có thể rút ra một số cái có ích ở trong đó,
nhưng bẩm tính của con người thế tục chính là thích phúc ghét họa, tìm phúc
tránh họa, việc này lại có thể gột hết hết sao đây? Trên thực tế, người ta nên
cũng cần phải nắm chắc "điềm" họa phúc chuyển đổi nhau, khi mình đang
trong phúc phải nhìn thấy nguy hiểm của họa. Khi mình gặp tai họa phải nhìn thấy
hạnh phúc tương lai sẽ đến. Nhìn thấy họa trước có thể thôi thúc người ta dùng
biện pháp trừ tai tránh họa, nhìn thấy phúc trước có thể kiên định niềm tin của
người ta, cảm thấy đời người vẫn rất có triển vọng.
2. Cuộc đời của Thánh triết Khổng Tử
Khổng Tử tên là Khưu, tự Trọng Ni, sinh năm 551 trước công
nguyên, mất năm 479 trước công nguyên, là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo
dục cuối thời Xuân thu ở Trung Quốc, cũng là người sáng lập học phái Nho gia.
Theo lịch sử ghi chép, Khổng Tử lúc nhỏ "nghèo hèn",
nhưng từ 15 tuổi trở đi, đã xây dựng lý tưởng và chí hướng cao xa, quyết chí phấn
đấu học hành, đã từng học Lễ với Lão Đam, học Nhạc với Trành Hoằng, học Cầm
(đàn) với Sư Tương. Sau 20 tuổi trở đi, Khổng Tử đã từng làm ủy lại (phụ trách
kế toán) và Thừa điền (chức quan nhỏ quản lý chăn nuôi trâu cừu), hơn nữa khi
phụ trách kế toán có thể quản lý hết sức rành mạch đối với từng khoản mục, khi
quản lý chăn nuôi trâu cừu có thể làm cho việc nuôi các con vật béo tốt khỏe mạnh.
Khổng Tử sau 30 tuổi, học vấn đã tới chỗ điêu luyện đến đỉnh
cao, ông đã mở ra con đường dạy học tư trong lịch sử Trung Quốc, đồng thời thừa
hành nguyên tắc Hữu giáo vô loại (tức dạy đủ mọi lớp người không phân biệt chủng
tộc, sang hèn), nói chỉ cần đem đến lễ mọn mười bó thịt khô, ta đều phải dạy bảo
đối với họ. Người đời sau nói Khổng Tử có ba ngàn đệ tử, trong đó có bảy mươi
hai người hiền đức có thành tựu học tập. Khổng Tử dùng Kinh Thi, Kinh Thư và Lục
nghệ để dạy các đệ tử, trọng điểm là bồi dưỡng các đệ tử giữ gìn đức hạnh, đồng
thời dẫn đệ tử chu du khắp các nước, trên đường đi vừa giảng và thảo luận, hỏi
đáp không ngừng, làm cho các đệ tử không những có kiến thức sách vở, còn có
kinh nghiệm thực tiễn, từ đó đã hình thành học phái Nho gia có ảnh hưởng rất
sâu xa.
Khi Khổng Tử 50 tuổi, ở nước Lỗ từ Trung đô tể thăng lên đến
các chức Tư không (quản lý công trình), Tư khấu (quản lý tư pháp), Hành nhiếp
tướng sự (Quyền Tể tướng). Sau khi từ quan dẫn các đệ tử rời nước Lỗ, chu du
các nước như Vệ, Tống, Trần, Thái, Tề, Sở trong thời gian 14 năm. Vào khoảng
năm 484 trước công nguyên lại trở về nước Lỗ, từ đó dốc lòng dậy các đệ tử, chỉnh
lý lại các sách cổ điển như kinh Thi kinh Thư, cắt và sửa kinh Xuân thu, khiến
nó trở thành bộ sách lịch sử dạng biên niên đầu tiên ở Trung Quốc.
Khổng Tử không chỉ có ảnh hưởng to lớn đối với tinh thần của
dân tộc Trung Hoa, cũng có đóng góp to lớn đối với sự phát triển nền văn minh
thế giới. Một nho sinh thời Tống đã viết hai câu thơ:
Thiên bất sinh Trọng Ni,
vạn cổ trường như dạ.
Cho rằng nếu không có Khổng Tử, người Trung Quốc sẽ sống
trong những năm tháng đen tối. "Đen tối" nói ở đây đương nhiên không
phải là chỉ "không có ánh sáng" về ý nghĩa vật lý, mà là chỉ một trạng
thái ngu muội vô văn hóa. Hai câu thơ này có lẽ có chỗ khen hơi quá mức, nhưng
cũng bày tỏ đúng mức sự tôn sùng và ngưỡng mộ của người xưa đối với Khổng Tử.
Nhưng, bản thân Khổng Tử lại rất khiêm nhường, ông đã từng
nói: Nếu nói đến Thánh và Nhân thì làm sao tôi dám nhận? Tôi chẳng qua là học tập
và làm việc luôn không biết chán, dạy bảo người khác không biết mệt mà thôi.
Công Tôn Hoa, đệ tử của ông nói: Đây chính là cái chúng tôi khó mà học tập được
thật sự! Về sau trong sách Mạnh Tử - Công Tôn Sửu đã ghi một đoạn lời nói của Tử
Công, một học trò khác của Khổng Tử: Học tập không biết chán, chính là chí; dạy
người không biết mỏi mệt chính là nhân. Vừa có nhân lại có chí, Thầy (Khổng Tử)
đã là bậc Thánh rồi.
Học không chỉ là học tập tri thức, mà còn là tu dưỡng nhân
cách, Khổng Tử có thể giữ được nó mãi một cách tự giác. Dạy không biết mệt, không
chỉ là có lo lắng phát ra từ trong lòng đối với sự vô tri của người khác, mà
còn có thể đem hết khả năng của mình giúp đỡ người khác, đây chính là người có
lòng nhân từ, mình làm nên giúp người làm nên, mình thành đạt giúp người thành
đạt.
Việc hiếu học của Khổng Tử lúc sinh thời đã vô cùng nổi tiếng,
ông trọn đời không có người thầy nhất định, bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu đều xin
người khác chỉ bảo. Sách Luận ngữ. Bát dật ghi chép: Khổng Tử mỗi lần vào Thái
miếu (tức miếu thờ Chu Công) gặp mỗi sự việc đều xin người khác chỉ bảo không
chán. Có người liền chê cười ông: Ai bảo người con trai của Thúc Lương Hột (cha
của Khổng Tử) hiểu lễ nghi? Vào Thái miếu, mọi việc đều phải hỏi người khác.
Sau khi Khổng Tử nghe được, không chút hổ thẹn nói: "Đó chính là lễ nghi đấy!".
Khổng Tử tổng kết ra một kinh nghiệm quan trọng về thái độ học
tập là không những phải học tập những người có học vấn, có tài năng, còn cần phải
biết lấy người vụng làm thầy, từ trong đó rút ra được bài học để răn mình, sửa
đổi sai lầm, nâng cao học vấn và đạo đức của mình. Khổng Tử nói mấy người cùng
đi đường với nhau, trong đó nhất định sẽ có người có thể cho mình nói theo. Ta
chọn những ưu điểm của người ta để học, nhìn thấy những khuyết điểm của người
khác để sửa đổi. Việc đó đương nhiên không chỉ là hiếu học mà còn là một cách
biết học.
Khổng Tử đối với học tập như là đói cần ăn, khát cần uống, đến
mức quên ăn quên ngủ, không biết tháng ngày trôi qua. Diệp công đã từng hỏi Tử
Lộ, con người Khổng Tử này như thế nào? Tử Lộ không trả lời (thực ra là rất khó
trả lời). Sau khi được nghe câu chuyện này, Khổng Tử đã nói với Tử Lộ: Vì sao
anh không nói như thế này, ông ta là vì làm người, chăm chỉ đến mức quên cả ăn
cơm, khi vui thì không biết buồn phiền, đến nỗi đều quên cả già nua sắp sửa đến,
cứ như thế thôi.
Thái độ cuồng nhiệt đối với học tập này của Khổng Tử bắt nguồn
từ nhận thức đúng đắn của ông đối với công dụng của học tập. Theo ông người ta
chỉ có học tập, mới có thể từng bước thoát khỏi trạng thái ngu muội, biết được
đạo lý "đối nhân xử thế". Khổng Tử nói: "Những bài thơ"
(kinh Thi) làm cho tôi phấn chấn, kinh "Lễ" làm cho tôi có thể đứng vững
trong xã hội, "âm nhạc" làm cho những điều tôi học được hoàn thành.
Con người có mọi tri thức, mới có thể thật sự đứng vững trong xã hội, mới có khả
năng trở thành "người có lòng nhân từ". Hiếu học khiến Khổng Tử trở
thành một nhà có học vấn lớn nổi tiếng thời xưa của Trung Quốc.
Khổng Tử không chỉ hiếu học, mà còn dạy bảo người khác không
biết mệt, rất bằng lòng đem tri thức của mình truyền lại cho bất cứ người nào
muốn học, bản thân việc này đã là sự biểu hiện rõ ràng tinh thần "nhân học".
Thái độ dạy bảo người không biết mệt của Khổng Tử thật ra
không phải là nhồi sọ một cách máy móc, ông rất chú ý "dạy theo năng khiếu",
căn cứ đặc điểm của từng người tiến hành chỉ bảo khác nhau. Có một lần, Tử Lộ hỏi
Khổng Tử: Nghe được hai chủ trương hay, phải chăng lập tức bắt đầu hành động?
Khổng Tử nói: Có phụ huynh có kinh nghiệm hơn anh ở đó, làm sao có thể lập tức
đi làm ngay? Nên trước hết phải xin chỉ bảo. Nhiễm Hữu, một đệ tử khác của Khổng
Tử cũng hỏi một vấn đề tương tự, Khổng Tử lại nói: Đúng, phải lập tức đi làm
ngay. Công Tôn Hoa cảm thấy bối rối khó hiểu nói: Vì sao cùng một vấn đề mà Thầy
lại có kiểu trả lời hoàn toàn ngược nhau? Khổng Tử nói: Nhiễm Cầu (tức Hữu)
bình thường hàng ngày làm việc hay rụt rè, cho nên ta làm tăng thêm lòng dũng cảm
cho nó. Trọng Do gặp việc vốn rất táo bạo, cho nên ta muốn ghìm bớt nó lại.
Nhan Hồi là một học trò được Khổng Tử vừa lòng nhất, nhưng
cũng đôi khi bị phê bình thiện ý. Khổng Tử cho rằng Nhan Hồi quá ngoan ngoãn
theo, đã nói: Nhan Hồi không phải là người có giúp đỡ đối với ta, anh ta không
có ý gì không thích đối với những lời ta nói. ý nói là ý kiến của thầy giáo
cũng không phải hoàn toàn đều đúng, học trò nên mạnh dạn chỉ ra, như thế cũng
có ích đối với thầy giáo.
Khổng Tử cho rằng Tử Cống rất có tài hoa, nhưng quá thiên nặng
về một mặt nào đó, không thể phát triển toàn diện, đã nói với Tử Cống một cách
hình tượng. Anh chỉ là một khí cụ thôi! Tử Cống ngạc nhiên hỏi: Khí cụ gì ạ? Khổng
Tử nói: Còn tốt, là một khí cụ khi cúng tế. Theo Khổng Tử, một người học để làm
người, nhất định phải chú ý phát triển toàn diện, bằng không thì sẽ giống như một
đồ vật chỉ giới hạn dùng vào một việc nào đó.
Khổng Tử có thể có sự hiểu một cách sâu sắc như thế đối với
các đệ tử, lại tiến hành chỉ bảo đúng mức, đương nhiên các học trò của ông đều
có thể nhận được ích lợi không nhỏ. Nhan Uyên (tức Hồi) ca ngợi Khổng Tử nói: Đạo
của Thầy, càng ngước đầu lên nhìn, càng cảm thấy cao, càng dùng sức nghiên cứu,
càng cảm thấy sâu. Thoạt nhìn hầu như là ở phía trước, bỗng nhiên lại đi đến
phía sau rồi. Mặc dù những học vấn này là cao sâu và khó mà tóm bắt như thế,
nhưng Thầy biết dẫn dắt chúng con từng bước, dùng mọi văn hiến (tài liệu lịch sử)
để làm phong phú tri thức của chúng con, lại dùng lễ tiết nhất định để nâng cao
phẩm đức của chúng con, làm cho chúng con muốn thôi học đều không thể. Những lời
này của Nhan Uyên chính đã bày tỏ lòng kính phục và lòng cảm kích của các đệ tử
đối với Khổng Tử.
Xét về căn bản, Khổng Tử "học không biết chán" là lấy
việc làm cho mình trở thành người có lòng nhân từ làm mục đích. Khổng Tử
"dạy bảo không biết mệt" là lấy việc làm cho người khác trở thành
"người có lòng nhân từ" làm mục đích. Do vậy, hai phẩm hạnh này có thể
làm cho Khổng Tử từ con đường học vấn đạt đến giới hạn của "lòng nhân từ",
lại dùng phương pháp của giáo dục thúc đẩy người khác trở thành "người có
lòng nhân từ".
Khổng Tử rất giàu lòng đồng tình, yêu quý sinh mệnh của người
khác, hiểu rõ nỗi đau khổ của người đời, vui lòng giúp đỡ người khác.
Thời kỳ Ân Chu, bọn quý tộc quân chủ đều có nếp sống dùng người
sống chôn theo người chết, kéo tận đến thời Xuân thu vẫn có việc dùng người sống
chôn theo với người chết xẩy ra. Tần Mục công bị ốm chết vào năm 621 trước công
nguyên, mai táng ở xứ Ung (nay thuộc miền Nam huyện Phượng Tường tỉnh Thiểm
Tây), số người sống chôn theo tới 177 người, trong đó còn có ba anh em "hiền
lương" nổi tiếng với đời là Sử Am Tức, Trọng Hành và Thành Hổ. Sách Tả
truyện. Tuyên công năm thứ 15 ghi chép Ngụy Chuẩn nước Tấn có một ái thiếp, ông
ta nói với người con trai rằng: Sau khi ông ta chết có thể để cho bà đi ra khỏi
cung để lấy người khác. Nhưng khi bệnh lâm nguy, Ngụy Chuẩn lại làm ngược lại lời
mình, lệnh cho con trai sau khi ông ta chết nhất định phải dùng người thiếp này
chôn theo. May thay, người con trai của ông ta không nghe lời ông ta, sau khi
người cha chết vẫn cho phép bà ta đi lấy người khác. Từ đó ta thấy, thời kỳ
Xuân thu, nói chung người ta cũng phản đối phương thức dùng người sống chôn
theo người chết cực kỳ tàn nhẫn này. Khổng Tử thì không những phản đối dùng người
sống chôn theo, đến việc dùng tượng nộm hình người bằng gỗ hoặc đất nung chôn
theo cũng đều rất ghét. Ông nói: Người đầu tiên tạo ra việc dùng tượng nộm bằng
gỗ hoặc đất nung để chôn theo đáng phải đoạn tuyệt con cháu! Khổng Tử là một học
giả lớn, lời chửi người thường không nói ra hết lời, nhưng chỉ người dùng tượng
nộm bằng gỗ hoặc đất nung để chôn theo người chết sẽ "đoạn tuyệt con
cháu" thì có thể thấy thái độ phản đối của Khổng Tử rất mạnh mẽ.
Thời đại Khổng Tử sống, trong xã hội vẫn có hàng loạt nô lệ
không được xem là người, giá trị của họ thường thấp hơn súc vật. Nhưng có lần
chuồng ngựa đột nhiên bị cháy, Khổng Tử vội vàng hỏi: Có bị thương người không?
Mà không hỏi ngựa có bị thiêu cháy không? Việc này dùng cách nhìn của thời đại
nay để xét hầu như hoàn toàn không có gì đáng nói, nhưng ở thời đó thì là một nỗi
quan tâm và yêu quý mạnh mẽ vượt hẳn nếp sống của thế tục đối với sinh mệnh con
người, đã biểu hiện tấm lòng rộng lớn vốn có của Khổng Tử với tư cách là một
"người có lòng nhân từ".
Thế giới tình cảm của Khổng Tử vô cùng phong phú, tràn ngập
tình thương xót sâu sắc đối với người đời. Mỗi lần ông trông thấy người mặc đồ
tang, người mặc lễ phục và cả người mù, dẫu là đối phương rất trẻ, cũng nhất định
phải đứng dậy, vẻ mặt nghiêm túc cung kính và lễ độ. Khổng Tử nếu ngồi ăn cơm
bên cạnh người có người thân vừa mất, từ trước đến nay vẫn không ăn no. Điều đó
cũng chính là muốn nói, mặc dù không phải là người thân của mình tạ thế, Khổng
Tử cũng rất đau buồn. Có một hôm, một nhạc công mù tên là Miện đến gặp Khổng Tử,
đi đến mép phòng, Khổng Tử vội vàng nói với ông: Đây là bậc thềm. Đi đến cạnh
chỗ ngồi, Khổng Tử lại nói: Đây là chỗ ngồi đấy. Sau khi mọi người đều ngồi
xong xuôi, Khổng Tử bảo mãi không chán nói với nhạc công: người nào đó ngồi ở
đây, người nào đó ngồi ở kia. Sau khi nhạc công Miện cáo từ ra về, Tử Trương liền
hỏi: Đây phải chăng là phương thức nói chuyện với người mù? Khổng Tử trả lời:
"Đúng, đây vốn chính là phương thức giúp đỡ người mù".
Khổng Tử đặc biệt có thể hiểu rõ người khác, không những có
thể chỉ ra những ưu khuyết điểm đối với các đệ tử của mình như nhìn lòng bàn
tay, mà cũng có thể phân tích cụ thể đối với những người hầu như không tốt, đặt
mình vào chỗ họ suy nghĩ thay cho đối phương. Việc này trên thực tế cũng là sự
vận dụng cụ thể "đạo lý tha thứ" suy bụng ta ra bụng người. Công Dã
Trường, đệ tử của Khổng Tử, vì có chuyện nên bị bắt đưa vào nhà lao, Khổng Tử
kinh qua xét hỏi, cảm thấy anh ta không có tội lỗi, do vậy đã gả con gái cho
anh ta. Khổng Tử đối với bạn bè càng đối đãi thẳng thắn chân thành, giữ hữu nghị.
Một người bạn cũ của ông tên là Nguyên Nhưỡng là một người rất tùy tiện, Khổng
Tử đã từng vừa dùng chiếc ba toong gõ vào cái chân bó của ông ta vừa nói đùa:
Cái con người này của ông khi trẻ đã không có nề nếp, sau khi lớn cũng chẳng có
tiến bộ, cái thân già này của ông không chết, thật là một tên giặc! Nhưng khi mẹ
của Nguyên Nhưỡng chết, Khổng Tử vẫn nhiệt tình giúp đỡ ông ta thu xếp quan tài
làm việc tang, bản thân Nguyên Nhưỡng lại nhảy lên quan tài, như điên như dại một
mặt vỗ vào quan tài, một mặt xông vào Khổng Tử hát cười khì khì. Khổng Tử đã
làm lơ như không nhìn thấy. Các đệ tử căm giận bất bình nói: Bạn bè như thế sao
còn không tuyệt giao đi? Khổng Tử trả lời: Chẳng phải nói, ban đầu là người gần
gũi vẫn nên gần gũi hơn, vốn là bạn cũ vẫn là bạn cũ sao?
Khổng Tử xuất phát từ yêu mến con người dẫn đến quý vật. Có một
lần, con chó của nhà ông chết, ông dặn Tử Cống đem chôn và còn dặn dò cẩn thận:
Ta nghe nói, màn rách đừng vứt, dùng chôn ngựa. Mui xe cũ đừng bỏ dùng chôn chó
rất tốt. Ta nghèo đến mức đến mui xe cũng không có, con sẽ lấy chiếc chiếu rách
của ta đem đắp lên cho chó, đừng để đầu của nó lộ ra.
Khổng Tử hết sức đề xướng "Nhân chính", yêu cầu những
người quản lý quốc gia phải mến tiếc tính mệnh của dân chúng, quan tâm đời sống
của nhân dân, làm cho đất nước giàu mạnh, thiên hạ yên bình.
Khi 51 tuổi, Khổng Tử làm chức Trưởng quan hành chính cao nhất
(Trung đô tể) ở Trung Đô nước Lỗ (nay thuộc miền Tây huyện Vấn Thượng tỉnh Sơn
Đông) đã làm nên thành tích tương đối lớn, không bao lâu được thăng làm Tư
không quản lý công trình, rồi lại từ Tư không chuyển thành Tư khấu quản lý Tư
pháp, trong tay nắm quyền lớn. Nhưng ông đối đãi với mọi người ở quê hương vẫn
rất kính cẩn vâng theo, giống như không biết nói chuyện. ở trong triều đình,
ông giỏi trình bày chủ trương chính trị, nhưng lại vô cùng cẩn thận. Nói chuyện
với cấp trên, Khổng Tử chính trực mà cung kính, nói chuyện với cấp dưới lại ôn
hòa mà vui vẻ.
Khổng Tử làm chính trị, chủ trương dùng đạo đức cảm hóa dân
chúng, phản đối đơn thuần dùng hình pháp. Ông nói: Đối với dân chúng, nếu như
chỉ dựa vào ban phát mệnh lệnh, lại dùng hình pháp để cưỡng chế họ, dân chúng
cũng chỉ có thể tránh được tội lỗi một cách tạm thời, lại không thể có lòng
liêm sỉ và lòng người quy phục.
Khi làm quan, Khổng Tử thường xuyên xử lý các vụ kiện tụng, đồng
thời cố gắng làm được công bằng hợp lý, nhưng ông theo đuổi là một mục tiêu cao
hơn. Ông nói xét xử một vụ kiện, tôi và người khác không có gì khác nhau, nhưng
phương thức tốt nhất là phải làm được không có người đến thưa kiện!
Khổng Tử đôi khi khoác lác nói: Giả như có người dùng tôi điều
khiển việc hành chính quốc gia, một năm thì đã tương đối, ba năm thì sẽ có
thành tích rất lớn. Khổng Tử sở dĩ có lòng tin như thế là vì ông vững tin chủ
trương nền "chính trị nhân từ" của mình là trên hợp với ý trời, dưới
hợp với lòng dân.
Vậy thì nội dung cụ thể của "chính trị nhân từ" là
gì?
Một lần, Tử Lộ hỏi như thế nào để làm tốt công việc quản lý
quốc gia, Khổng Tử trả lời: Mình phải dẫn đầu dân chúng, sau đó làm cho họ làm
việc cần cù, mãi mãi không nên lười biếng. Trong Cung làm Tổng quản của họ Quý,
cũng hỏi Khổng Tử làm tốt chính trị ra sao, Khổng Tử truyền thụ kinh nghiệm
nói: Phải dẫn đầu những người dưới quyền, không suy bì tính toán sai lầm nhỏ của
người khác, cất nhắc nhân tài giỏi. Cho nên, theo Khổng Tử, muốn thực hành
"nhân chính" với tư cách là người thống trị phải lấy mình làm gương,
lời nói việc làm của bản thân phải thích đáng, không ra lệnh đối với dân chúng,
sự việc cũng phải được thông báo. Nếu người ở địa vị quan chức, lời nói việc
làm của bản thân không chính đáng, mặc dù nhắc đi nhắc lại, người khác cũng
không thể tin phục. Khổng Tử luôn luôn nhấn mạnh người quản lý chính sự nếu có
thể nghiêm chỉnh mình, quản lý việc nước sẽ quyết không có khó khăn gì. Nếu như
đến mình cũng đều không nghiêm chỉnh được thì làm sao có thể nghiêm chỉnh người
khác được?
Lỗ Ai công đã từng xin Khổng Tử chỉ bảo làm thế nào để quản
lý tốt đất nước. Khổng Tử nói: chính là tuyển chọn và cất nhắc nhân tài. Lỗ Ai
công lại hỏi: Làm thế nào mới có thể làm cho nhân dân phục tùng? Khổng Tử trả lời:
bổ nhiệm những người ngay thẳng, cách chức những người gian ác, nhân dân sẽ phục
tùng. Cách chức những người ngay thẳng, bổ nhiệm những kẻ gian tà, nhân dân
không thể phục tùng. Từ đó ta thấy tuyển chọn người hiền đức bổ nhiệm người có
tài năng cũng là bộ phận cấu thành hữu cơ trong chủ trương "Nhân
chính" Khổng Tử đề xướng.
Khổng Tử còn cho rằng, lấy "Nhân" làm mục tiêu cơ bản
làm chính trị, sẽ phải đạt được làm cho dân chúng trong thiên hạ có 3 điều: một
là sinh mệnh có bảo đảm; hai là cuộc sống giàu có; ba là được giáo dục tốt. Có
một lần, Khổng Tử đến nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe thay ông, Khổng Tử tựa vào lan
can quan sát quang cảnh hai bên đường, bất giác khen: Ôi, người đông đúc thật!
Nhiễm Hữu nói: Người đã nhiều rồi, lại nên làm như thế nào? Khổng Tử nói: Làm
cho họ giàu có lên. Nhiễm Hữu lại nói: Nếu như đã giàu có rồi sẽ làm gì đây? Khổng
Tử trả lời: Giáo dục họ.
Khát vọng tha thiết đối với "nhân chính" khiến Khổng
Tử vô cùng căm ghét đối với "bạo chính". Một lần, Khổng Tử đi qua bên
núi Thái Sơn, nhìn xa thấy có một phụ nữ đang khóc vô cùng thảm thiết bên một
ngôi mộ hoang, Khổng Tử vịn vào một thành gỗ ngang ở trước xe yên lặng lắng
nghe một lát, liền bảo Tử Lộ đi về phía trước đến hỏi han. Tử Lộ nói với người
phụ nữ đó: Bà khóc thống thiết như thế, rốt cuộc là vì sao? Người phụ nữ đáp: Bố
chồng tôi bị hổ ăn thịt, chồng tôi lại bị hổ ăn thịt, gần đây con trai tôi cũng
bị chết dưới miệng hổ. Lại hỏi: Vậy thì vì sao bà không dọn đi? Người phụ nữ
nói: Bởi vì những kẻ bắt phu, đòi thuế không thể đến nơi đây được. Tử Lộ nói lại
với Khổng Tử, ông cảm khái nói với các đệ tử: Hãy lắng nghe cho kỹ, "bạo
chính" còn đáng sợ hơn cả mãnh hổ đấy!
Do Khổng Tử thường xuyên dùng đạo lý của "nhân
chính" để dạy bảo các đệ tử, cho nên các học trò của ông cũng dần dần chịu
ảnh hưởng rất sâu xa. Có một lần, nước Lỗ muốn sửa chữa kho bạc Trường Phủ, để
có thể cất giữ được của cải lấy từ dân chúng nhiều hơn. Đệ tử của Khổng Tử là Mẫn
Tử Khiên nói: Thôi, cứ để như cũ cũng được, vì sao cứ nhất định phải tu sửa? Khổng
Tử tỏ ý khen nói: Con người này hàng ngày thường không hay nói, vừa nói đã nói
rất đúng. Lại có một lần, Lỗ Ai công hỏi Hữu Nhược: Mùa màng không tốt, tiền của
nhà nước dùng không đủ, làm thế nào đây? Hữu Nhược nói: Vì sao không thực hiện
thuế suất mười phần thu một? Lỗ Ai công nói: Mười phần thu hai, ta còn không đủ
dùng, làm sao có thể mười phần thu một được? Hữu Nhược nói: Nếu dân chúng cái
gì cũng đều đủ, làm sao Ngài có thể không đủ? Nếu dân chúng cái gì cũng đều
không đủ, Ngài lại làm sao có thể đủ?
Khổng Tử còn có một tinh thần gánh vác "Việc trong thiên
hạ là trách nhiệm của mình? Để cứu đời giúp dân, làm cho dân chúng trong thiên
hạ đều có thể tắm trong ánh sáng của "nhân từ", ông không quản gian
lao không sợ hiểm trở đã biểu hiện ra một tinh thần hiến mình vĩ đại.
Khổng Tử vững tin không dời đối với chủ trương "nhân chính
lễ trị" của ông, nhờ sự gắng sức của quan niệm tinh thần này, ông có thể đối
mặt với mọi nguy hiểm mà ung dung nói cười. Có một lần, Khổng Tử rời nước Vệ,
chuẩn bị đến nước Trần, đi đến một địa phương gọi là Khuông (nay thuộc vùng tây
nam huyện Trường Thản tỉnh Hà Nam). Người Khuông đã từng bị Dương Hóa nước Lỗ
cướp và giết, chẳng may tướng mạo của Khổng Tử rất giống Dương Hóa, vì thế liền
bao vây Khổng Tử và các đệ tử của ông 5 ngày, không cho họ đi. Các đệ tử đều có
vẻ hoảng hốt lo sợ, chỉ có Khổng Tử vẫn bình tĩnh như thường, đồng thời còn an ủi
các đệ tử: Sau khi Chu Văn vương chết, tất cả mọi di sản văn hóa chẳng phải đều
bảo tồn ở ta đây phải không? Nếu trời muốn xóa bỏ những di sản văn hóa này, vậy
thì ta cũng không thể giữ được những thứ văn hóa này nữa. Nếu như trời không muốn
diệt hết những di sản này, thế thì người Khuông sao lại có thể làm gì được ta?
Khổng Tử vững tin mình gánh vác sứ mệnh lịch sử, tự cho mình là "thay trời
hành đạo", điều này cố nhiên có mầu sắc số mệnh sâu đậm, nhưng lòng tin và
nghị lực của ông lại vẫn đáng được người đời sau ca ngợi. Về sau, nghe nói một
đệ tử của Khổng Tử là Công Lương Nhũ có sức mạnh dẫn 5 chiếc xe, anh nói với mọi
người: Tôi xem vẫn là phải chiến đấu thôi! Dù là phải chết cũng còn hơn bị vây
khốn ở đây. Thế là anh dẫn đầu dũng mãnh liều với người Khuông một trận, người
Khuông sợ hãi, do quý tộc Công Tôn Thú chiếm giữ Khuông thành đứng ra đàm phán
điều kiện với Khổng Tử, sau đó mới giải được vây mất 5 ngày.
Lại có một lần khác, Khổng Tử dẫn các đệ tử rời nước Vệ, đến
nước Tống, đang đi nhìn thấy một cây rất to. Khổng Tử cùng các đệ tử vừa nghỉ
ngơi ở dưới gốc cây, vừa diễn tập các lễ nghi đã học. Tư - Mã Hoàn Đồi nước Tống
sống vô cùng xa xỉ, đã từng làm cho mình một chiếc quách bằng đá, đã làm mất 3
năm mà vẫn chưa xong, làm cho những người thợ đều mệt mỏi và bị ốm. Khổng Tử đã
vì việc đó từng đả kích ông ta một cách mạnh mẽ. Hoàn Đồi nghe nói Khổng Tử đến
nước Tống lập tức dẫn một đoàn người ngựa đuổi đến, khí thế ầm ầm, chặt đổ cây
to, rêu rao muốn giết chết Khổng Tử. Khổng Tử cùng các đệ tử đành đi khỏi, mọi
người nói: Chúng ta phải chạy nhanh hơn một chút. Khổng Tử nói: Trời đã sinh phẩm
đức thế này trên con người của ta, nhất định sẽ phù hộ sự nghiệp của ta, Hoàn Đồi
lại có thể làm gì được ta?
Còn có một lần nữa, Khổng Tử và các đệ tử bị bọn loạn binh
bao vây ở biên giới nước Trần, lương thực mang theo cũng đã ăn hết sạch. Các đệ
tử đi theo vừa đói vừa mệt, có một số đã bị ốm quật ngã. Còn Khổng Tử thì vẫn
giảng bài như bình thường, còn đánh đàn ca hát. Tử Lộ rất không vui, hỏi Khổng
Tử: Người quân tử có đạo đức có học vấn cũng có thể có lúc cùng khốn đến mức
không còn biện pháp gì phải không? Khổng Tử đáp: Người quân tử không phải là
không gặp nạn, nhưng chịu đựng nổi thách thức của khó khăn. Kẻ tiểu nhân không
có đạo đức và học vấn hễ gặp khó khăn đã có thể buông thả mình, không từ việc
gì không làm. Những lời này thật ra không thể an ủi được tất cả các đệ tử. Khổng
Tử liền nói với Tử Lộ: Thời xưa có một bài hát, nếu hát lên là:
Vừa không phải hổ, lại không phải là tê giác,
Đi đi lại lại trên đồng không mông quạnh, là lý do gì?
Chúng ta người đang lâm vào tình cảnh khó khăn như thế, phải
chăng đạo lý chúng ta đang tuyên truyền không đúng? Tử Lộ trả lời: Có lẽ là
nhân đức của chúng ta không đủ, người khác không tin chúng ta. Có lẽ là trí tuệ
của chúng ta không được, người ta mới không muốn thu nhận chủ trương của chúng
ta. Khổng Tử lắc đầu nói: Do ơi! Nếu có nhân đức thì có thể làm cho người ta
tin, vậy Bá Di, Thúc Tề vì sao có thể chết đói hở? Nếu có trí tuệ thì làm được
thông suốt, vậy trái tim của Tỷ Can vì sao có thể bị người ta khoét mất?
Tử Lộ ra khỏi, Tử Cống tiến lại. Khổng Tử lại hỏi: Thời xưa
có một bài hát, nếu hát lên là: Vừa không phải là hổ, lại không phải là tê
giác, đi đi lại lại trên đồng không mông quạnh là vì lý do gì?
Cũng hỏi lại Tử Cống. Phải chăng đạo lý chúng ta tuyên truyền
không đúng, vì sao chúng ta bị vây ở đây? Tử Cống trả lời: Lý tưởng của Thầy
quá cao, cho nên khắp nơi không thể tiếp thu. Thầy liệu có thể nhân nhượng một
chút được không? Khổng Tử nói một cách không đồng ý: Tứ ơi! Một người làm ruộng
ưu tú có thể trồng trọt tốt, nhưng lại không nhất định có thu hoạch tốt. Một
người thợ giỏi có thể làm ra các đồ dùng rất khéo léo, nhưng lại không nhất định
đang đuổi kịp nhu cầu của người ta. Một người có triển vọng có chủ trương của
mình, đồng thời có thể trình bày ra một cách rành mạch phân minh, nhưng người
khác lại không nhất định sẽ tiếp nhận. Bây giờ anh không cố gắng bồi bổ thêm
cho mình, lại ra sức tính toán người khác không tiếp nhận, chí khí của anh
không khỏi quá nhỏ mọn!
Sau khi Tử Cống đi, Nhan Uyên lại tiến vào gặp Khổng Tử. Khổng
Tử vẫn hỏi cùng một vấn đề, Nhan Uyên trả lời: Lý tưởng của Thầy rất cao, cho
nên khắp nơi đều không thể tiếp thu. Nhưng, Thầy vẫn cố gắng tranh thủ thực hiện
lý tưởng, người khác không tiếp thu, thế thì có quan hệ gì? Chính vì người khác
không thể tiếp thu, nhưng Thầy vẫn cố gắng tranh thủ thực hiện lý tưởng, người
khác không tiếp thu, thế thì có quan hệ gì? Chính vì người khác không tiếp thu,
mới có thể khảo nghiệm công sức trau dồi của người có đạo đức, có học vấn.
Không thể đưa ra chủ trương hay, đó là lỗi của chúng ta; có chủ trương hay mà
không có người thực hành, đó là nỗi nhục nhã của người cầm quyền các nước. Người
khác không thể tiếp nhận, lại có quan hệ gì? Người khác không thể tiếp thu, mới
có thể khảo nghiệm công sức trau dồi của người có đạo đức, có học vấn.
Khổng Tử nghe xong, hết lời khen ngợi, nửa đùa nửa thật nói:
Chính là cái đạo lý này đấy! Chàng trai nhà họ Nhan này, nếu anh có tiền, ta bằng
lòng cho anh trông coi sổ sách. Sau đó, Khổng Tử sai Tử Cống đi cầu cứu quân nước
Sở giúp đỡ, cuối cùng mới giải được vây.
Khổng Tử đầu tiên bị người Khuông bắt, sau bị Hoàn Đồi đuổi
giết, lại gặp "tai họa ở Trần Thái", sinh mạng bị uy hiếp, lại vẫn hết
sức bình tĩnh, không hề dao động đối với lý tưởng và sự nghiệp của mình. Tư -
Mã Thiên từng nói, Khổng Tử mang theo phương án trị quốc, du thuyết "hơn bảy
mươi quân chủ", cuối cùng không thể dùng. Đối với sự thất bại chính trị
như thế, Khổng Tử cũng có thể thản nhiên tiếp nhận, đồng thời bền bỉ, vì nó mà
ông đã từng chịu đủ mọi châm biếm và cười chê.
Có một hôm, Tử Lộ ngủ lại một đêm ở Thạch Môn, sáng sớm ngày
hôm sau vào thành. Người gác cửa nói: Ngài từ đâu tới? Tử Lộ đáp: từ nhà Khổng
Tử tới. Người coi cửa nói: Có phải chính là cái người biết làm không thành lại
vẫn nhất định muốn làm không?
Lại một hôm khác, người điên nước Sở tên là Tiếp Dư đi qua xe
của Khổng Tử hát lên: Phượng hoàng ơi, phượng hoàng ơi, vì sao đen đủi như thế?
Quá khứ không thể vớt vát lại, tương lai vẫn còn kịp đuổi về. Thôi đi nhé, thôi
đi nhé, kẻ cầm quyền hiện tại đang nguy ơi là nguy! ý nói tất cả mọi cố gắng của
Khổng Tử ngài đều phí công hết, không nên lại ngu dốt nữa. Khổng Tử sau khi
nghe tiếng hát vội vàng xuống xe, muốn nói chuyện với Tiếp Dư, bộc bạch nguyện
vọng và theo đuổi của mình. Nhưng ông ta đã chạy đi mất hút, Khổng Tử bị một
phen mất vui.
Còn một lần khác, Khổng Tử dẫn các đệ tử trên đường đi qua một
đám ruộng, Trường Tử và Kiệt Nịch đang cùng nhau cày bừa, Khổng Tử sai Tử Lộ đến
hỏi đường. Trường Tử hỏi lại Tử Lộ: Người ngồi trên xe chỗ kia là ai? Tử Lộ
nói: Là Khổng Khưu. Lại hỏi: Có phải là Khổng Khưu nước Lỗ không? Tử Lộ nói:
Đúng vậy. Trường Tử nói: Hừ! Người đó phải biết bến đò ở đâu chứ! Nói xong liền
cặm cụi làm việc. Tử Lộ đành quay sang hỏi Kiệt Nịch. Kiệt Nịch cũng hỏi lại Tử
Lộ: Ông là ai? Tử Lộ nói: Tôi là Trọng Do. Lại hỏi: Ông là môn đồ của Khổng
Khưu nước Lỗ phải không? Tử Lộ trả lời: Đúng thế. Kiệt Nịch nói: Việc đời ngày
nay khắp nơi rối bời, ở đâu cũng đều giống nhau cả, ông cùng ai có thể làm thay
đổi được nó? Thà ông đi theo chúng tôi, những người lẩn tránh cả cái xã hội
này, còn hơn ông đi theo Khổng Tử, con người lẩn tránh người xấu? Sau khi nói
xong, cũng tự lo làm công việc của mình trên ruộng. Tử Lộ quay về nói với Khổng
Tử, Khổng Tử không vui nói: Chúng ta không nên chỉ chung sống với quần thể chim
bay thú chạy, chúng ta nếu không giao thiệp với những đám người khác nhau, thì
còn giao thiệp với gì nữa đây? Nếu như thiên hạ thái bình, ta đã không thể cùng
các anh đi làm việc cải cách. ý nói là chính vì thiên hạ rối bời, những việc vô
đạo nhan nhản khắp mọi nơi, cho nên mới không nên ẩn cư trốn đời, nhập bọn với
chim muông, mà nên tích cực vào đời, cứu vớt xã hội, giúp đỡ dân chúng.
Từ đó ta thấy, học thuyết của Khổng Tử lấy "nhân"
(nhân từ) làm hạt nhân, lấy việc thúc đẩy con người thành "thánh",
thành "hiền", thành"quân tử" làm mục tiêu. Người bình thường
phần nhiều theo đuổi tiền tài vật chất nhiều, hoàn cảnh sống thuận lợi, hôn
nhân mỹ mãn, tuổi thọ kéo dài, nhưng Khổng Tử cho rằng, duy chỉ có người
"quân tử" cần mẫn theo đuổi đạo đức cao cả trên tinh thần, mới có thể
giành được hạnh phúc chân chính. Có một hôm, Khổng Tử ngồi ngay ngắn, nói đến đạo
lý làm "quân tử" với các đệ tử. Ông nói: Phát tài và làm quan, đây là
những cái mà người người đều hướng tới. Nhưng nếu như dùng thủ đoạn không đạo đức
để đạt được, người quân tử cũng không làm.
Các đệ tử không hiểu: "Quân tử" vì sao có thể như
thế? Những cái mà người đời mong muốn và cho là có thể mang lại hạnh phúc thì họ
không theo đuổi. Những cái mà người đời ghét bỏ và cho là có thể mang lại đau
khổ, họ lại không ra sức lẩn tránh. Hành động hướng tới và tránh như thế làm
sao không làm cho người ta khó hiểu được?
Khổng Tử từ từ nói: Mấu chốt làm người quân tử là giữ vững
nhân đức. Người quân tử nếu không có nhân đức, thì khó hoàn thành được thanh
danh của mình. Cho nên, một người quân tử khi ăn cơm đều không quên nhân đức,
lúc vội vàng cũng gắn liền với nhân đức, lúc đau khổ lang bạt kỳ hồ cũng giữ được
nhân đức vững bền.
Ý kiến của Khổng Tử rõ ràng không sai: Hạnh phúc của người
quân tử hoàn toàn không giống hạnh phúc của người đời. Người quân tử lấy việc
giữ đạo đức làm hạnh phúc, mà người đời thì lấy việc giành được lợi ích vật chất
làm hạnh phúc. Cho nên trong xã hội hiện thực, người quân tử dù khi rơi vào cảnh
vô cùng bi thảm trong con mắt của người đời, cũng có thể thấm nhuần được hạnh
phúc. Còn người đời dù là ăn ngon mặc đẹp, toại nguyện và được thọ, trong con mắt
của người quân tử cũng chưa hẳn là hạnh phúc.
Các trạng thái đời người hiện đại
Đọc xong các phần trước luận bàn về xưa nay, trong và ngoài
nước, trong chương này bạn đọc có thể cùng tác giả làm một chuyến du ngoạn cuộc
đời vượt không gian và thời gian.
Hơn mười năm qua, tác giả một mực cặm cụi nghiên cứu thảo luận
lý luận của triết học sinh tử, giật mình nhìn lại cảm thấy mình hầu như đã bước
vào con đường lầm nào đó: đem vấn đề nhân sinh trừu tượng hóa, lịch sử hóa, lý
tưởng hóa, điển tịch hóa v.v... Cho nên mấy năm gần đây tác giả đã cố gắng vượt
ra khỏi đống sách, đi ra khỏi thư phòng giao tiếp với đủ mọi nhân vật, tham
quan du lịch sông núi, chùa chiền miếu mạo, thành phố thôn quê khắp nơi, dự định
làm cho vấn đề nhân sinh càng cụ thể, càng hiện thực, càng chân thực, càng sinh
động hơn. Thế là, tác giả đã mở ra một con đường đem việc nghiên cứu thảo luận
đối với lý luận nhân sinh và việc phân tích cụ thể quá trình đời người hòa
chung vào một mối. Dùng tầm nhìn về đời người và lý tính của đời người được
hình thành từ lý luận đặt nền móng thăng hoa cho quá trình đời người cụ thể. Lấy
cái mới mẻ sinh động và cụ thể của đời người bồi bổ, thúc đẩy lý luận nhân
sinh. Hai việc cùng hòa trộn vào nhau, sẽ có thể khai thác một thế giới mới của
đời người.
Hy vọng bạn đọc trong quá trình bước vào cuộc du lịch đời người
với tác giả cũng có thể vừa coi trọng việc bồi dưỡng và nâng cao lý luận nhân
sinh, cũng tích cực bình phẩm tỉ mỉ hoạt động đời người cụ thể, một khi đã phá
thông sự ngăn cách hai việc đó, chắc chắn sẽ lĩnh hội được giới hạn sinh tồn
tuyệt vời không sao kể hết.
Đây chính là những điều chương này giới thiệu với bạn đọc.
1. Chỗ khó của việc giao tiếp với nhau
Người ta sinh ra ở đời phải tiếp xúc với đủ mọi loại người.
Người Trung Quốc quan hệ với cha mẹ có thể làm theo đạo hiếu. Giao thiệp với bạn
bè có thể tuân theo nguyên tắc "thực lòng tin tưởng", nhưng giao tiếp
với người xa lạ thì sao? Chúng ta hầu như không có một nguyên tắc gì để theo.
Một vị giáo sư, khó khăn lắm mới chen vào được toa tàu có giường
nằm, tìm được chỗ, nhưng thấy đã có mấy người ngồi chen nhau ở trong đó, túi lớn
túi nhỏ và valy đã xếp đầy cả giá để hành lý, còn vừa bàn luận viển vông cao
xa, vừa đối xử lạnh nhạt. Vị giáo sư này chen vào trèo lên, dọn dẹp cái nọ cái
kia hòng kiếm được một chỗ trống để nhét chiếc túi du lịch nho nhỏ của ông vào.
Mấy người đến trước liền chửi ầm lên, ra sức cản lại, không bằng lòng, một tí
cũng không châm chước.
Vị giáo sư đáng thương rất lúng túng không biết làm thế nào,
biết rằng cãi nhau cũng vô dụng. Bỗng nhiên ông nghe ra giọng nói của mấy người
đến trước giống mình, liền buột miệng nói: "Các ông người Phúc Kiến phải
không?"
"Đúng! Đúng! Làm sao ông biết?" Mấy ông này liền
thôi chửi giống như phanh xe gấp.
"Tôi cũng là người Phúc Kiến, quê tại Phủ Điền". Vị
giáo sư này rất kiêu hãnh nói.
"Chúng tôi cũng ở đó. Trời ơi! Chúng ta là đồng hương
chính tông!" Hai người mắt trợn tròn, phút chốc giọng thay đổi hẳn.
Một người nhiệt tình nhường chỗ ngồi, nói những chuyện xưa của
quê hương với giáo sư. Còn một người khác thì thu gọn hành lý của họ lại, đem
túi du lịch của giáo sư đặt vào ngay ngắn, lại nhảy xuống, tham gia vào tán
chuyện những việc bình thường trong nhà.
Những người xa lạ vừa rồi còn không thể câu kết với nhau,
trong chốc lát vì dính dáng đến quê hương, mối quan hệ địa phương này mà trở
thành người quan hệ thân thiết. Họ vừa mới rồi một ly một tí không nhường bước,
mà đến giờ lại chủ động bước lên giúp đỡ nhau.
Người Trung Quốc chỉ có chuyển hóa đối phương thành người có
quan hệ thân thuộc, máu mủ cùng huyết thống, người có quan hệ địa phương với
mình, mới có thể giao tiếp với họ, mới có thể đối đãi nhiệt tình.
Cho nên, người Trung Quốc sợ đi đến những nơi lạ và xa xôi,
không muốn giao thiệp với những người xa lạ không tài nào dính dáng bất cứ quan
hệ nào, lòng đề phòng người khác lớn hơn rất nhiều nguyện vọng giao tiếp với
nhau. Do đó, người Trung Quốc khi sống chung với người xa lạ cũng sẽ không có
thái độ nhiệt tình, không có ràng buộc đạo đức, thậm chí không từ một việc xấu
xa nào hại người lợi mình.
Lý Đỉnh Quốc tiên sinh của Đài Loan đã kể một câu chuyện: Một
người nước ngoài ngồi trong chiếc xe taxi nhìn thấy người lái xe lái xe chạy
xông xáo ngang dọc một cách lỗ mãng, muốn giành lên trước thì phải chen lên, gặp
đèn đỏ báo muốn lén chuồn thì dấn ga xông thẳng lên. Tiếng chửi mắng của khách
qua đường, lời kêu ca của các lái xe khác, anh ta cũng làm ngơ không thèm để ý.
Người nước ngoài có vẻ ngạc nhiên: "Trung Quốc các bạn
chẳng phải là nước tôn trọng lễ nghi, là nước cổ có nền văn minh ư? Người Trung
Quốc các bạn chẳng phải đều chú trọng lịch thiệp ư? Khi ăn cơm, mọi người đều
khiêm nhường không muốn ngồi trên, khi ra cửa cùng giơ tay lễ phép nhường nhau,
bình thường cũng rất biết điều, làm sao lại xe chạy thì bất chấp tất cả, không
hề có chút cử chỉ nhún nhường vậy?".
Người lái xe nói: "Tôi không hề quen biết họ, vì sao phải
nhường?".
Một lời hết sức mới lạ, người Trung Quốc chỉ chú trọng nhún
nhường trong phạm vi những người có quan hệ với mình, "không cùng họ tộc với
tôi, ắt lòng họ sẽ khác", không có quan hệ gì với tôi, người đó ắt phải đề
phòng. Thế là có người đã làm ra các loại sản phẩm giả, kém một cách yên lòng để
làm hại người, bịp người lừa người, bởi vì tôi không quen biết họ, thì có sao
đâu? Có người thì đổ rác bừa bãi, vứt vỏ hoa quả bừa bãi một cách thoải mái,
làm tổn hại môi trường và người qua đường, bởi vì họ đều là những người lạ,
không quan hệ gì với mình v.v...
Người ta sinh ra ở đời, thật khó. Làm một người Trung Quốc
cũng đặc biệt khó. Hãy nhìn lại xã hội truyền thống, người ta phần nhiều làm việc
sản xuất nông nghiệp, đàn ông làm ruộng, đàn bà dệt vải, tự sản tự tiêu, có
liên quan gì với người khác? Phương thức sống tụ tập trong gia đình, quây quần
bên họ tộc, khiến cho đối tượng người ta giao thiệp phần nhiều là những người
có quan hệ với mình, trong đó những nguyên tắc cần tuân theo thì đều là do lịch
sử, truyền thống, tục lệ quy định hết, người ta chỉ việc theo đó làm việc là được
rồi. Nhưng sau khi đi vào xã hội công thương hiện đại, tất cả đều biến đổi, tất
cả đều lưu động, người ta cũng không thể đóng khung trong vùng đất quen thuộc,
trong phạm vi nhóm người quen thuộc nữa, họ phải lưu động, thậm chí bức thiết
mong muốn phiêu bạt ở nơi xa xăm, nhưng họ vì thế đều phải giao thiệp với những
người xa lạ!
Do vậy, người Trung Quốc đã sử dụng binh khí cuối cùng của việc
giao thiệp với người xa lạ: nhận làm cha nuôi mẹ nuôi, kết nghĩa anh em chị em,
làm cho người xa lạ chuyển hóa thành người có quan hệ thân thuộc với mình, dù
là giả dối, thêm nữa chính là kết bè kéo phái tổ chức thành đoàn nhóm. Những
nơi trên thế giới có người Trung Quốc thì đều có bang phái đoàn nhóm, người
Trung Quốc hy vọng dùng phương thức này trong phạm vi nhỏ tái tạo bầu không khí
giữa người với người quen thuộc, khiến cho người xa lạ cũng có thể giúp mình.
Việc này thật là mệt! Thật là mệt! Nhưng lại có cách nào hơn?
Người ta sống ở trên đời chính là sinh tồn, trưởng thành và
phát đạt trong sự giao thiệp với mọi người. Sự giao thiệp giữa người này người
khác này trong xã hội hiện đại sẽ dồn dập tới tấp và phức tạp chưa bao giờ có.
Người Trung Quốc cần học được việc cắt đứt cuống rốn thân thuộc có máu mủ huyết
thống, mang theo một trái tim đồng tình, tấm lòng nhân đạo, tấm lòng tuân theo
kỷ cương giữ đúng khuôn phép để đi lại giao thiệp với tất cả mọi người, nối liền
người này với người kia, cùng thương yêu, giúp đỡ nhau, cùng chung xây dựng
quan hệ nhân tế và bầu không khí xã hội hài hòa, làm cho đời người thông suốt
thuận lợi, tràn ngập vẻ ấm áp tình người.
2. Sự lúng túng của chí hướng
Con người hiện đại đang đứng trước một xã hội giống như ống
kính vạn hoa, nó biến ảo khôn lường khiến cho người ta phải rối mắt. Con người
hiện đại lại đều giống như con thiêu thân lao vào lửa, phải thoát khỏi quan hệ
gia đình huyết thống một cách vội vã để bước vào vũ đài lớn của cuộc sống xã hội,
để thi thố khả năng của mình. Cho nên người ta từ bé đã có rất nhiều chí hướng
và theo đuổi tất thảy đều đẹp đẽ đến chói mắt kinh người. Nhưng thật sự bước
vào xã hội, người ta mới phát hiện tất cả đều ác nghiệt, những lý tưởng và theo
đuổi vốn có ban đầu không những chỉ là một chuỗi bong bóng xà phòng xinh đẹp mà
thôi. Lúc đó người ta thật sự hiểu được cái lúng túng của chí hướng.
Ngô Minh đã từng trải qua gian nan vất vả không thể diễn đạt
bằng lời được, cuối cùng thông qua kỳ thi đại học giống như trận đánh giáp lá
cà lớn, đã bước được vào ngưỡng cửa đại học. Ngồi trong một lớp học rộng rãi
sáng sủa, dỏng tai lắng nghe các giáo sư có trí tuệ và học thức phong phú giảng
bài, anh đích thực cảm thấy hạnh phúc vô cùng.
Có một giáo sư họ Lý chuyên giảng về lịch sử thế giới là thầy
giáo Ngô Minh kính phục nhất, nghe bài của ông thật là một sự hưởng thụ: Lúc
như suối chảy róc rách, hết vấn đề này tiếp đến vấn đề kia nói ra lưu loát như
từ trong nguồn ùn ùn chảy ra, lúc như đẫm xanh vạn trượng trong suốt, học vấn
uyên thâm khôn lường, nhưng lại giảng giải từ nông đến sâu, lời văn dễ hiểu rõ
ràng rành mạch. Hơn thế, giáo sư Lý lên lớp trước nay không bao giờ mang theo
sách giáo khoa và bài giảng, mỗi lần giảng đều ung dung từ trong túi áo móc ra
nhiều tấm phích, lại cố ý dùng tay ép ép mái tóc gọn ghẽ, mắt sáng như đuốc
nhìn thẳng vào hàng trăm đôi mắt ở dưới bục giảng đang khao khát tìm kiếm tri
thức, bắt đầu từ từ giảng.
Mỗi lần gặp buổi giáo sư Lý lên lớp giảng, Ngô Minh nghe như
dại như say, vở ghi cũng ghi chép hết sức tỉ mỉ. Lâu ngày, anh từ kính phục
phát triển đến ngưỡng mộ, từ ngưỡng mộ đến hướng về ông, sùng bái ông, cuối
cùng thì ngấm ngầm hạ quyết tâm: sau khi tốt nghiệp nhất định phải làm thầy
giáo, làm một thầy giáo giống như giáo sư Lý.
Một hôm, Ngô Minh ngẫu nhiên đi qua một tòa nhà lớn các thầy
giáo ở xen kẽ nhau, trong hành lang chật hẹp, bầy đầy các lò đun than quả bàng
của các gia đình, trên tường bị khói tích từ năm này qua năm khác hun thành một
màu đen xì, giữa ban ngày cũng đều phải bật đèn sáng mới có thể đi qua được.
Lững thững đang đi, Ngô Minh bỗng nhiên nhìn thấy thần tượng
trong lòng anh - giáo sư Lý khom lưng đang chọc tàn tro trong lò đốt than quả
bàng. Nhưng nhìn thấy ông đang mặc một chiếc áo kiểu cụ già, ở dưới chỉ mặc một
chiếc quần soóc vải xanh lam, lộ ra hai ống chân mảnh khảnh che đầy lông chân,
trên khuôn mặt gầy gò vẫn đeo một chiếc kính cận độ điốp cao, nhưng luôn luôn
phải rút ra chiếc khăn tay nhăn nheo để lau hơi nước bám ở trên đó.
Giáo sư Lý hoàn toàn chưa phát hiện ra người học trò quý mến
đứng ở bên cạnh, vẫn hết sức chăm chú vào việc xếp vỏ bào và các mẩu gỗ nhỏ vào
trong lò than quả bàng, sau đó cẩn thận nhóm lửa lên, từ trong thùng giấy ở bên
cạnh gắp ra những tảng than đóng thành bánh sẵn dùng cho gia đình, tính toán tỉ
mỉ xếp vào trong lò, lại dùng một chiếc quạt, dùng hết sức để quạt.
Lò than quả bàng trước tiên xông lên từng làn khói nồng nặc
làm cho giáo sư Lý đáng kính kia bị sặc phát ho và nước mắt nước mũi giàn giụa.
Không lâu, nhờ sức gió, trong lò xông lên một ngọn lửa sáng, chốc lát trên bức
tường đen thui hiện lên một cái bóng lớn thoáng qua của giáo sư Lý. Một lát
sau, những mẩu than bị ngọn lửa củi đốt cháy dần dần bị đỏ lên đến khi củi cháy
thành than tàn, các mẩu than lâng lâng hiện ra ngọn lửa xanh lè lù mù.
Giáo sư Lý nhìn đăm đăm vào ngọn lửa than hồng hồng, nở nụ cười
tự đáy lòng.
Giáo sư Lý đặt chiếc quạt cũ xuống, vòng tay về phía sau đấm
đấm vào lưng đau mỏi, thuận tay đặt lên lò một ấm nước, quay người đi đến chiếc
ghế ở bên lò than, từ trên thớt cầm lên một miếng thịt mỏng to bằng bàn tay cẩn
thận lật đi lật lại ngắm nghía hồi lâu, cuối cùng quyết định dùng dao cẩn thận
thái. Dao thái rất nhẹ nhàng, rất dịu dàng, tiếng dao lại rất gấp bách, thịt
thái ra từng sợi nhỏ như sợi tóc.
Khi tiếng dao thái ngừng lại, trên thớt bỗng chốc đã nhô lên
một đống sợi thịt.
Giáo sư Lý thảnh thơi được một hồi lâu, lùi lại sau một bước,
nhìn ngang nhìn ngửa thưởng thức, cười híp cả mắt lại. Ngô Minh ở bên cạnh nhìn
thấy tình cảnh đó, trong lòng tự nhiên thở dài một cái: Đời này vẫn là không
làm thầy giáo thì hơn.
3. Thắng hay thua?
Sáng sớm nếu bạn đi dạo ở công viên, quảng trường, cảnh tượng
hùng tráng nhất không gì hơn là trai gái, già trẻ xếp thành hàng lối đang luyện
tập các loại khí công, võ thuật và nhảy múa v.v... Ngày nay vô số người gần như
sùng bái các loại khí công một cách say mê, nào là Hương công, Mộc lan quyền,
nào là Mật công, Tam Thanh công v.v... Kéo dài tuổi thọ, trị bệnh chữa tật, lại
còn tránh tai khử họa, đã trở thành mục tiêu theo đuổi nhất trong một đời của
người Trung Quốc hiện đại.
Giả tiên sinh và vợ là bà Ngô cùng dạy học ở Đại học, giảng dạy
môn Lịch sử phát triển tư tưởng triết học Trung Quốc. Môn học này liên quan đến
tư tưởng phức tạp của mấy trăm nhân vật, xuyên suốt mấy ngàn năm phát triển lịch
sử quanh co khúc khuỷu, chải chuốt cho rõ ràng thực tế không dễ dàng. Nhưng hai
vợ chồng giáo sư sử dụng tới pháp bảo "Chủ nghĩa duy vật chiến thắng chủ
nghĩa duy tâm" thì tất cả mọi vấn đề hầu như đều có thể giải quyết dễ
dàng, tất cả mọi thắc mắc đều được giải đáp có đầu có đuôi.
ở thời kỳ Tiên Tần (tức trước nhà Tần), Giả tiên sinh chỉ ra:
"Có cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy tâm chủ quan Mạnh Tử là đại biểu với
chủ nghĩa duy vật Tuân Tử đứng đầu. ở thời Lưỡng Hán (tức Tây Hán và Đông Hán)
có cuộc đấu tranh của thuyết mục đích thần học Thiên nhân cảm ứng của Đổng Trọng
Thư với thuyết Nguyên khí tự nhiên của Vương Sung. Còn đến thời Tùy Đường đã nẩy
ra cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy tâm của Phật giáo với chủ nghĩa duy vật bài
Phật do Liễu Tông Nguyên, Hàn Dũ và Lý Cao là đại biểu. Đến thời kỳ Tống Minh
thì xuất hiện cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật của Trương Tải là đại biểu với
chủ nghĩa duy vật của Trình Hạo Trình Di và Chu Hy là đại biểu". Giáo sư
Ngô còn nói với các nghiên cứu sinh: "Thời Minh Thanh có sự quật khởi tư
tưởng của chủ nghĩa duy vật của Vương Phu Chi và Đái Chấn, tiến hành phê phán
sâu sắc đối với tất cả mọi chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử, đã hoàn thành lịch
trình phát triển triết học cổ đại Trung Quốc.
Vị giáo sư chỉ nói lèo tèo vài lời, vậy mà đã nói mạch lạc rõ
ràng sự phát triển tư tưởng của mấy ngàn năm, các học sinh cảm kích đến mức im
lặng chỉ cúi đầu vào ghi chép, và tự nhiên đã tạo dựng được một niềm tin vững
chắc: Lịch sử của tư tưởng triết học Trung Quốc chính là lịch sử của chủ nghĩa
duy vật đấu tranh sống mái với chủ nghĩa duy tâm và giành được thắng lợi vẻ
vang.
Hai vị giáo sư Giả và Ngô rất hài lòng đối với sự nhận thức của
học sinh, đã cho điểm cao trong bài thi không chút do dự.
Đông đến hè qua, mấy chục năm đã trôi đi, hai vợ chồng giáo
sư từ tuổi thanh niên tràn đầy lòng hăng say, rồi tuổi trung niên con đường học
vấn đều trôi chẩy, rồi sắp sửa về già, cuối cùng đã đến tuổi nghỉ hưu. Làm thế
nào để an dưỡng tuổi thọ thiên nhiên trở thành một vấn đề mới mà hai vợ chồng
giáo sư cùng quan tâm. Vừa đúng lúc đó, trong xã hội dấy lên đợt sóng rầm rộ
luyện Mộc lan quyền, tập khí công, hai vợ chồng giáo sư rất nhanh chóng đã trở
thành tín đồ trung thành và người thực hiện khí công dưỡng sinh.
Giả tiên sinh thích nhắm mắt luyện khí trước máy thu hình,
còn bà Ngô thì kiên trì sáng sớm đi ra khỏi nhà hít thở khí ban mai, buổi tối ở
nơi đồng không mông quạnh hít thở khí buổi tối để tăng việc gây nguyên khí
trong cơ thể, làm thông kinh lạc. Kết quả là sức công của bà vợ tiến triển
nhanh chóng chẳng bao lâu bà Ngô đã bước vào giai đoạn kỳ diệu "tịch cốc".
"Tịch cốc" có nghĩa ra sao? Pháp sư Đạo giáo cho rằng,
trong cơ thể con người có "Tam trùng", một ở trong đại não, một ở
"Minh đường", còn một thì ở "Phúc vị" (Bụng và dạ dày),
chúng đều dựa vào các loại ngũ cốc để tẩm bổ, khiến cho người ta sinh ra dục vọng
thế tục mãnh liệt, là tai hại của việc kéo dài tuổi thọ cần phải dùng "tịch
cốc", tức dùng cách không ăn các đồ ăn (thực phẩm) để xua đuổi nó. Bà Ngô
đã bồi kết nguyên khí, làm thông kinh lạc, thậm chí có thể làm như cái thai, chỉ
ăn uống khí trong cơ thể, do đó bèn có thể thực hiện cách "tịch cốc".
Hơn mười ngày trở lại, hàng ngày bà chỉ ăn bốn loại: 1 quả quít, 1 quả chuối
tiêu, 1 quả cà chua, 1 quả táo, cũng không ăn bất cứ thức ăn chín nào của nhân
gian nữa.
Giả tiên sinh đầu tiên đối với bản lĩnh cao cường của bà vợ tỏ
ra khâm phục sát đất, hầu như muốn bỏ tập quán luyện công ở trước máy thu hình
của mình, học tập theo bà vợ. Nhưng sau đó lại nghĩ, không đúng, không đúng.
Ông trịnh trọng nói với vợ: "Hãy dừng lại, dừng lại, chúng ta đã giảng dạy
một đời chủ nghĩa duy vật thắng chủ nghĩa duy tâm, mà bà lại không ăn không uống
"vật chất" như thế, chỉ ăn uống "khí gì, chẳng phải chính là chủ
nghĩa duy tâm đánh bại chủ nghĩa duy vật ư?".
Bà Ngô đang nhắm mắt ngồi nghiêm trang, hai tay nâng lên nâng
xuống dịu dàng, nghe thấy tiếng nói liền mở to hai mắt nói: "Ông vẫn giảng
một đời chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm mà đến đạo lý "khí" là
vật chất chứ không phải là tinh thần đều không hiểu ư? Tôi không ăn các thứ,
nhưng ăn "khí", việc đó chẳng phải đang nói lên rằng chủ nghĩa duy vật
có thể hoàn toàn chiến thắng chủ nghĩa duy tâm sao?".
Giả tiên sinh lúng búng chẳng nói nên lời, bà Ngô theo thường
lệ ăn một quả chuối tiêu làm bữa ăn trưa.
4. Hữu phận vô duyên và hữu duyên vô phận
Nếu có "Thượng đế" thì sản phẩm kỳ diệu nhất của
ông ta phải là tình yêu của nam nữ: Người ta có thể âm thầm yêu nhau, cũng có
thể yêu nhau sôi nổi. Có thể là yêu của tâm hồn và thể xác, cũng có thể chỉ là
yêu của tinh thần. Có thể là yêu của tâm hồn tương tư một bên, cùng có thể là
yêu lấy được của hai tình cảm cũng vui. Có thể là yêu rất ngây thơ của đôi bạn
thơ ấu, cùng có thể bất kể đến tuổi tác chênh lệch quá nhiều, địa vị cao thấp,
khu vực xa gần, thân thiết yêu nhau một cách bất chấp tất cả.
Nhưng nam nữ yêu nhau đến mức thân hết chỗ nói sẽ có khả năng
đột biến đến thù nhất hận nhất, thậm chí dần dần gây thành bi kịch ở trần gian.
Anh Lưu là một công nhân tốt, thông minh hay làm, luôn luôn được lãnh đạo phân
xưởng coi trọng. Anh ta dáng người cao, khuôn mặt góc cạnh rõ ràng, là dạng người
có khí chất nam nhi được các cô gái yêu thích. Cô Ngô làm việc cùng một phân xưởng
với anh, xinh đẹp, hoạt bát đã từ lâu ngầm để mắt đến anh. Anh Lưu khí phách mạnh
mẽ, tự nhiên đối với niềm vui của nam nữ cũng hướng về cô ta, rất nhanh hai người
cùng rơi vào yêu đương và đã vụng trộm ăn nằm với nhau. Nhưng anh Lưu vẫn cảm
thấy mình với cô Ngô tính cách và sở thích không ăn ý lắm, giữa họ với nhau
không có cảm giác ý hợp tâm đầu.
Ở phân xưởng bên có cô Vương, người rất xinh đẹp, tính tình
điềm đạm lịch sự, một dịp ngẫu nhiên cô đã quen với anh Lưu. Anh ta cảm thấy
cánh cửa yêu nhau thật lòng của nhân gian đã hé mở với anh, họ có thể chuyện
trò với nhau hàng vài tiếng đồng hồ không hề biết mỏi mệt, một ánh mắt, một động
tác nho nhỏ, phía bên kia đều có thể hiểu ý tứ chứa đựng ở trong đó, hai người
đã nẩy sinh tình cảm sâu xa gắn bó keo sơn, không phân bên này bên kia.
Anh Lưu tham dự kỳ thi đại học, và chỉ một lần đã trúng tuyển,
nhận được giấy báo về, anh mang theo niềm vui sướng đi đến nhà máy làm một ca
cuối cùng. Vui quá hóa buồn, sau khi mở máy chạy, anh vẫn dùng vải lau để lau
chùi, bánh răng liền cuốn vải lau vào, vải lau lại quấn lấy tay anh, bốn ngón
tay đều bị máy cắt đứt.
Nằm ở bệnh viện, anh Lưu nước mắt lưng tròng, liền xé luôn giấy
báo nhận vào đại học. Hai cô gái lần lượt kẻ trước người sau đến thăm, không hề
để ý đến bàn tay tàn tật của anh, vẫn giữ tình cảm sâu sắc như trước. Ban đêm,
ánh trăng trong sáng chiếu qua cửa sổ xuống trước giường bệnh, anh Lưu mở to đôi
mắt, mất ngủ. Xét về tình cảm anh Lưu càng nghiêng về cô Vương hơn, anh cảm thấy
thật sự đạt được đỉnh cao nhất của việc nam nữ yêu nhau với cô. Nhưng xét từ hiện
thực, anh đã chung chăn chung gối với cô Ngô, có trách nhiệm đạo nghĩa đối với
cô.
"Chao ôi!" Anh Lưu thở dài sườn sượt nói: "Tôi
và cô Vương là hữu phận vô duyên, mà với cô Ngô là hữu duyên vô phận rồi!"
Anh Lưu và cô Ngô kết hôn, không bao lâu sinh được quý tử, cuộc
sống vợ chồng rất yên ổn. Nhưng anh Lưu vẫn cảm thấy có khoảng cách về tình cảm,
vẫn say mê đối với cô Vương.
Cô Vương được biết người mình yêu đã kết hôn, vô cùng đau khổ,
bất đắc dĩ cũng bắt đầu tìm người yêu. Cha mẹ, anh và em gái trong nhà, lãnh đạo
và đồng nghiệp ở đơn vị thu xếp việc này rất nhiệt tình, đã gặp hơn mười chàng trai,
nhưng cô Vương đều cảm thấy không bằng anh Lưu của cô, không thể phát triển
quan hệ hơn. Một hôm, sau buổi ca đêm cô Vương và anh Lưu tình cờ gặp nhau trên
đường có bóng cây, đối mặt nhau mà lúng búng không nói nên lời, mà ánh mắt lại
luôn luôn trao đổi tình cảm nồng thắm như xưa, tâm hồn từ gặp nhau, hỏi han
nhau đến hai bên lại thu nhận, hòa hợp, cuối cùng thì hòa thành một khối.
Từ đó, họ lại bắt đầu yêu trộm nhớ thầm nhau, hẹn hò luôn
luôn, tình ý triền miên. Một ngày không lâu tiếng đồn truyền đến tai cô Ngô đã
là vợ của anh Lưu, cô ta mới đầu hoàn toàn không tin, cô ta yêu chồng đến như
thế, làm sao có thể xẩy ra sự việc đó được? Một đêm, cô ta đi theo sau chồng, tận
mắt nhìn thấy cảnh thân mật của hai người, cô không thể không tin nữa. Cô ta giận
đến run người, muốn tóm lấy hai người họ rồi làm ầm lên một phen, nhưng đành
nén lại nên thôi.
Ngày hôm sau, cô ta mặt bình thản như thường, chờ cho chồng
đi làm, đưa con đi học. Buổi trưa, cô đun sôi một ấm nước to trên bếp, xách đến
phòng ngủ, nhằm vào anh Lưu đang ngủ say tưới cho một mẻ, không hề để ý đến anh
Lưu kêu la thảm thương nữa. Cô cảm thấy anh Lưu là người mình yêu nhất, mà mình
không thể giữ được, thế thì cũng không thể khoanh tay nhường cho người khác một
cách tốt lành hoàn toàn.
Tình cảm nam nữ trong nhân gian là "chung" nhất:
hai bên có thể bỏ ra tâm hồn và thể xác, cả đến những gì quý giá nhất. Việc yêu
nhau của nam nữ trong nhân gian lại là "riêng" nhất" hai bên
hoàn toàn chiếm hữu và có, không cho phép người ngoài chấm mút xà xẻo dù chỉ là
một chút.
Đây chính là chỗ hết sức lạ lùng của âm với dương, đực với
cái và nam với nữ.
5. Cách "quan sát sinh ý"
Phóng mắt nhìn thế gian, những người không hiểu rõ cái lý của
sinh mệnh thực tế là hơi đáng buồn. Nhiều người lúc nào cũng bận rộn vào việc
phân biệt: Trước tiên đêm phân biệt rõ người và vật (như núi sông đại lục, cỏ
cây thực vật), cho rằng người là một loại chất hữu cơ, có sức sống của sinh mệnh,
còn vật thì không có sinh mệnh, là một chất vô cơ. Thứ nữa thì nhìn người và
thú vật có sự khác biệt một trời một vực, người là một loại động vật cao cấp,
loài thú tuy cũng có sinh mệnh, nhưng lại là động vật bậc thấp. Tiến thêm nữa
chính là đem phân biệt "tôi" và "anh ta", cho rằng tôi là
tôi, còn anh ta là anh ta, tôi và anh hoàn toàn khác nhau, khác nhau rõ rệt thậm
chí như nước và lửa không thể dung. Dùng thế giới quan và nhân sinh quan như thế
để đối nhân xử thế, cùng tiếp xúc với vạn vật, đâu có thể không cố tình cướp đoạt
tài nguyên thiên nhiên? Đâu có thể không sát hại sinh linh không chút băn
khoăn? Lại đâu có thể không giành giật nhau một mất một còn trong xã hội.
Do đó, tôi nghĩ đến cách của cái gọi là "quan sát sinh
ý" của Chu Đôn Di đề xướng, nó có thể dùng để loại bỏ màng ngăn cách giữa
người và vật, thành trì giữa người với người, làm cho dòng sinh mệnh hợp thành
một khối, tạo dựng nên nhân sinh quan sinh thái và thái độ xử thế.
Cái gọi là "quan sát sinh ý" tức là thản nhiên lặng
lẽ quan sát núi sông đại lục, từng ngọn cỏ, từng bụi cây và sức sống dạt dào của
từng con vật ở trong đó, từ trong vạn vật phơi phới đi lên, đua nhau sinh trưởng,
biến hóa vô cùng thấm nhuần được đức hiếu sinh của trời đất và lòng nhân nhân
ái của vũ trụ bao la. Từ đó, xem xét lại bản thân con người lần nữa hiểu được
trời đất, vạn vật, người và ta đều là một khối, đều là sự hiện rõ của sinh mệnh
tự nhiên, không có trở ngại và hố ngăn cách. Nhà hiền triết Kim Khê Tượng sơn
tiên sinh có câu: "Vạn vật dầy đặc trong một tấc vuông", "vạn vật
đều có sẵn trong ta", như vậy thì làm sao có sự phân biệt vật ta, người
này người kia? Đạt được giới hạn này cũng sẽ trở thành ông thánh có tấm lòng rộng
lớn.
Thời Bắc Tống có hai anh em Trình Hạo và Trình Di cùng theo học
với nhà đại Nho Chu Đôn Di. Lâu ngày, họ phát hiện thấy trước cửa sổ nhà thầy
giáo cỏ dại mọc um tùm, rất không gọn gàng sạch sẽ, hơn nữa thầy giáo vẫn thích
một mình đứng trước cỏ cây trầm ngâm suy nghĩ. Một hôm, hai anh em cố gắng mạnh
dạn hỏi: Vì sao không nhổ hết cỏ rậm đi? Thầy giáo vê vê chòm râu trả lời:
"Giống ý của mình".
Hai anh em suy nghĩ hồi lâu mới vỡ lẽ ra: bản chất của vũ trụ
là "sinh sinh chi đức", trời đất vừa sáng tạo ra vạn vật lại vừa nuôi
vạn vật lớn lên, một ngọn cỏ một bụi cây, một con sông một ngọn núi, một con
người một con vật không cái nào là không hiện rõ đức hiếu sinh của trời đất, về
kết cục và nguồn gốc đều là một. Do vậy, những bụi cỏ ở trước cửa sổ nhà Thầy
giáo không nhổ đi chính là để "quan sát sinh ý" - Đức hiếu sinh của
trời đất, điều đó không chính là ý của mình ư?
Về sau, Trình Hạo là anh đã chừa bỏ được thú cưỡi ngựa đi săn
bắn. Mấy chục năm sau người em là Trình Di trở thành thầy dạy học của vua - Giảng
dạy ở Sùng Chính điện. Một hôm nghe tin Hoàng đế không nỡ làm thương hại con kiến
ở trong chậu rửa mặt, liền nói: Bệ hạ nếu có thể lấy lòng nhân ái sinh vật này
mở rộng tới khắp mọi nơi, ắt có thể trở thành vương đạo. Lại một lần khác, giảng
bài xong, Hoàng đế đi dạo trong vườn ngự thuận tay bẻ một cành liễu, Trình Di
trông thấy, liền đi về phía trước can ngăn: Lúc này đang là lúc cảnh xuân tươi
đẹp, vạn vật đều đua nhau sinh trưởng, tràn ngập sức sống không thể bẻ gãy nó.
Năm 1061, Chu Đôn Di đi đến Kiều Châu nhận chức Thông phán.
Trên đường qua Lư sơn, thấy bên dưới chân núi có dòng suối trong, nước chảy róc
rách, phong cảnh đẹp đẽ thanh tú, không tránh được nhớ tới Khe Liêm của quê
hương, thế là liền dựng một lều tranh ngay bên cạnh suối nước biếc, lại còn đặc
biệt viết bốn chữ Liêm Khê thư đường.
Con người bình thường trong trạng thái thiếu thốn vật chất,
không tránh khỏi mặt ủ mày ê, để tìm được con đường làm thay đổi nó, người ta
phải hao tâm tổn sức chiếm lấy và cướp đoạt đối với vật chất. Còn nhà Nho thì bằng
lòng với cái nghèo trong sạch, lấy ăn no mặc ấm mà không xa xỉ làm "đại
phú", lấy khang ninh mà không làm quan làm "đại quý", do đó
tránh được nỗi đau khổ bám đuổi vô cùng tận mà người bình thường do bị ham muốn
vật chất và nhục dục sai khiến nên mắc vào. Chỉ có như thế mới có thể tĩnh tâm
để đọc các sách mình yêu thích, ung dung lặng lẽ ngồi nhìn cảnh đẹp của sông
núi, cầm kỳ thư họa, cùng nhau trò chuyện thơ văn với nhau, ung dung sống giữa
trời đất, dùng sinh mệnh nhỏ bé của mình hòa trộn vào trong sức sống vĩnh hằng
của thiên nhiên bao la thì sao lại không vui?
Đọc nhiều sách cổ, tôi không tránh được cũng muốn bắt chước
các bậc hiền triết thời xưa đi "quan sát sinh ý". Một hôm, trời vừa tảng
sáng tôi liền từ Nông xá dạo bước đi ra, vượt qua từng dãy nhà ngói, bước trên
một con đường xi măng nhỏ ngoài đồng sau làng. Bỗng nhiên những thứ che chắn tầm
mắt đều không còn nữa, những nơi rất xa mà mắt vẫn nhìn tới, mấy trăm mẫu đất
lúa mì nhấp nhô hiện ra trước mắt, tinh thần của tôi hết sức phấn chấn vì nó.
Sống ở thành phố lâu, tai nghe tiếng người tiếng xe ồn ào, mắt
nhìn không quá mấy mét, vì bị các công trình kiến trúc che chắn. Còn đặt mình
trong cánh đồng trải ra bằng phẳng này, tầm nhìn mở rộng khác thường, liên tiếp
từng làn sương cuồn cuộn bay lượn, khác nào như đặt mình vào cảnh tiên, mùi vị
mà mũi ngửi được là hỗn hợp của mùi thơm mát của tiểu mạch, mùi tanh tanh của
bùn đất và mùi khói bếp nhạt, khiến tôi tâm hồn nhẹ nhõm. Mảnh đất này rõ ràng
là người ta đã cần cù canh tác hàng trăm hàng ngàn năm, dần dần san bằng các ngọn
núi, rồi cải biến chất đất, cuối cùng biến thành mảnh đất cạn phì nhiêu.
Nhưng nhìn thấy tiểu mạch đang nhuốm vàng đón gió nhẹ nhàng
đang nhấp nhô như làn sóng, vài đám ruộng bông non xen lẫn vào giữa, thân cây
nho nhỏ nhú lên hai lá tròn tròn, thân thiết ôm choàng lấy ánh nắng ban mai,
không khí trong lành ngon ngọt và những giọt sương óng ánh, một dáng dấp đầy thỏa
mãn và hạnh phúc. Xa xa chim đỗ quyên bắt đầu hót không biết mỏi, những thanh
âm trong trẻo trầm bổng trên cánh đồng xanh biếc mãi mãi không ngớt. Rất nhiều
loại côn trùng nhỏ bò đi bò lại, bận tíu tít không ngừng, thật là một cảnh xanh
tươi và sinh động bày ra trước mặt.
Tôi tập trung tư tưởng suy nghĩ, sức sống vạn vật tràn trề,
toàn bộ những điều kỳ diệu của vũ trụ bao la chẳng phải đã bày ra trong dòng
sinh mệnh lớn hợp lại thành một khối tại đây ư?
Tâm hồn tôi trở nên trong trẻo, những bước chân của tôi bất
giác chậm lại, cuối cùng tôi ngồi trên một bờ ruộng, cảm thấy một cách sâu sắc
cái tâm của trời đất trong thầm kín - "sinh sinh chi đức". Vạn vật và
con người chẳng phải đều là sự bày ra lòng yêu nhân từ của nó sao? Người ta nếu
như chân thật đem sinh mệnh của mình hòa vào trong dòng sinh mệnh lớn này, thì
làm sao có thể làm tổn hại, giày xéo, phá hoại mọi vật của tự nhiên được? Lại
làm sao có thể lừa gạt lẫn nhau, đấu đá lẫn nhau gây nên vô số tranh chấp của
con người và xã hội?
Đây chính là trí tuệ của cuộc sống và triết học sinh tồn của
cách "quan sát sinh ý" có thể cống hiến cho loài người.
6. Ở "nhà lao"
Trên mảnh đất trống cỏ mọc um tùm, những hố nước trũng xuống,
rác rưởi bừa bộn, ban lãnh đạo nhà trường đưa ra quyết tâm phải xây dựng một
tòa "nhà hùn vốn", hay gọi bằng cái tên đẹp hơn là: nhà nước xuất ra
"cái chính", nhà trường dồn "một ít", tư nhân tập trung vốn
"một số". Do tính tích cực của việc điều động xuất vốn của cả ba bên,
nên tòa nhà ở rất nhanh đã đặt móng.
Những giáo viên và viên chức tham gia hùn vốn mong ngóng
trông chờ mỏi mắt, từng tầng từng tầng của tòa nhà lớn nổi lên khỏi đất. Nhiều
người hàng ngày phải vừa đi dạo vừa xem, trông về phía những bức tường lớn bằng
gạch nung cùng với xi măng cát sỏi ở trước mặt, nhìn kỹ khoảng không gian kia sẽ
thuộc về mình, trong lòng đang tính liệu tiến hành tổ chức như thế nào "tổ
ấm yên vui" ngọt ngào như từ nơi không xa đang vẫy gọi!
"Toà nhà hùn vốn" so với kế hoạch cũ đã kéo dài gần
một năm, nhưng vẫn tính là đã hoàn thành, mọi người đã tránh được một trận
"hỗn chiến" lớn giữa người này người nọ có thể gây ra và tệ biếu quà
kiểu "tù mù", xấu xa đen tối do việc phân chia nhà thường gặp trước
đây, bởi vì dựa vào việc bỏ vốn ra bao nhiêu, thời gian bỏ vốn dài ngắn, nhất
là cấp bậc hành chính cao thấp của mọi người, nên phân nhà ở rộng bao nhiêu mét
vuông từ lâu đã được phân chia xong trên bản vẽ.
Ai nấy đều gạt đi cái sốt ruột bao lâu chờ đợi và kêu ca phàn
nàn, vui mừng hớn hở, mọi nhà tổng động viên, bận rộn mời thợ đá, thợ nề, thợ
kính thủy tinh, thợ ống nước v.v... và v.v..., ra sức tính toán kỹ càng sửa
sang lại các gian phòng. Có nhà đem toàn bộ các cửa sổ bằng gỗ vốn lắp sẵn lấy
đi, đổi thành các cửa sổ kính màu khung hợp kim nhôm phẳng lì nhấp nháy ánh
sáng. Có nhà đem phá bỏ tường ngăn trong phòng làm thay đổi toàn bộ vị trí
không gian trong nhà, có nhà thì đem quét lại một lớp sơn mới lên trên lớp sơn
vốn có của phòng làm cho nó hoàn toàn đổi mới.
Mấy năm ngóng trăng ngóng sao, nguyện vọng ở nhà mới cuối
cùng đã thực hiện. Các giáo sư và viên chức đã nhờ học trò và mượn nhân công đến
khuân vác đồ đạc dọn vào nhà mới.
Người ta đứng mãi ở chỗ ở mới đang tỏa ra mùi sơn mới, mở những
chiếc cửa sổ kính màu, đưa mắt nhìn xa về phía bãi cỏ xanh mơn mởn lớn trong
khuôn viên trường, hít thở từng hơi, từng hơi không khí tươi mát, trong lòng
trào lên cảm giác ngọt ngào, trong mấy năm đã phải bỏ ra sức lực và tiền bạc,
giờ đây tất cả hầu như đã được đền đáp lại.
Buổi tối, sau khi xem hết chương trình truyền hình ở phòng
khách rộng rãi thoáng đãng, người ta trở về phòng ngủ mới sạch sẽ, nằm trên những
chiếc giường đệm mút mềm mại, ngủ ngon lành khác thường, đến nằm mơ cũng không
thể hơn thế.
Không may đêm đó, kẻ trộm trèo lên mái che mưa cửa sổ, dùng
dao cạy cửa nhà mới, trong một đêm ăn trộm liền năm nhà. Những phòng khách bố
trí lịch sự tao nhã bị lục tung lên, các đồ gia dụng mới bày đặt bị cạy tả tơi
hết, mất tiền mất của không thể đếm xuể.
Sáng hôm sau mọi người dậy, người bị mất trộm nhìn thấy tình
cảnh này, ngây người ra như tượng gỗ, căm giận đến cực độ. Những người chưa bị
mất trộm ùn kéo đến an ủi xóm giềng, nhưng nhìn thấy cảnh tượng lộn xộn này,
tim tự nhiên cũng đập thình thình, ngầm cho là may mắn!
Bỗng nhiên, tất cả mọi người đều lấy lại được tinh thần, nhao
nhao chạy thẳng đến cửa hàng bán đồ sắt. Thời gian đến giữa trưa, trên con đường
xi măng nhỏ trước "tòa nhà hùn vốn" này đã xếp một dãy dài những lan
can sắt vừa mới mua về. Các công nhân bận rộn, còn các giáo viên và viên chức
thì đang lần lượt phối hợp, cho mãi tới lúc ráng chiều hiện ra ở phía chân trời,
thì các cửa sổ rộng rãi sáng sủa của hơn mười nhà được lắp lan can sắt các kiểu
dáng mới xong. Sau khoảng một tuần lễ, hầu như toàn bộ các cửa sổ của tòa nhà
này đều hoàn toàn thay đổi, tất cả đều lắp lan can sắt lên, không chỉ có cửa sổ
mà cả cửa lớn cũng đều đổi thành cửa sắt.
Ngày nay nhìn lại "tòa nhà hùn vốn", từng dãy từng
hàng, lan can sắt mỗi cái một kiểu hầu như đã kéo dài vô hạn, người ta mở cửa sổ,
chỉ có thể nhìn phong cảnh qua khe hở của các thanh sắt, đây đâu phải là nhà ở,
rõ ràng là một nhà giam!
Nhà ở mới hầu như đã biến thành lồng nhà lao của người ta, mà
đây chính là tự tay mình tạo nên!
Bi kịch của đời người hiện đại là ở chỗ: Vô số thông tin giới
thiệu với mọi người hàng hóa và phục vụ kiểu cách đổi mới vô cùng tận, gây nên
khát vọng ham muốn mạnh mẽ của người ta. Song hiện thực là phũ phàng, tài
nguyên có hạn, năng lực và điều kiện của mỗi người cũng khác nhau, cho nên dục
vọng của con người thật sự có thể thỏa mãn có thể nói là ít ỏi. Đa số người có
thể bình tĩnh tiếp nhận sự thực này, ghìm nén ham muốn vật chất để cân bằng với
năng lực của mình. Nhưng vẫn có một số người ham muốn vượt quá xa khả năng và
điều kiện của họ có thể giành được, thế là liền bí quá hóa liều, dùng thủ đoạn
phi pháp để mưu cầu tiền tài, từ đó dần dần gây nên hiện tượng tội phạm phổ biến
người ta khó mà đối phó. Mọi người đành đem mình nhốt vào trong cái "lồng
nhà lao" một cách gượng ép.
Điều đáng buồn của đời người hiện đại còn ở chỗ: công việc bận
rộn, lĩnh vực vô cùng nhiều, thông tin dồn dập mỗi người mỗi ý không bao giờ ngớt,
khiến cho mọi người mệt nhoài ra, sự thờ ơ giữa người này với người kia ngày
càng nghiêm trọng. Sự ác liệt của cạnh tranh xã hội, sự thờ ơ lạnh nhạt giữa
con người càng làm cho lòng người sinh ra sợ hãi, người ta khao khát chốn
"tịnh độ" (cực lạc) tuyệt đối an toàn yên ổn. Do vậy, người ta tự
nguyện nhốt mình trong không gian bao vây bởi những thanh sắt, tấm sắt, cửa to,
cửa nhỏ, tường gạch và bê tông cốt thép, thông qua truyền hình để tiến hành đối
thoại hư ảo với xã hội, sống một cuộc sống giả không động chạm tới vật thực.
Đây rõ ràng là: nhà mới vừa xây xong, lồng nhà lao cũng khánh
thành, người ta cam tâm tình nguyện tự do chọn làm "tù nhân".
7. Dòng sinh mệnh
Một ngày đầu mùa hạ, tôi và anh Tuyết Sánh kết bạn đi lên miền
Bắc, dưới sự hướng dẫn của ông Phó Tế Phong, chúng tôi đến thị trấn Cảng thành
phố Thụy Xương, nhìn nước sông Trường Giang bao la mịt mùng. Nhưng thấy một con
rồng lớn vàng óng từ phía chân trời xa xa lao về phía đông. Hai bên bờ sông cây
xanh soi bóng, thỉnh thoảng có những chiếc xe chở hàng chạy qua kéo theo những
đám bụi vàng nổi lên. Một chiếc tàu cuốc cát bên sông thỉnh thoảng thả xuống
chiếc gầu cuốc to tướng, nước sông chảy xiết lập tức đẩy nó đi xa đến hai, ba
mét. Các loại tàu chở hàng, tàu khách cùng với những chiếc thuyền nhỏ chạy bằng
động cơ đi lại như mắc cửi, hoạt động kiếm lời của thế tục đã khiến cho con
sông này chịu đựng tải trọng quá nhiều quá nặng, sông Trường Giang tràn đầy chất
thơ mộng dưới ngòi bút của người xưa như đã mất đi tự bao giờ, đi mãi không bao
giờ trở lại!
Tôi đứng lâu ở một dốc núi nhỏ bên bờ sông, bất chấp trời nắng
chang chang trên đầu, gió sông phe phẩy, cảm xúc bật ra trí nhớ, trên mặt sông
liên tiếp từng làn dập dềnh không dứt, tiếp đến thời kỳ Tam Quốc, rõ ràng nhìn
thấy Tào Mạnh Đức, Lưu Hoàng Thúc và Tôn Trọng Mưu dẫn thiên binh vạn mã kéo đến
hai bờ Trường Giang, áo giáp giáo sắt, khói lửa chiến tranh. Lại liên hệ đến thời
cuối Thanh, mang máng như Đại soái thư sinh Tăng Quốc Phan chỉ huy vô số dũng
sĩ vùng Tương mấy lần bỏ thuyền đổ bộ lên thị trấn Cảng dưới chân tôi đây, đã
đánh nhau vất vả với quân Thái Bình, đã nhiều lần chiến bại, lại có thể nhiều lần
bại, nhiều lần xông lên. Suy nghĩ kỹ một chút chỗ tài giỏi, chỗ hơn người của
ông họ Tăng chính là ở chỗ ông không chỉ là một người vũ dũng mà ông còn là một
thư sinh xem đủ kinh Thi kinh Thư, có đầu óc quản lý nữa. Do đó, nguồn tư chất
về tinh thần còn to lớn mà kéo dài hơn nhiều so với sức mạnh vật chất, giống
như nước sông Trường Giang mênh mông cuồn cuộn này ở trước mắt, tiếp tục truyền
thống văn hóa mấy ngàn năm, ùn ùn không ngớt, chảy tuôn muôn dặm.
Ngủ lại ở một thôn nhỏ ngoại thành Thụy Xương, đêm ở nông
thôn tĩnh mịch, thỉnh thoảng bị những tiếng còi tàu và tiếng ầm ầm của tàu hỏa
chạy phá tan. Đêm không ngủ được, mặc cho ý nghĩ bay lộn trong không trung. Tôi
luôn cảm thấy Trường Giang nước chảy cuồn cuộn không ngớt là tượng trưng sức sống
thịnh vượng của dân tộc Trung Hoa, cũng là nguồn sinh mệnh của người Trung Quốc.
Trong dòng chảy không ngừng của nó, không biết đã chứa bao nhiêu sự kiện lịch sử
làm rung động lòng người, đã cuốn theo biết bao nhiêu cuộc ly hợp buồn vui của
nhân gian. ở đáy sông sâu không thể dò đã chôn vùi biết bao nhiêu hài cốt của
anh hùng hào kiệt, chứa đựng bao nhiêu máu, nước mắt và mong đợi.
Tất cả đều qua rồi! Nhưng sự phong lưu chốn nhân gian đời đời
kế tục, không có lúc nào kết thúc, không có ngày ngừng lại, đây chẳng phải
chính là dòng sinh mệnh ư?
8. Mong cầu vật chất là như thế
Người ta sống ở đời, e rằng việc mong cầu vật chất, được hưởng
vật chất, điều khiển vật chất là nội dung quan trọng nhất. Bởi vì con người có
thể tiếp tục sinh tồn hay không là do có thể giành được thức ăn hay không quyết
định. Con người có thể sống được rất thoải mái hay không cũng do có thể chiếm
được tư liệu sinh hoạt nhiều hơn, tốt hơn hay không quyết định. Con người có thể
có quyền lực cực lớn, tùy ý chỉ huy nhiều người hay không thì phải xem họ có thể
điều động vật chất và tài nguyên của xã hội được hay không quyết định. Cho nên,
trong quá trình của cuộc đời, có vật chất, nhận được vật chất nhiều hơn trở
thành mục tiêu mà hầu như mỗi người đều miệt mài theo đuổi. Nhưng đòi hỏi quá mức,
người ta thường sinh ra tâm lý sùng bái mù quáng đối với vật chất, lấy vật chất
không phải là để dùng mà là để tích trữ, mong cầu vật chất không phải được giá
trị sử dụng của nó để cải thiện đời sống, mà là giữ vật chất làm sự thỏa mãn về
tâm lý. Thế là, người ta không sử dụng vật, ngược lại bị vật sử dụng và khống
chế. Việc đó chính gọi là con người bị vật nô dịch.
Ngô tiên sinh và Lưu tiên sinh là láng giềng cùng ở một đơn
nguyên, Ngô tiên sinh ở tầng hai, Lưu tiên sinh ở tầng năm. Hai người thường gặp
nhau ở cầu thang, cùng chào hỏi nhau vài câu, lịch thiệp nhã nhặn với nhau trở
thành cái gọi là "người quân tử giao tiếp nhạt như nước lã" (Quân tử
chi giao đạm như thủy).
Lưu tiên sinh có một chiếc xe đạp Phượng hoàng mới khoảng tám
mươi phần trăm, hàng ngày không ngại gian khổ vác lên vác xuống, hơn thế mỗi lần
đi xe lại phải dùng giẻ lau chùi từ đầu đến đuôi hết sức cẩn thận, sau đó lại
dùng dầu bóng bôi lên một lần nữa. Gióng chính của khung xe quấn thành những
cái tua dài thêu bằng chỉ đen, các bộ phận như chuông xe và ghi đông cũng có một
vài đồ trang sức nhỏ xinh đẹp. Lưu tiên sinh làm xong những việc này, lùi lại
sau một bước, giơ vòng tay về phía sau đấm đấm vào lưng đang mỏi, nhìn chiếc xe
bóng loáng bày ra trước mắt, cười một cách vui vẻ. Sau đó lại khom lưng, dùng
vai vác chiếc xe, khó khăn từng bước từng bước đi lên tầng năm.
Một lần, Lưu tiên sinh lau chùi xe xong, đang chuẩn bị làm việc
chuyển đi, Ngô tiên sinh ra khỏi cửa trông thấy thế liền buột miệng nói:
"Không biết là xe hầu hạ ông? Hay là ông hầu hạ xe?"
Lưu tiên sinh ngoái đầu lại nói: "Ông không hầu hạ xe,
thì làm sao xe hầu hạ ông được?" Rồi cúi xuống vác xe chuẩn bị lên lầu.
"Là ông cưỡi xe? Hay là xe cưỡi ông?" Ngô tiên sinh
lại nói.
Lưu tiên sinh thản nhiên trả lời: "Ông không để xe cưỡi,
làm sao có thể có xe cưỡi được?" Một hôm, khi Lưu tiên sinh vác xe không cẩn
thận bị sẩy chân ngã trên cầu thang. ở bệnh viện, ông sờ cái đầu băng bó đang rất
đau đớn, lo lắng hỏi người nhà: "Cái xe đạp ra sao, không việc gì chứ?"
Việc đầu tiên của Lưu tiên sinh sau khi khỏi bệnh ra viện lại
là vác chiếc xe xuống lầu, ngắm nghía tỉ mỉ. Nan hoa bị cong và ghi đông bị vẹo
đi người nhà đã nhờ thợ sửa chữa và điều chỉnh từ lâu. Nhưng Lưu tiên sinh thấy
có mấy đám sơn đen bị bong rơi đau lòng mãi, đã dùng giẻ lau đi lau lại mãi, lại
lấy dầu bóng bôi lên, hòng che lấp mấy vết hằn này.
Ngô tiên sinh vừa lúc từ trên tầng hai xuống, hỏi một cách
quan tâm: "Ông ngã không việc gì chứ?"
"Không sao, không sao cả", Lưu tiên sinh không cầm
nổi lòng, day day vào chỗ đau ở sau gáy nói: "Ông xem, xe của tôi không bị
hỏng một tí nào".
Ông dùng một tay khác nắm chặt lấy chỗ bị tróc sơn, nói một
cách hết sức kiêu hãnh.
9. Gió lay động hay là phướn lay động
Từ thư phòng đơn giản của tôi ở Lầu Thần du nhìn thẳng ra
ngoài, mùa hè của Nam Xương oi bức đã tấp tểnh bước tới. ánh nắng gay gắt chỗ cửa
sổ như chọc vào mắt, trong Lầu Thần du thì sóng nóng như thiêu. Bạn bè xung
quanh bốn bề tới tấp bị dọn đi, các hộ ở ngôi nhà ký túc xá học sinh cũ này phải
dọn đi tất cả, tin thúc ép tôi nườm nượp kéo đến, rất phiền lòng. Nhưng bình
tĩnh, lại cũng được hưởng dụng vô cùng. Bởi vì những tiếng ồn ào ở hành lang và
ở bên cạnh trước đây, tiếng va chạm của nồi xoong bát đũa, lại còn mùi khói mùi
mỡ của cơm và thức ăn v.v... đến nay cũng đều không nghe thấy, không ngửi thấy
nữa, Lầu Thần du đã trở thành nơi thật sự có thể thần du với đúng tên của nó, mặc
dù cách đây không lâu tôi suýt nữa mất nó.
Tập trung tâm thần, chuyên tâm vào sách vở, ngao du trong
lĩnh vực vô bờ bến của tinh thần, mọi sự việc phiền phức của thế tục có thể
không nghe không hỏi, chỉ có tâm hồn tỏa ra toàn bộ vẻ yên tĩnh, phong phú và sức
hấp dẫn của nó. Đến đây tôi bắt đầu tin truyền thuyết có liên quan với Đại hòa
thượng Tuệ Năng không bịa chuyện vu oan cho người khác.
Câu chuyện này nói là ở thời nhà Đường, người sáng lập Nam
thiền là Tuệ Năng vân du đến chùa Pháp Tính của Quảng Châu, trong chùa nhiều
hòa thượng đang tập trung tinh thần nghe pháp sư ấn Tông giảng kinh Niết Bàn. Bỗng
nhiên, một cơn gió mát thổi qua, vải phướn trước tượng Phật lay động mãi không
thôi. Một hòa thượng đang ngồi trong đó nói: "Đây là phướn đang lay động".
Một hòa thượng khác thì nói: "Không phải thế. Đây là gió lay động".
Hai người tranh luận mãi không ngớt, không ai thuyết phục nổi ai. Tuệ Năng
không nhịn nổi liền đi lên phía trước nói: "Không phải gió lay động, cũng
không phải phướn lay động, mà là lòng của hai vị đang lay động!".
Lời nói nhẹ nhàng như truyền trí tuệ làm cho người khác tỉnh
ngộ, lại như hết sức mới lạ, mọi hòa thượng đều bừng tỉnh ngộ.
Các hòa thượng bừng tỉnh đương nhiên là tính vĩnh hằng và
tính siêu việt theo đúng như phép Phật. Tôi chờ đời con người trong thế tục có
thể tỉnh ngộ một chút điều gì đây? Chúng ta cần phải phân tách thế giới vật chất
của hiện thực với thế giới tâm lý của tinh thần ra một chút, mặc dù hai cái
liên quan mật thiết với nhau, nhưng chúng ta lại có thể giữ vững khoảng cách của
hai cái. Trong hiện thực có thể quan sát được một số việc như sau: thiên tai
nhân họa, khó khăn gian khổ đôi khi không đè ngã nổi thể xác của con người,
trái lại là phá hủy tinh thần của con người. Vết thương lòng to lớn xé ruột xé
gan đó, sự cụt hứng sau khi tinh thần hoàn toàn bị đánh đổ đó, sự im lặng như tờ
của mọi ý nghĩ đều tắt đó sẽ mang đến cho loài người bao nhiêu thảm họa nặng nề.
Lúc đó, sao chúng ta không vận dụng cách phân ly thế giới tinh thần và vật chất
kiểu Tuệ Năng một chút?
Thảm họa trong hiện thực, đương nhiên chúng ta phải cố gắng
làm nó tiêu tan. Nhưng khi đột nhiên gặp phải tai họa mà sức người không thể
làm thay đổi, thì chúng ta phải nên giữ được khoảng cách của thế giới tinh thần
và thế giới thực tại, dùng sự hòa hoãn và yên tĩnh của tâm hồn giảm nhẹ đau khổ
của thể xác, lấy dũng khí và kiên nghị về tinh thần chiến thắng thảm họa, cuối
cùng giành lấy hạnh phúc của đời người.
Các tiền nhân của dân tộc Trung Hoa đã trải qua vô vàn chiến
loạn, thiên tai và nhân họa, trong điều kiện tự nhiên khốc liệt, đã sinh sôi và
phát triển không ngừng, năng lực hàn gắn vết thương đó, trí tuệ tuyệt vời tìm
đường sống chống cái chết đó, tinh thần tự lập, tự cường và phấn đấu không mệt
mỏi đó, đến nay vẫn là kỳ tích trong lịch sử văn minh nhân loại. Trong những
cái này đương nhiên cũng có tác dụng của trí tuệ sống của cách phân hai thế giới
tinh thần và thực tại.
Khi chúng ta chìm nổi trong thế gian mênh mông không có một
cái gì để nương tựa, khi chúng ta đối mặt với vận mệnh bi thảm không có cách
nào làm thay đổi, chúng ta có thể thông qua "phòng tuyến" xây dựng
trên tâm lý để tiến hành một lần chống trả anh dũng, chúng ta cũng có thể trong
lĩnh vực tinh thần thâm thúy vô bờ bến nghỉ ngơi ngắn một chút, để được bổ
xung, sau đó lại đối mặt với thảm họa của xã hội và đời người lần nữa, dũng cảm
bơi tới bờ bên kia của hạnh phúc.
10. Người không dễ dàng
Xã hội ngày nay, cái gì cũng đều không thần thánh, cái gì
cũng đều có thể làm giả. Giá trị hỗn loạn, quan niệm đa dạng, hơn kém đẹp xấu,
tốt xấu khó phân biệt, khiến cho con người hiện tại đều có thể đòi người ta làm
một số việc hầu như không thể làm được. Vì lợi ích của mình, người ta có thể vứt
bỏ hết bất cứ nguyên tắc, luật lệ nào, thậm chí bất chấp cả lương tâm, mà lại mở
hết cửa thuận tiện, thế là nhiều người như cá gặp nước, không từ một việc xấu
xa nào, cái gì cũng có thể làm.
Nhưng, trên đời này vẫn có một giáo sư họ Từ hoàn toàn không
thế.
Giáo sư Từ dạy đại học mới đó mà đã hơn ba mươi năm. Giáo sư
nghiên cứu học vấn không chút cẩu thả, quanh năm suốt tháng, đến bạc đầu vẫn
theo đuổi đến cùng với kinh sách. Ban ngày ông lục tìm tài liệu trong đống sách
của thư viện, buổi tối thì khêu đèn gạt mồ hôi như tắm, hoặc đọc sách nghiên cứu
tỉ mỉ, hoặc cầm bút viết bài. Thành quả đã xuất bản của giáo sư không nhiều,
thường vài năm mới có một luận văn ra đời, nhưng một bài đã viết ra là không có
bất cứ điều gì phóng đại, tràn đầy sự hiểu biết sâu xa của cá nhân, phát ra những
điều mà những người đi trước chưa hề phát biểu, gợi ý cho những người sau những
điều chưa hề biết. Còn về trước tác, một đời giáo sư Từ cũng chỉ xuất bản có một
quyển sách, nhưng là kinh động lòng người, không người nào có thể thay thế,
trong lĩnh vực này không người nào dám đứng ngang ông. Do đó, danh tiếng của
giáo sư ngày càng tăng cao trong giới học thuật.
Đứng trên bục giảng, ông giống như một vị đại tướng chỉ huy
thiên binh vạn mã, lưng đứng thẳng tắp, hai mắt sáng quắc, thỉnh thoảng vung vẩy
chiếc que thô sơ bằng tre. Đứng trước hơn hai mươi học sinh ở phía dưới bục giảng,
ông lúc thì nghênh ngang đắc ý giọng lên bổng xuống trầm, tiếng nói vang vọng
khắp nhà, lúc lại nhắm chặt hai mắt, tiếng khe khẽ. Các học sinh có lúc ngơ
ngác nhìn nhau, trong lòng cảm xúc nói: Thầy giáo đã hoàn toàn chìm đắm trong
ranh giới tươi đẹp tự mình tạo nên.
Giáo sư yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với học sinh, ở trên lớp
không cho phép xuất hiện bất cứ tạp âm nào, không cho phép người nghe giảng thiếu
tập trung chú ý, càng không cho phép học sinh có các động tác nhỏ như chụm đầu
thì thầm, nháy mắt ra hiệu. Khi thi càng hoàn toàn không nể nang, 59 điểm là 59
điểm[2], thêm 1 điểm cũng không cho phép. Bài làm dù có trả lời tốt đến mấy,
cũng không nên ước mong quá đáng giành được điểm đủ dưới ngòi bút của giáo sư Từ.
Lâu ngày, các học sinh khâm phục cộng với sợ đối với thầy giáo, hoàn toàn không
dám nói bậy làm bậy. Người chăm học, ở trên lớp được thưởng thức tỉ mỉ bài giảng
hay tuyệt vời mà hàm chứa ý sâu xa của giáo sư. Kẻ không chăm học cũng trố hai
mắt không dám đứng ngoài cuộc nhìn, nhiều nhất cũng chỉ "thần du"
trong đầu một chút, mà không dám có một chút buông thả.
Trong lớp có một học sinh được mọi người công nhận là đầu sỏ
nghịch ngợm nhất, bướng bỉnh nhất, mặt trơ trán bóng nhất. Lúc bình thường, anh
ta đối với ai cũng đều cười cợt nghịch ngợm, đánh nhau, không từ một lời nào
không nói, không từ một việc nào không làm, nhưng đặc biệt duy nhất đối với thầy
Từ thì anh ta sợ như sợ cọp, tôn trọng như thần minh. Một hôm tan học, anh ta
chuồn ra khỏi lớp trước tiên, vội vàng bước vào buồng vệ sinh muốn đi tiểu,
giáo sư Từ cắp cặp bài giảng cũng bước vào cửa. Người học sinh đáng thương này
vừa nhìn thấy giáo sư Từ, thần kinh căng thẳng, tiểu tiện liền đái không ra, bí
đái đến mức đỏ chín cả mặt. Giáo sư Từ không hề để ý, hoàn toàn không cảm thấy
có điều gì không thỏa đáng, chậm chạp đặt cặp sách xuống, đi tiểu, rửa tay rồi
mở cửa bước ra.
Nhân sinh học và tinh thần nhân sinh
Chương này là phụ lục, về nội dung khác với những chương trước,
chủ yếu là từ lý thuyết giải thích vấn đề nhân sinh. Sau khi tiếp nhận hàng loạt
những vấn đề nhân sinh tượng trưng cụ thể của lịch sử và hiện thực, bạn đọc cần
suy ngẫm sâu thêm một số vấn đề có tính lý luận có liên quan với nhân sinh, điều
đó có thể mở rộng tầm nhìn, mở mang chí khí, vượt lên giới hạn mới của đời người.
Chương này bàn ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu nhân
sinh học trước mắt của Trung Quốc, nêu lên mấy vấn đề nhân sinh học Trung Quốc
cần phải giải quyết, đồng thời chỉ ra con đường phát triển của nhân sinh học
Trung Quốc. Đương nhiên, đây đều là hiểu biết nông cạn của tác giả, bạn đọc
cũng có thể sau khi đọc đưa ra phán đoán của mình đối với những vấn đề này, nêu
lên cách nhìn của mình. Chương này cũng tiến hành giải thích có tính khái quát
đối với năm vấn đề lớn trong quá trình đời người, hy vọng có thể cung cấp cho bạn
đọc một số gợi ý bổ ích.
Cuối cùng, chương này còn chuyên giới thiệu và nhận xét đối với
ý tưởng nhân sinh, theo đuổi nhân sinh và con đường nhân sinh của Văn Thiên Tường,
hy vọng bạn đọc có thể thu nhận được từ trong đó những điều có ích.
Mỗi người đều có sinh mệnh, đều phải sinh tồn và sinh hoạt, đều
nên có cuộc đời vẻ vang của mình. Nhưng chỉ có những người có thể thường xuyên
xét lại sinh mệnh và sinh hoạt của mình, khiêm tốn học hỏi các nhà triết học bậc
thầy xưa và nay, trong và ngoài nước và thu nhận được gợi ý thực tế, mới có thể
mong đạt được mục tiêu này, đồng thời vượt qua được những trắc trở và khó khăn
trong cuộc đời, giành được hạnh phúc và cuộc sống suôn sẻ.
I - Suy nghĩ về mấy vấn đề trong nghiên cứu nhân sinh học
Trung Quốc
1. Ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu nhân sinh học Trung
Quốc hiện nay
Từ cuối thế kỷ 20 đến thế kỷ 21, do Trung Quốc sẽ lấy việc
xây dựng và kiện toàn cơ chế thị trường làm hạt nhân vận hành toàn xã hội, do
đó nằm trong một thời kỳ chuyển đổi lớn. Bối cảnh lịch sử này tất nhiên làm cho
tính quan trọng của việc nghiên cứu nhân sinh học của Trung Quốc nổi bật lên, đồng
thời làm cho nó trở thành môn "hiển học" trong nghiên cứu khoa học xã
hội toàn Trung Quốc.
Trước nhất là nhân sinh quan và mô thức nhân sinh truyền thống
làm như mấy ngàn năm xưa của Trung Quốc cơ bản đã mất, mà nhân sinh quan và mô
thức nhân sinh đã từng chiếm địa vị chủ đạo của Trung Quốc đương đại lại bị
thách thức nghiêm trọng. Trong lịch sử phát triển lâu dài của Trung Quốc, đã từng
xuất hiện nhân sinh quan truyền thống lấy giá trị quan của Nho gia làm hạt
nhân, trên cơ sở làm nổi bật của nhiều nhân sinh quan các nhánh khác, nó đã chiếm
địa vị thống trị hơn hai ngàn năm. Loại nhân sinh quan này lấy luân lý làm hạt
nhân, lấy việc thành "Thánh", thành "Hiền" làm mục tiêu, lấy
việc thực hành đạo đức làm nội dung của đời người, đối với người Trung Quốc
trong hiện thực để xét, nó có tính cuốn hút rất lớn, trở thành nhân sinh quan
và mô thức nhân sinh người ta tin phục và tuân theo hàng trăm hàng ngàn năm trở
lại đây.
Bắt đầu từ thời cận đại, loại nhân sinh quan này lại bị thách
thức nghiêm trọng: năm 1840, nó bị sự phê phán của vũ khí phương Tây. Phong
trào "Ngũ Tứ" năm 1919, nó lại bị phê phán có tính trí tuệ của tầng lớp
trí thức Trung Quốc sau khi tự kiểm điểm lại mình một cách lý tính. Năm 1968 nó
lại một lần nữa bị phê phán "phi lý tính" của việc "phá bỏ bốn
cái cũ", "phê phán Lâm Bưu phê phán Khổng Tử", cộng thêm với việc
phổ cập chữ Hán viết đơn giản hóa, việc đọc sách cổ dần dần trở thành việc của
các chuyên gia mới có thể làm được. Trong đủ mọi tình huống khiến cho nhân sinh
quan truyền thống Trung Quốc đã mất đi địa vị chủ đạo trong xã hội Trung Quốc
hiện tại, cũng mất đi giá trị chỉ đạo đời sống của mọi người, trong giáo dục
luân lý của gia đình nó vẫn lờ mờ có một chút hình bóng, nhưng trong đời sống
hiện thực, đại đa số người Trung Quốc đã rất xa lạ đối với nó.
Loại nhân sinh quan thứ hai đã từng chiếm địa vị chủ đạo
trong xã hội Trung Quốc là nhân sinh quan và mô thức nhân sinh của Đảng Cộng sản
Trung Quốc lấy chủ nghĩa cộng sản làm hạt nhân xây dựng nên, qua phong trào cải
cách ruộng đất, loại nhân sinh quan này nhanh chóng chinh phục được dân chúng
Trung Quốc. Qua chiến tranh "Chống Mỹ viện Triều", Trung Quốc đã làm
thay đổi địa vị đã từng bị các nước mạnh ức hiếp hàng trăm năm, từ đó làm cho
nhân sĩ tầng lớp trí thức Trung Quốc tiếp nhận nhân sinh quan này. Nhưng cuộc
"Đại cách mạng văn hóa" đến đã tạo nên sự phá hoại tương đối lớn đối
với nó, còn sau cải cách mở cửa năm 1978; trào lưu tư tưởng bên ngoài tới và
nhân sinh quan "đa cực hóa" của phương Tây ùa vào ồ ạt, đối với nó
cũng tạo nên xung đột. Trong xã hội Trung Quốc ngày nay, nhân sinh quan và mô
thức nhân sinh lấy chủ nghĩa cộng sản (thực tế tức "tinh thần Lôi
Phong" và tinh thần toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân) làm hạt nhân ngày
càng ý thức hình thái hóa, nền nếp và sức cuốn hút của nó đang giảm xuống một
cách nguy hiểm.
Thứ đến là, trước mắt Trung Quốc đang ở trong thời kỳ chuyển
dịch xã hội lớn, từ cơ chế kinh tế kế hoạch chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường,
việc phân phối tài nguyên sẽ chủ yếu do cơ chế thị trường điều tiết, việc này ắt
sẽ dẫn đến phát triển hình thức sở hữu đa cực hóa, dẫn đến tăng cường ý thức chủ
thể của con người, cũng ắt sẽ làm cho lĩnh vực và phương thức sinh hoạt của con
người đa dạng hóa, trên thực tế mỗi một người Trung Quốc đều đứng trước vấn đề
chuyển đổi và xây dựng lại nhân sinh quan. Tình hình khách quan này sẽ thúc đẩy
rất mạnh mẽ sự phát triển của việc nghiên cứu nhân sinh học Trung Quốc.
Thứ ba là theo hiện trạng của việc nghiên cứu nhân sinh học
Trung Quốc trước mắt để xét, nó đã lạc hậu quá nhiều với sự phát triển của hiện
thực xã hội, lạc hậu quá nhiều với thực tiễn sinh hoạt của mọi người. Đây không
chỉ do việc thảo luận nghiên cứu nhân sinh học của Trung Quốc bị nhiễu loạn của
nhân tố phi học thuật lâu dài, tính khoa học của nó không được làm nổi bật, do
đó cả một thời gian dài chưa thể trở thành một môn khoa học độc lập. Càng vì hiện
nay người nghiên cứu nhân sinh học ở Trung Quốc phần nhiều là người "chuyển
ngành", thiếu sự đào tạo về xã hội học có hệ thống, thiếu sự chuẩn bị kiến
thức về các mặt như văn hóa nhân loại học, hành vi học, tâm lý học. Trạng thái
lạc hậu của việc xây dựng khoa học cố nhiên làm cho người ta lo lắng, nhưng việc
đó lại là thời cơ và dịp phát triển khoa học nhanh chóng. Chỉ cần những nhà
nghiên cứu nhân sinh học Trung Quốc nhìn thẳng vào thiếu sót, cố gắng phấn đấu,
hình thành hợp lực, sẽ có thể đón được thời kỳ phát triển lớn của nhân sinh học
Trung Quốc. Đặc biệt là tính chất khoa học của nhân sinh học quyết định nó vừa
có tính lý luận rất mạnh, lại có tính hiện thực và tính thao tác rất mạnh, vì vậy
sự phát triển của nó chắc chắn sẽ được sự chú ý và hoan nghênh của nhân sĩ các
tầng lớp xã hội.
2. Nhân sinh học Trung Quốc muốn phát triển lành mạnh phải giải
quyết tốt năm vấn đề
Một là vấn đề quan hệ của nhân sinh quan với nguyên tắc luân
lý đạo đức. Hai là vấn đề quan hệ của nhân sinh quan với hình thái ý thức chính
trị. Cần phải nhìn thấy, sinh hoạt luân lý và sinh hoạt chính trị là bộ phận tạo
thành quan trọng của đời người, chúng thường tạo thành nội dung đời người chủ yếu
của một người, đồng thời hao phí phần lớn thời gian sinh tồn của người ta;
nhưng, chúng ta đồng thời phải ý thức được một cách sáng suốt rằng, sinh hoạt
luân lý và sinh hoạt chính trị chỉ là bộ phận tạo thành mà không phải toàn bộ của
đời người, chỉ là bộ phận quan trọng trong đời sống của một bộ phận người mà
không phải là bộ phận quan trọng trong đời sống của tất cả mọi người. Chỉ là bộ
phận quan trọng trong thời hạn sinh mệnh đặc biệt của một bộ phận người mà
không phải là bộ phận quan trọng của tất cả mọi người đều phải chuyên tâm trong
một đời. Về điểm này, chúng ta đã từng có bài học kinh nghiệm quan trọng. Như
trong những năm 50 và 60, con người được xem là "người luân lý", tất
cả mọi cái của đời người đều lấy nguyên tắc của luân lý để bồi bổ thêm, sinh hoạt
của con người hoàn toàn đạo đức hóa, kết quả là nội dung của đời người khô khan
nghèo nàn, tính phong phú của đời người bị chèn ép và bóp méo. Mà trong thời kỳ
cách mạng văn hóa mô thức nhân sinh của chính trị bao trùm lên tất cả, con người
sa vào "người chính trị", một đời người hầu như đều tràn ngập hoạt động
chính trị, vì mục đích chính trị, 800 triệu nhân dân đều là nhà chính trị. Việc
này tương tự cũng chèn ép các nội dung phong phú khác của đời người, việc bóp
méo đời người cũng do đó đạt đến mức độ khủng khiếp.
Do vậy, chúng ta cần phải phân biệt riêng sinh hoạt chính trị,
sinh hoạt luân lý và đời người, cho dù đời người có thể có tính chính trị, có
tính luân lý, nhưng chính trị hay luân lý chỉ là bộ phận tạo thành của đời người
chứ không phải tất cả, đời người có nội dung phong phú rộng lớn, không thể dùng
chính trị hoặc luân lý để che lấp toàn bộ đời người. Xử lý tốt những quan hệ
này, nhân sinh học tự nhiên sẽ từ chỗ bám vào luân lý học trong cả một thời
gian dài trước kia nay tách ra độc lập để thật sự trở thành một môn khoa học
riêng biệt, đồng thời đạt được sự phát triển cần có.
Thứ ba là vấn đề quan hệ của nhân sinh quan với nhân tử quan.
Người Trung Quốc chịu giới hạn của tâm trạng truyền thống, thường không muốn đối
mặt với tử vong, không muốn suy nghĩ đến tử vong, dù là khi có việc tử vong lớn
giáng xuống, cũng phải sắp xếp các việc như dùng pháo, tiệc rượu, "bạch hỷ
sự" để làm loãng bầu không khí của việc chết. Người thầy vĩ đại của Nho
gia Khổng Tử lại có lời dạy rõ ràng lưu truyền nghìn xưa: Vị tri sinh, yên tri
tử (không biết sống, sao biết chết) chọn thái độ tồn tại nhưng không bàn đối với
việc chết. Nhưng về thực chất, sống chết là định nghĩa lẫn nhau, không có sống
thì không có chết, không có chết cũng không có sống. Người ta chỉ có nhìn thẳng
vào chết, suy nghĩ về chết, luôn luôn cảm nhận chết, mới có thể thật sự đối diện
với sống, hiểu rõ sống và sống tốt hơn. Do đó, một người có nhân tử quan đúng đắn
mới có thể xây dựng nên nhân sinh quan hoàn chỉnh; thiếu mất nhân tử quan thì
không thể có nhân sinh quan chân chính, toàn diện. Từ việc kiến tạo khoa học để
xét, việc phát triển mạnh nhân sinh học Trung Quốc cần phải xây dựng trên nền tảng
phát triển của nhân tử quan, bằng không thì tính hoàn thiện và tính hữu hiệu của
khoa học đều sẽ chịu tổn hại rất lớn.
Thứ tư là vấn đề "chân không" của nhân sinh quan và
"rừng rậm" của nhân sinh quan cùng tồn tại song song.
Trong xã hội Trung Quốc hiện nay có nhiều người lấy "Vô
nhân sinh quan" (không cần có nhân sinh quan) làm nhân sinh quan của mình,
theo đuổi thứ triết học của đời sống như sống thỏa thích đến chết, đi theo cảm
giác, tự nhiên lịch sự một phen, tôi đem tuổi thanh xuân đánh cuộc với ngày
mai, thứ tồn tại thực tế này có thể gọi nó là "chân không của nhân sinh
quan". ở tình huống khác là xã hội Trung Quốc đang ở trong thời đại thực
hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa, mọi người không những chỉ có ý thức trước
hiện đại, cũng có ý thức hiện đại. Còn có ý thức sau hiện đại, cộng thêm việc
tuôn vào và khuấy động của các trào lưu tư tưởng phương Tây và đa cực hóa của
phương thức sống hiện ra, đã khiến cho mỗi một con người hầu như rất bé nhỏ,
thường nổ ra xung đột thế này thế kia. Tình trạng này có thể gọi nó là "rừng
rậm của nhân sinh quan". Hai hiện tượng mâu thuẫn đồng thời tồn tại song
song trong xã hội Trung Quốc, tạo nên đề tài lớn quan trọng của nhân sinh học
Trung Quốc cần đi sâu vào nghiên cứu và giải quyết. Trên thực tế xã hội phải
phát triển lành mạnh, người ta muốn giành được cuộc sống hạnh phúc cũng cần phải
giải quyết vấn đề quan trọng lớn này.
Thứ năm là vấn đề quan hệ của mặt có tính lý luận với mặt thực
dụng hóa của việc nghiên cứu nhân sinh học.
Việc nghiên cứu có hệ thống của nhân sinh học Trung Quốc bắt
đầu hơi muộn, nhiệm vụ ở phía trước lại nặng nề như thế, đương nhiên phải coi
trọng việc thảo luận nghiên cứu và xây dựng về mặt lý luận, nhưng đồng thời lại
phải gắn chặt với đời sống hiện thực, giải đáp hàng loạt vấn đề nhân sinh nêu
lên trong quá trình sinh hoạt của mọi người. Nhân sinh học nếu như không chỉ đạo
người ta xử lý như thế nào các vấn đề của đời sống, thì giá trị tồn tại của nó
sẽ rất đáng nghi ngờ. Do vậy, nhân sinh học phải nghiên cứu vấn đề "thiết
kế cuộc đời", chỉ đạo người ta nhận rõ tố chất bẩm sinh của mình (như trí
thông minh, hứng thú, tính tình) và điều kiện sau khi sinh (như giáo dục, gia
đình, hoàn cảnh), từ đó thiết kế cho mình tương lai nên đi theo con đường nào,
nên phát triển mình như thế nào, ở lĩnh vực nào mới có thể thực hiện tốt nhất
lý tưởng của mình, thi thố tài năng của mình. Nghiên cứu nhân sinh học còn cần
phải phát triển khoa học "Nhân sinh chẩn đoán học", nó giúp người ta
nhìn thẳng vào những trắc trở trên đường đời, hóa giải mọi phiền não, sốt ruột,
lúng túng và cả đau khổ, lo âu và thất vọng. Nhiệm vụ của nó còn ở chỗ làm tiêu
tan nỗi khó xử của đời người, uốn nắn đời người thuộc dạng bệnh trạng, để làm
cho người ta có thể vượt qua mọi trở ngại của đời người giành được cuộc đời hạnh
phúc.
3. Đối mặt với vấn đề nhân sinh phức tạp: Con đường phát triển
nhân sinh học Trung Quốc
Là một môn khoa học độc lập, nhân sinh học Trung Quốc còn
tương đối non trẻ. Là môn khoa học được sinh ra từ trong xã hội chuyển đổi,
nhân sinh học Trung Quốc lại gánh vác nhiệm vụ tương đối gian khó, đứng trước
thách thức của mọi vấn đề nhân sinh phức tạp mỗi người một ý kiến. Trong bối cảnh
này nhân sinh học Trung Quốc rút cuộc nên phát triển như thế nào?
Trước tiên phải coi trọng tài nguyên quý báu có liên quan vấn
đề nhân sinh trong nền văn hóa truyền thống của Trung Quốc có lịch sử lâu đời nội
dung phong phú nhiều màu sắc, dân tộc Trung Hoa lại lấy việc làm thực tế, chú
trọng cuộc sống hiện tại do đó nổi tiếng với đời, lịch sử mấy ngàn năm đã tích
trữ, tích lũy được những tư liệu tư tưởng nhân sinh, thực tiễn nhân sinh tương
đối phong phú. Đây là một kho báu to lớn cần được những người làm công tác về
nhân sinh học Trung Quốc khai thác, chỉnh lý và giải thích đến nơi đến chốn, để
cung cấp những trí tuệ tuyệt vời cho người Trung Quốc hiện đại và cả các dân tộc
trên thế giới suy nghĩ và giải quyết mọi vấn đề nhân sinh.
Ví như về vấn đề mô thức nhân sinh (kiểu mẫu đời người) trong
nguồn tư liệu văn hóa truyền thống của Trung Quốc sẽ có thể xem xét kỹ để phân
chia thành 6 loại:
Một là "đạo đức nhân sinh" (mẫu đời đạo đức) lấy tư
tưởng Nho gia làm cơ sở, cho rằng một đời của con người nên lấy việc nâng cao
giới hạn đạo đức của mình và chăm chú miệt mài thực hiện đạo đức làm toàn bộ nội
dung, bắt đầu từ "tu thân" đến "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ"
sẽ là con đường đời người ta phải đi qua. Đối mặt với tử vong, người ta cũng
nên từ ba thái độ bất hủ "lập đức, lập công, lập ngôn" để đối xử với
nó, thực hiện được vì lý tưởng đạo đức, nguyên tắc của đạo đức mà dũng cảm hiến
dâng mình, đó gọi là "sát thân thành nhân" (bỏ mình cho vẹn điều
nhân), "xả thân thủ nghĩa" (chịu chết cho trọn điều nghĩa).
Hai là "Chính trị nhân sinh" (mẫu đời chính trị) lấy
việc làm chính trị để thực hiện mục tiêu chính trị nào đó làm toàn bộ nội dung
của đời người, chủ yếu lấy tư tưởng pháp gia làm cơ sở. Cho rằng con đường làm
quan mặc dù là hiểm ác, quan trường tuy bẩn thỉu, nhưng quyền lực to lớn, chỗ
ngồi làm cho người đời sợ hãi vẫn đáng để người ta giành lấy. Vì vinh hoa phú
quý, vì thăng quan tiến chức trên hàng vạn người, người ta có thể lấy sinh mệnh
ra để đặt cược. Những người tin phục mô thức nhân sinh này, có nhiệt tình chính
trị cao, chính trị có nghĩa là sinh mệnh, tất cả mọi suy nghĩ, tất cả mọi điều
mừng giận buồn vui của đời người và cả mọi hạnh phúc và đau khổ của đời người
không có cái gì không triển khai xoay quanh chính trị.
Ba là "tiêu dao nhân sinh", chủ yếu lấy tư tưởng Đạo
gia làm cơ sở. Trong lịch sử có nhiều người nhìn thấu hồng trần, người vào đời
gặp trắc trở, thường thường quay ra gửi gắm tình cảm vào nơi núi sông, hướng tới
một cuộc sống không bị ràng buộc, thoát khỏi tất cả mọi ồn ào và phiền não của
thế gian, chuyên tâm hun đúc tinh thần, tính tình và tình cảm trở về với chân
thực mộc mạc, đây là môn học sinh tồn của những người ranh giới đời người tương
đối cao. Trong lịch sử còn có nhiều người hoặc thất bại trong khoa trường, quan
trường hoặc phá sản trong sòng bạc, trên thương trường, hoặc ngã lòng trong yêu
đương giữa trai gái, thế là cũng tuyên bố nhìn thấu hồng trần, đời quay về với
thanh vắng, khát vọng thoát khỏi sự ràng buộc của việc đời, sống một cuộc sống
tự do tự tại không gò bó, không tranh giành với ai.
Bốn là "hiệp nghĩa nhân sinh", chủ yếu lấy tư tưởng
của Mặc gia thời xưa làm cơ sở, là kiểu mẫu đời của những võ sĩ, hiệp khách và
các nghĩa sĩ theo đuổi. Họ chỉ cần trông thấy bất bình trên đường, liền muốn
rút dao giúp đỡ, vì chủ nhân (người chủ), ân nhân có thể đầu rơi máu chảy, nhảy
vào chỗ chết không sờn. Trong cuộc sống, họ giúp kẻ yếu kiềm chế kẻ mạnh, can
thiệp vào những việc bất bằng, cướp của kẻ giàu cứu người nghèo. Nhận định chuẩn
mực "nghĩa" nào đó cao hơn giá trị tồn tại của sinh mệnh, vì vậy có
thể khảng khái lao vào chỗ chết.
Năm là "tôn giáo nhân sinh" lấy tư tưởng Phật giáo
làm cơ sở. Người thực hiện kiểu mẫu đời này, đều xem tất cả mọi sinh hoạt của
kiếp này là cái nghiệp của kiếp trước, trong đời người lấy việc sùng bái tượng
gỗ làm nội dung chủ yếu, bằng lòng vì hạnh phúc của kiếp sau vứt bỏ mọi hưởng
thụ của kiếp này nên đi tới rừng sâu núi thẳm cần cù tu luyện làm điều thiện
tích đức, dùng giới luật nghiêm khắc kiềm chế thậm chí triệt hết tất cả mọi ham
muốn đời người của mình, cuối cùng lấy cái chết của thế tục để thực hiện đến
cõi Niết bàn của cửa Phật, đi tới "thế giới cực lạc ở phương Tây".
Sáu là "phóng đãng nhân sinh", lấy tư tưởng của
Dương Chu và thời Ngụy Tấn đã viết thành sách Liệt tử. Dương Chu thiên làm cơ sở,
theo đuổi triết học sinh mệnh là cực khổ và ngắn ngủi nên ăn chơi kịp thời, xem
thỏa mãn đầy đủ dục vọng là mục tiêu cuối cùng và nội dung chủ yếu của đời người.
Do đó, trong sinh hoạt biểu hiện thành ăn chơi thỏa thích,
thèm muốn hưởng lạc, thể xác phóng đãng, say mê tửu sắc, đời người được mấy tấc
gang. Sự ngắn ngủi của sinh mệnh và chết chóc luôn luôn đến gần, càng lộ rõ
tính quan trọng và bức thiết của việc thỏa mãn dục vọng của con người.
Nguồn tư liệu nhân sinh truyền thống của Trung Quốc cực kỳ
phong phú, cần phải gây được sự chú ý cao của các học giả nhân sinh học Trung
Quốc hiện đại đi sâu nghiên cứu, chúng có thể giúp chúng ta nhìn thấu rõ hiện
tượng nhân sinh hiện đại, có thể trở thành điều răn cung cấp cho chúng ta giải
quyết vấn đề nhân sinh phức tạp, cũng có thể chuyển hóa thành trí tuệ nhân sinh
cung cấp cho người hiện đại dùng ứng thế xử thế. Hơn nữa thảo luận nghiên cứu
nguồn tư liệu nhân sinh truyền thống Trung Quốc cũng là cơ sở vững chắc xây dựng
nhân sinh học, là mấu chốt bảo đảm đặc sắc nhân sinh học Trung Quốc.
Thêm nữa còn phải coi trọng nguồn tư liệu lý luận nhân sinh
và thực tiễn nhân sinh của phương Tây.
Lý luận nhân sinh và thực tiễn nhân sinh của phương Tây nội
dung phong phú, hình thức đa dạng, mà còn liên hệ hết sức chặt chẽ với việc
phát triển của thời đại và xã hội, tỏ ra biến đổi nhiều. Nhân sinh học Trung Quốc
muốn phát triển, muốn giải quyết tốt vấn đề nhân sinh phức tạp của thời đại hiện
nay thì cần phải nghiên cứu thảo luận một cách toàn diện mà tỉ mỉ những nét đặc
sắc khác nhau của lý luận nhân sinh phương Tây, những thái độ và quan niệm nhân
sinh khác nhau của các nhân sĩ trong và ngoài nước v.v... để tìm được loại nhân
sinh quan và mô thức nhân sinh nào đó có tính phổ biến trên thế giới, tăng cường
khôi phục lại, cống hiến cho tiến bộ của văn minh nhân loại.
Xét từ bản chất, lý luận nhân sinh của phương Tây về ý nghĩa
chân chính là chủ nghĩa nhân bản, mà lý luận nhân sinh Trung Quốc là chủ nghĩa
đạo bản. Lý luận nhân sinh phương Tây biểu hiện tinh thần nhân cách trên hết của
chủ nghĩa lý tính. Lý luận nhân sinh Trung Quốc thì biểu hiện tinh thần giương
cao nhân cách "cùng hợp ý với trời". Lý luận nhân sinh phương Tây có
tinh thần thể hiện sinh mệnh phi lý tính, lý luận nhân sinh Trung Quốc thì tỏ
rõ tinh thần tu dưỡng giới hạn nhân sinh. Lý luận nhân sinh phương Tây là lấy
"chết làm gốc", còn lý luận nhân sinh Trung Quốc là "xem cái chết
như không".
Mục đích của lý luận nhân sinh Trung Quốc và phương Tây khác
nhau, không có nghĩa là hai cái hoàn toàn công kích nhau, xung khắc nhau như nước
với lửa, hoàn toàn ngược lại, dùng lại ở sự phát triển của xã hội hiện đại,
loài người đang đứng trước nhiều vấn đề nhân sinh chung và giống nhau, do đó
hai bên hoàn toàn có thể cùng bổ sung, cùng ngấm và hòa hợp với nhau, cống hiến
tích cực cho việc sắp đặt sinh mệnh và xây dựng nhân sinh quan của con người hiện
đại.
Lý luận nhân sinh Trung Quốc lấy "đạo" sinh không
ngừng làm cơ sở tột cùng của giá trị đời người và lý luận nhân sinh phương Tây
tiến hành từng lớp từng lớp đào sâu đối với kết cấu tâm linh hoàn toàn có thể kết
hợp hữu cơ với nhau để hình thành con đường phát triển chung của lý luận nhân
sinh thế giới. Lại ví dụ như nhấn mạnh nhận thức lý tính, cần mẫn thăm dò quy
luật bên trong của sự phát triển thế giới là đặc sắc của lý luận nhân sinh
phương Tây, còn làm nổi bật tính hạn chế của bản thân lý tính, chú ý nhận biết
sự hài hòa kết cục của con người với tự nhiên thì là chỗ mạnh của lý luận nhân
sinh Trung Quốc. Sự kết hợp của hai bên giúp ích cho con người hiện đại trong
thực tiễn đời người cố gắng hết sức cứu sự phá hoại của lý tính tạo nên đối với
thiên nhiên và tâm linh nhân loại trong quá trình chinh phục thế giới bên
ngoài, từ đó đạt được sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người.
Lại như người hiện đại vừa tiếp nhận gợi ý của lý luận nhân
sinh phương Tây, đi sâu phân tích các tầng nấc tâm linh của con người, cảm nhận
những điều mới mẻ sinh mệnh của mình và nhân loại. Đồng thời lại cần học tập lý
luận nhân sinh truyền thống của Trung Quốc, chú ý bồi dưỡng và nâng cao ranh giới
sinh mệnh con người, thống nhất hài hòa tốt đẹp hai loại này chắc chắn sẽ làm
cho đời sống loài người càng hạnh phúc hơn.
Cuối cùng, sự phát triển nhân sinh học Trung Quốc còn dựa vào
việc sáng tạo mới lý luận của những người làm công tác nhân sinh học Trung Quốc.
Mấu chốt của việc sáng tạo cái mới này là ở chỗ đứng trên sự phát triển xã hội,
chính trị, kinh tế hiện thực thay đổi, đặc biệt là sự thực của kinh tế thị trường
xác lập, hấp thu nguồn tư liệu của lý luận nhân sinh Trung Quốc và phương Tây
phong phú sâu sắc, áp dụng phương pháp mới, tìm kiếm con đường mới, kiến tạo
các loại nhân sinh quan lành mạnh vừa phù hợp với sự phát triển toàn nhân loại,
lại thích hợp với sự phát triển của mỗi người, đồng thời dẫn dắt mọi người tiếp
nhận mô thức nhân sinh đúng đắn.
Theo tình huống hiện thực của Trung Quốc đương đại để xét,
trong quần chúng xã hội ít nhất tồn tại bảy loại mô thức nhân sinh khác nhau.
- Đời người màu đỏ: những người sống theo kiểu mẫu đời này,
có lý tưởng cao cả, có tinh thần hiến thân, tinh thần trách nhiệm xã hội và ý
thức đạo đức rất mạnh mẽ, vô tư giúp đỡ người khác, làm việc quên mình không kể
đến đền đáp thù lao.
- Đời người màu trắng: những người sống theo kiểu mẫu đời này
thiếu lý tưởng và mục tiêu đời người cụ thể, trong đời sống cũng không có những
nguyên tắc xác định nào cả, lấy không có nhân sinh quan làm nhân sinh quan của
mình, hành vi của họ ở mức độ rất lớn chịu sự chi phối của bản năng hoặc bị khống
chế của hoàn cảnh và điều kiện bên ngoài. Trong đó có một số người là người có
tố chất văn hóa rất thấp, căn bản không biết như thế nào là nhân sinh quan. Còn
một số người khác thì vì gặp phải trắc trở lớn trong đời, sinh ra chán nản, vứt
bỏ nhân sinh quan, bằng sự trống không đó của nhân sinh quan sống theo đuôi người
khác.
- Cuộc đời màu xám: những người sống theo mẫu đời này tuân
theo triết học nhân sinh ăn chơi kịp thời, sống thỏa thích đến chết, đem tuổi
thanh xuân đánh cuộc với ngày mai, không tiếc thời gian và sinh mệnh để giành lấy
sự thoải mái và vui sướng nhất thời. Cho rằng cái gọi là đời người vẫn là tự
nhiên lịch sự một phen trong thế gian, sống mà không thỏa mãn nhục dục không bằng
chết sau khi đã thỏa mãn nhục dục một thời.
- Cuộc đời màu da cam (vàng): những người sống theo mẫu đời
này, có lý tưởng và theo đuổi đời người rõ ràng xác định, nhưng họ lấy lợi ích
của cá nhân và sự yên vui của gia đình làm trung tâm, cái mà họ theo đuổi là
trên đường đời của mình thông suốt thuận lợi, gia đình giàu có hòa thuận, cá
nhân được tôn trọng, làm việc trôi chảy, quan vận may mắn v.v... Họ có quan niệm
đạo đức, cũng có tinh thần trách nhiệm xã hội nhất định, nhưng không vứt bỏ
danh lợi của cá nhân.
- Cuộc đời màu đen: những người sống theo mẫu đời này có tâm
lý tương đối đen tối. Họ căm ghét xã hội, căm thù người khác, không nhìn quen
cũng không muốn nhìn tất cả mọi thay đổi trong cuộc sống, đối với từng người,
ngay cả đối với mình đều bất mãn, tính cách buồn bực tức tối, hướng nội, hành
vi của họ có tính tùy tiện, tính chống lại xã hội, tính phá hoại.
- Cuộc đời màu tím: những người sống theo mẫu đời này giàu ảo
tưởng, đem hạnh phúc đời người gửi gắm vào tương lai hư ảo, tương đối bi quan đối
với hiện thực, tương đối thất vọng đối với năng lực sinh tồn của mình, có
khuynh hướng và hành vi "xuất thế"; là một mẫu đời thuộc dạng có suy
nghĩ nhưng không hành động.
- Cuộc đời màu xanh: những người sống theo mẫu đời này khát vọng
sự tĩnh mịch của tâm hồn, hướng tới hòa thành một khối với tự nhiên, theo đuổi
cuộc sống yên ổn vững chắc, mưu toan cắt đứt mọi quan hệ giữa người với người,
thoát khỏi tất cả mọi ràng buộc xã hội, phát triển đến tột độ, liền bỏ nhà xa đời,
hoặc khổ hạnh hoặc dốc lòng tu luyện để đổi lấy sau khi chết bước vào
"Thiên đường", muốn hoàn toàn thoát khỏi mọi phiền não của thế giới.
Xét thấy xã hội Trung Quốc đang nằm trong thời kỳ biến động lớn,
chuyển đổi lớn, phương thức sống, quan niệm sinh tồn và mô thức nhân sinh của mọi
người lại hiện ra xu thế đa dạng hóa, việc nghiên cứu của nhân sinh học Trung
Quốc hiện tại nhìn thẳng vào hiện tượng này và nhanh chóng đưa ra phản ứng ra
sao? Mấu chốt là phải giải quyết tốt vấn đề điều khiển khống chế của nhân sinh
quan và mô thức nhân sinh, mà hạt nhân là điều khiển quan hệ của "cái tôi
bé" với "cái ta lớn". Con người vừa là sự tồn tại của cái tôi
riêng vừa là sự tồn tại của loài, nhưng trước tiên là sự tồn tại của cái tôi
riêng. Bởi vì không có con người trừu tượng, có chỉ là Trương Tam, Lý Tứ cụ thể.
Cho nên, chỉ tồn tại nhân sinh quan, mô thức nhân sinh cụ thể, trong những cái
cụ thể này có thể bao hàm tính phổ biến, tính xã hội, tính nhân loại.
Do đó, một nhiệm vụ rất quan trọng của nhân sinh học Trung Quốc
ở Trung Quốc hiện tại chính là từ trong lý luận và thực tiễn đưa ra nhân sinh
quan và mô thức nhân sinh có tính xã hội và tính nhân loại, không bài xích
phương thức sinh hoạt của tôi riêng để tiến hành dẫn dắt, điều khiển khống chế
đối với mọi người toàn xã hội, khiến cho nhiều người tiếp nhận phổ biến, tự
giác dùng nó để quy phạm hóa cuộc sống của riêng mình.
Việc nghiên cứu nhân sinh học của Trung Quốc trước kia, và
môn triết lý nhân sinh mở phổ biến trong các trường đại học và chuyên nghiệp,
đã từng có tác dụng rất tốt, chỗ còn thiếu sót là ở chỗ, không đứng trên cơ sở
con người là cái tôi riêng hiện thực, cụ thể, đồng thời trên cơ sở đó để nghiên
cứu vấn đề nhân sinh, mà là xuất phát từ con người trừu tượng, con người của
tương lai và con người siêu nhân khiến người ta phổ biến cảm thấy huyền hoặc và
không hợp thực tế. Mặt khác, trong xã hội hiện thực lại có nhiều người theo đuổi
nhân sinh quan không từ thủ đoạn nào chiếm lấy lợi riêng, ra sức làm nổi lên
tính độc lập của con người, thậm chí dựa vào việc phá hoại hạnh phúc của người
khác và ổn định của xã hội để thỏa mãn ham muốn của một cá nhân mình. Đây lại
là một cực đoan khác - coi thường tính xã hội của con người và sự tồn tại của
loài - tạo thành bi kịch nhân sinh có tính xã hội.
Ngày nay, đòi hỏi bức thiết người làm công tác nhân sinh học
Trung Quốc vận dụng lý luận và thực tiễn của mình để giải quyết vấn đề này: vừa
phải thực hiện tự do của đời người tôi riêng, lại phải làm cho nó cùng thống nhất
với sự phát triển của quần thể và tiến bộ xã hội. Nhân cách lý tưởng của Thánh
nhân hoặc Chí nhân, Thần nhân được tôn sùng trong lý luận nhân sinh truyền thống
Trung Quốc nghiêng về con người trừu tượng hoặc siêu nhân. Từ trên phương diện
lý tưởng để xét, sự cao cả của lý luận đó làm cho người ta phải kính phục từ
đáy lòng, quy phạm chặt chẽ của chuẩn tắc của nó làm cho người ta phải khen để
mà nhìn thôi, ranh giới đời người tự mình hoàn thiện của họ làm cho người ta
khen mãi không ngớt. Nhưng trong hiện thực, ngoài một thiểu số có tài ngang dọc
mới có thể đạt được ra, đông đảo chúng sinh không thể nào theo được nó, kết quả
liền dẫn đến hiện tượng "miệng đầy nhân nghĩa đạo đức, nhưng lòng dạ đầy
những trai trộm cắp gái đĩ điếm"; Trong những năm 80 của thế kỷ 20, ở
Trung Quốc đã xuất hiện cao trào nghiên cứu nhân học, hạt nhân thảo luận nghiên
cứu là các vấn đề về nhân tính và bản chất của con người v.v... Cao trào nghiên
cứu nhân học này là những suy nghĩ chỉ trích việc chà đạp không thương tiếc đối
với nhân tính, nhân quyền, sự tôn nghiêm và tự do của con người trong cách mạng
văn hóa. Lần thảo luận này không nghi ngờ gì đã nâng cao được vẻ tôn nghiêm của
con người, giá trị của con người và tính chủ thể, tính độc lập của con người.
Nhưng thảo luận đến chót lại sinh ra một tệ hại khác, nhất là có một số người
hiểu phiến diện, khiến cho nhân sinh quan có tính phản xã hội và tính phản nhân
loại lưu hành trở lại. Những người này chỉ nêu bật tính cá nhân, tính đặc biệt
riêng, chỉ đòi hạnh phúc của riêng mình mà không đếm xỉa đến người khác và xã hội,
người theo đuổi kiểu sống này nhiều ắt sẽ nguy hại đến sự ổn định và phát triển
của xã hội.
Nhân sinh học Trung Quốc cần phải tổng kết kinh nghiệm lịch sử,
trên cơ sở hấp thu nguồn tư liệu lý luận nhân sinh truyền thống Trung Quốc và
lý luận nhân sinh phương Tây, dẫn dắt mọi người xây dựng nhân sinh quan và mô
thức nhân sinh hợp lý, vừa uốn nắn lại nhân sinh quan chỉ nhìn thấy tính trừu
tượng và tính xã hội của con người mà xem nhẹ tính cụ thể, tính tôi riêng của
con người, lại phải uốn nắn lại nhân sinh quan chỉ nhìn thấy tính cụ thể, tính
tôi riêng của con người mà không đếm xỉa đến tính trừu tượng và tính xã hội của
con người. Muốn cho hai bên thống nhất lại một cách hài hòa, làm cho xã hội
phát triển ổn định, cần phải bắt tay vào từ hai phương diện dưới đây:
Trước tiên phải cố gắng xây dựng cơ chế tìm hiểu và nối thông
tính đồng tình giữa các nhân sinh quan khác nhau và phương thức sinh tồn khác
nhau. Phải làm cho mọi người ý thức được rằng, do xã hội hiện đại biến đổi nhiều,
nguồn thông tin qua lại nhanh chóng và thuận tiện chưa từng có, một người trong
một đời quyết không thể chỉ tin theo và thực hiện một mô thức nhân sinh, mà là
nhiều loại mô thức. Hơn nữa, một người có thể đồng thời có nhân sinh quan khác
nhau để ứng phó với cuộc sống biến đổi ngày càng phức tạp. Tình huống này khiến
cho việc nghiên cứu nhân sinh học phải nhìn thẳng và thừa nhận hiện thực nhân
sinh quan và mô thức nhân sinh đa dạng hóa, cũng phải để cho quần chúng hiểu xu
thế như thế, từ đó biểu hiện sự đồng tình và hiểu đối với nhân sinh quan và mô
thức nhân sinh của người khác khác với của mình, khoan nhượng nó tồn tại, mà
hoàn toàn không cần cũng không nên mưu toan sử dụng một loại hoặc vài loại nhân
sinh quan nào đó tự cho là đúng đắn có tính chân lý mà đi bóp nghẹt nhân sinh
quan khác, để quy phạm cuộc sống của tất cả mọi người. Việc đó không chỉ là tốn
công vô ích, mà còn có thể gây nên sự xung đột và căng thẳng giữa người với
nhau và giữa xã hội.
Hai là với tiền đề thừa nhận nhân sinh quan và mô thức nhân
sinh có tính đa dạng cùng tồn tại, nhiệm vụ quan trọng của những người nghiên cứu
nhân sinh học là xây dựng lại nhân sinh quan và mô thức nhân sinh có tính phổ
biến và tính công cộng làm cho mọi người tiếp nhận và thực hiện, giữ được sự thống
nhất với sự phát triển toàn xã hội và mục tiêu sống của người khác, khiến cho
các loại nhân sinh quan và mô thức nhân sinh độc lập không đến nỗi sinh ra xung
đột kịch liệt. Việc này sẽ cần phải xây dựng một cơ chế hướng dẫn xã hội lớn mạnh,
làm cho nhân sinh quan và theo đuổi cuộc đời của cá nhân không làm cản trở hạnh
phúc của người khác và ổn định của xã hội. Cũng có nghĩa là phải dùng nhân sinh
quan và mô thức nhân sinh có tính công cộng, tính phổ biến để hướng dẫn mọi người
xây dựng thái độ sinh tồn đúng đắn, mà quyết không bóp chết nhân sinh quan và
mô thức nhân sinh vốn có của từng người.
II - Phân tích khoa học năm vấn đề lớn của đời người
1. Đời người là gì?
Từ xưa đến nay, con người đã giống như người khách qua đường
giữa trời đất, vội vội vàng vàng đi qua thế gian, vũ đài lớn này của đời người.
Các nhà triết học thì không ngừng suy nghĩ và xây dựng nên lý luận của họ đối với
đời người. Nhưng rốt cuộc đời người là gì, hầu như không có một định nghĩa nào
được mọi người thừa nhận phổ biến. Bởi vì trên đời không tồn tại thứ gọi là người,
chỉ có bạn, tôi, anh ta (chị ta) đang sống hoặc chết, tức con người của cá thể
đơn độc. Mặc dù con người đều sống trong xã hội, thuộc cùng loại, nhưng sự trải
qua của mọi người về thời gian và về không gian đều không thể đồng nhất, cơ
năng sinh lý của họ cũng không hoàn toàn ngang nhau. Cho nên đời người mà họ thể
nghiệm sẽ nhất định sai khác nhau rất nhiều, vì vậy cũng sẽ khó mà tạo thành một
quan niệm đời người hoàn toàn thống nhất nào đó, biểu hiện trên lý luận, đương
nhiên sẽ không có định nghĩa về đời người đồng nhất.
Do vậy, chúng ta chỉ có thể cho đời người một định nghĩa thuộc
phạm vi và lĩnh vực, mà không tài nào đưa ra một định nghĩa thuộc khái niệm. Vì
thế, chúng ta cũng chỉ có thể thảo luận nghiên cứu từng mặt của đời người, quá
trình và nội dung của nó, mà không thể đề ra một lý luận hoàn chỉnh của đời người
có thể quy phạm, chỉ đạo tất cả mọi người. Đương nhiên, con đường ảnh hưởng đời
người hiện thực của mọi người vẫn có, ví như phân tích kinh nghiệm đời người,
quá trình đời người và lý luận nhân sinh khác nhau trong lịch sử, đồng thời bày
ra cho người đời, từ đó khiến cho mọi người nhận được gợi ý, khi sắp xếp con đường
đời của mình có đối tượng bắt chước tham khảo, đây là ý đồ chủ yếu của bài này.
Trên thực tế, tác giả cho rằng, trước tiên phải biết đời người
không phải là gì, sau đó mới có thể hiểu rõ ràng đời người là gì.
Mọi người đều có sinh mệnh, nhưng sinh mệnh chính không phải
là đời người. Nguyên nhân rất đơn giản là, không những con người có sinh mệnh,
tất cả mọi sinh vật đều có sinh mệnh. Bản chất của sinh mệnh chẳng qua là hình
thái đặc biệt của thời gian trên thân thể sinh vật, thể hiện thành quá trình
thu hút, tiêu hóa, hấp thu và bài tiết đối với vật chất và sức sống của sinh vật.
Mọi người đều đang sống, nhưng đời người không hoàn toàn có
nghĩa là sống. Bởi vì những người có từng trải cuộc sống, thật ra không có
nghĩa là họ có đời người. Những người ngớ ngẩn bẩm sinh, những người thần kinh
không bình thường sau khi sinh và những người trong tình trạng hoàn toàn vô
tri, mặc dù cũng đều đang sống, thậm chí cũng có thể sống với mức sống giống
như người bình thường, nhưng họ thật ra không biết cuộc sống là gì, cần phải sống
ra sao, chỉ là chịu sự điều khiển của bản năng hoặc sự trợ giúp của bên ngoài để
sống, việc đó thậm chí không xứng với cuộc sống của con người chân chính, còn
nói gì đến đời người.
Đời người vừa không phải là sinh mệnh, lại không phải là cuộc
sống, thế thì nó là gì đây?
Xét về căn bản, đời người cần phải bao quát ba phương diện: Một
là con người không ngừng nhìn lại và cảm thấy đối với sinh mệnh và cuộc sống của
mình, là con người nắm chắc đối với lý tính và cảm tính một đời của mình. Hai
là lý tưởng và theo đuổi của con người và quan niệm cuộc sống, quan niệm giá trị,
quan niệm thẩm mỹ, quan niệm đạo đức của con người v.v... từ đó nảy ra. Ba là mọi
hoạt động hiện thực của đời người từ những quan niệm này dẫn đến, tức toàn bộ
thao tác của đời người.
Chúng tôi cho rằng, con người chỉ có luôn luôn không ngừng tiến
hành suy nghĩ lý tính đối với giá trị tồn tại của sinh mệnh và ý nghĩa cuộc sống
của mình, đồng thời trên cơ sở này xác lập lý tưởng và niềm tin của mình, chuẩn
tắc giá trị và cả thái độ sống của mình, mới có thể sinh ra hành vi của đời người
đúng đắn, từ đó mở rộng sự nghiệp của cá nhân, giành được thành công của đời
người, có được cuộc đời của mình.
Mỗi người bình thường đều nên có cuộc đời của mình. Bởi vì
con người không thường xuyên tự xét lại sinh mệnh và cuộc sống của mình, vứt bỏ
năng lực lý tính của mình, chỉ dựa vào bản năng ở đời, thế thì có khác gì với
sinh vật và động vật khác?
Cho nên, con người sẽ phải đem sự tồn tại sinh mệnh của mình
nâng lên sự tồn tại của đời người, đem quá trình của cuộc sống đặt vào độ cao của
nhân sinh quan tiến hành xem xét kỹ lưỡng, không ngừng tự kiểm điểm và tìm tòi,
từ đó luôn luôn uốn nắn phương hướng và tốc độ con tàu của cuộc sống, như thế mới
không đến nỗi sống uổng đời này, bỏ phí thời gian, cũng mới có thể sống hạnh
phúc, tăng thêm đầm ấm. Từ đó ta thấy, một người muốn có đời người riêng của
mình, mấu chốt ở chỗ phát huy năng lực lý tính và năng lực cảm ngộ, trong đó có
một vấn đề quan trọng là chịu thừa nhận và chuyển đổi của giá trị đời người.
Tác giả cho rằng, quá trình đời người có thể triển khai và tiến
hành trong phạm vi này: tri thức, tình cảm, lý trí. Đối với ba phương diện có
thể có cách nhìn khác nhau, nhưng đây đích thực là ba phương diện chủ quản đời
người và làm phong phú đời người. Tức có nghĩa là, muốn làm cho đời người có ý
nghĩa, thì cần phải có đủ ý chí lương thiện, tình cảm cao thượng hoặc hứng thú
cao thượng, sức phán đoán tỉ mỉ và tri thức rộng mà sâu. Ba mặt này cần phải được
hợp lại trọn vẹn với nhau một cách nhuần nhuyễn. Trong đời sống hiện thực, hiện
tượng tách rời, không ăn khớp của ba phương diện này thường thường xuất hiện. Một
người có tri thức uyên bác trong một ngành nghề, lại có thể là một người không
có chút đạo đức, hoặc là một người có hứng thú thấp hèn. Ví dụ như hiện nay
trên thế giới đang tồn tại nhiều hiện tượng lợi dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến
tiến hành tội phạm khiến cho mọi người đau lòng.
Trên ý nghĩa cao nhất, cần phải kiên trì nguyên tắc của đời
người là ưu tiên luân lý đạo đức. Một người chỉ có bẩm tính lương thiện, mới có
thể có tình cảm cao thượng. Dưới tiền đề này, tri thức có lẽ không là bảo đảm
cuối cùng của hạnh phúc đời người. Chúng ta không có học thức uyên bác cũng có thể
làm người. Nhưng nói tiến hơn một bước là, tri thức có thể làm cho nguyên tắc đạo
đức rõ ràng và làm cho nó được kiên định, đồng thời tính phổ biến của tri thức
có thể thúc đẩy tình cảm cao thượng. Tri thức chỉ có thể đi ủng hộ và thúc đẩy
đạo đức và tình cảm kiện toàn hóa, mà không phải phát triển đơn phương, mới có
thể nâng sinh mệnh của con người lên được.
2. Đời người phải phân giai đoạn
Bàn đến hạnh phúc mỹ mãn của đời người, thì cần phải chú ý: đời
người phải phân giai đoạn, giải quyết các vấn đề nhân sinh khác nhau. Mỗi người
đều có một quá trình phát dục, trưởng thành và suy thoái của mức độ sinh lý, lý
trí, nó quyết định đời người phải phân chia thành một số giai đoạn khác nhau, ở
mỗi giai đoạn của đời người, con người gặp phải là trạng thái sinh tồn khác
nhau, phải giải quyết vấn đề nhân sinh khác nhau, nếu lẫn lộn không rõ ràng thì
có hại rất lớn. Con người vẫn luôn không thể trong thời kỳ thiếu niên phát dục
chưa đầy đủ đã muốn ăn vụng quả cấm, muốn như cặp uyên ương đùa giỡn? Người ta
cũng không thể trong thời kỳ thanh tráng niên mong ngóng lĩnh tiền dưỡng lão,
an dưỡng tuổi trời? Đương nhiên, cũng không thể ở thời kỳ sắp già lại vẫn muốn
đi leo núi, đi lính ra chiến trường. Do đó, trong quá trình xét lại sinh mệnh
và cuộc sống của mình, người ta trước hết phải nghĩ đến tuổi sinh lý và tuổi
tâm lý của mình, sau đó xác định các vấn đề nhân sinh cụ thể để giải quyết nó.
Ví dụ như con người ở thời kỳ trẻ sơ sinh, việc người không
biết, việc đời chưa hiểu, chỉ là xuất phát từ bản năng đi tìm vú mẹ, dùng tiếng
khóc để biểu thị sự khó chịu hoặc đau khổ của mình. Lúc này, hầu như là thời kỳ
sinh trưởng của sinh lý và tâm lý thuần túy, nằm trong trạng thái sinh tồn người
khác nghĩ thay nó, làm giúp nó, còn nói gì đến vấn đề nhân sinh. Theo thời gian
trôi qua, bé sơ sinh lớn lên, trở thành nhi đồng. Con người trong giai đoạn này
không ai không mang hứng thú rất lớn, có ham muốn hiểu biết mạnh mẽ đối với tất
cả mọi thứ của cả thế giới, đồng thời với việc sinh trưởng phát dục của thân thể,
trí lực hiện ra trạng thái tiến vùn vụt.
Nhưng con người ở thời kỳ này vẫn không thể ý thức được một
cách tự giác đời người của cá nhân, sự sinh trưởng của nó chủ yếu dựa vào gia
đình và xã hội. Con người bước vào thời kỳ thiếu niên cuộc sống của nó thường
biểu hiện là vô lo vô nghĩ, nhưng đã bắt đầu có tự giác, có suy nghĩ đối với đời
người. Lúc này vấn đề nhân sinh quan trọng nhất là một mặt là làm cường tráng
thể trạng lớn lên thuận lợi. Mặt khác thì cần phải hết sức thu nhận tri thức mọi
mặt trong nhà trường và trong xã hội đặt cơ sở chắc chắn cho sự phát triển đời
người về sau.
Con người tạm chia tay với thời kỳ thiếu niên hoàng kim liền
đón nhận thời kỳ thanh niên tràn ngập niềm tin và phấn chấn muốn tiến thủ.
Trong giai đoạn đời người quan trọng này, con người dần dần có nhận thức tương
đối sâu sắc đối với mình, cũng có tìm hiểu tương đối toàn diện đối với sự huyền
bí của thế giới bên ngoài và kinh nghiệm sinh tồn của người khác. Người ta dần
dần từng bước nhận rõ ý nghĩa chân thực của cuộc sống, đồng thời có hàng loạt
tưởng tượng và hành vi thao tác thực tế như thế nào để giành lấy đời sống hạnh
phúc mỹ mãn. Trên thực tế vấn đề khó lớn nhất của đời người đang ở chỗ trong
quá trình sinh tồn và sinh hoạt của người ta luôn luôn gặp mọi thách thức,
trong quá trình đón nhận những thách thức của đời người này, người ta điều động
một cách đầy đủ năng lực tâm trí của mình để cố gắng phấn đấu, giải quyết một vấn
đề sẽ thưởng thức được một phần mùi vị của đời người, không giải quyết được cái
đó cũng là một thể nghiệm của đời người, con người chính là đã chín chắn lên
như thế. Giá như người ta sinh ra ở đời, không hề có vấn đề khó nào phải giải
quyết, không hề có thách thức nào trong đời sống, thế thì thể năng và trí năng
của người ta sẽ tàn lụi đi, mà đời người cũng trở nên trống trải, cuộc sống này
chẳng có giá trị gì.
Sau khi thời kỳ thanh niên hoàng kim đi qua, con người liền
bước vào thời kỳ tráng niên âm thầm, con người ở thời kỳ tráng niên đã không có
những mong mỏi và tình cảm mãnh liệt bột phát nhiều như thời thanh niên như thế,
cũng không có hào phóng phong lưu như người còn trẻ. Những người ở trong thời kỳ
này, càng chú ý đến vũ đài xã hội tìm cơ hội thành công và có thể phát huy năng
lực của mình. Họ càng chín chắn, đối với đời người đã hình thành cách nhìn
tương đối cố định. Họ gánh vác công việc càng nặng nề, phải nuôi gia đình, phải
giúp đỡ người già, phải dạy dỗ con cái v.v... Những việc này càng quyết định
con người ở thời kỳ này càng âm thầm hơn, lòng dạ rất sâu xa, trạng thái đời
người khác với thời trai trẻ thích biến đổi nhiều, người đứng tuổi nói chung đều
thích cuộc sống ổn định, vội vã đi tìm nơi ẩn náu an toàn của đời người, bức
thiết mong muốn có được nơi an thân lập mệnh. Những việc này đều là những vấn đề
nhân sinh người đứng tuổi gặp phải.
Thời kỳ đứng tuổi xây dựng thành tựu và lập nghiệp đi qua,
con người lại bước vào tuổi dưỡng lão. Người già cùng với tuổi tác dần tăng, phần
nhiều ý chí lớn và mạnh mẽ đều tiêu tan hết sạch, từ việc quan tâm đối với thế
giới bên ngoài chuyển sang coi trọng đối với việc chăm sóc thân thể của mình. Từ
góc độ đời người để xét, người có tuổi một mặt đương nhiên nên tìm cách kéo dài
tuổi thọ, nhưng lại cần tìm mọi cách phát huy nhiệt tình còn lại, quan tâm đến
sự biến đổi của xã hội, dùng kinh nghiệm và cách nhìn đời phong phú của mình
can thiệp vào sinh hoạt xã hội, tránh cô độc và ăn không nằm khoèo, những việc
này đều là kẻ thù đáng sợ nhất làm hao mòn tuổi thọ.
Từ đó ta thấy, con người ở các thời kỳ tuổi tác khác nhau, thể
năng và trí năng sai khác nhau rất lớn, lại gặp phải hoàn cảnh sinh tồn khác
nhau, vấn đề nhân sinh khác nhau, do đó, phải chú ý xác lập mục tiêu theo đuổi
và lý tưởng của đời người khác nhau áp dụng hành vi điều khiển cuộc đời khác
nhau, chỉ có như thế đời người mới sinh động và có hương vị, con người mới có
thể thể nghiệm quá trình nhân sinh khác nhau, đến khi chết cũng sẽ cảm thấy
không sống uổng phí cuộc đời này.
Bàn về con người sinh ra không tránh khỏi vấn đề đau khổ của
đời người.
Một đời của con người có thể gặp phải rất nhiều, rất nhiều
đau khổ của đời người, hơn nữa hầu như không tài nào tránh khỏi. Có một số người
phải ngụp lặn trong đau khổ của đời người, một số người khác thì vì chịu không
nổi nên chán đời. Trên thực tế, người ta nên xây dựng một quan niệm và phương
thức hành vi đối xử đúng đắn với đau khổ của đời người, giảm bớt cả đến loại trừ
mọi đau khổ đời người mang khó khăn đến cho đời, hạ thấp mọi đau khổ của đời
người làm cho người ta sinh ra khó chịu của tâm lý và thể xác mạnh mẽ.
Trong lịch sử, nhiều học phái và nhà tư tưởng đều cho rằng,
người ta sinh ra ở đời chính là đau khổ, cuộc sống của con người mãi mãi không
thể thoát khỏi đau khổ, con người tức là đau khổ, đau khổ tức là con người. Ví
như Phật giáo cho rằng, đời người có thể phân thành bốn đoạn: sinh, lão, bệnh,
tử, bốn trạng thái này đều là khổ. Thế nào gọi là sinh khổ? Con người được hình
thành trong thai mẹ, rau thai hẹp thai phải cuộn cong lại, đã phải chịu đựng
cái khổ của việc đè ép. Người mẹ ăn canh nóng, thai hầu như bị tưới nước sôi
lên người. Người mẹ uống nước lạnh, thai lại như bị ướp nước đá. Hơn nữa ngôi
thai ở gần ruột và bàng quang, thai thực tế phải chịu đựng cái khổ ngột ngạt của
mùi chất thải, chỉ có điều không thể nói ra được.
Khi con người sinh ra, đột nhiên tách khỏi bụng mẹ ấm áp, bị
tung vào thế giới thờ ơ, lạnh lẽo và thê thảm, da dẻ mềm mại của trẻ sơ sinh bị
bao bọc bởi quần áo tã lót như thể dùi châm vào, bởi vì không thể nói được,
đành dùng tiếng khóc lớn để tỏ ra phản kháng. Con người dần dần lớn lên, về của
cải có người giàu người nghèo, về địa vị có người cao người thấp, về tướng mạo
có người xấu người đẹp, mọi trạng thái đời người khác nhau đều gây nên đau khổ
hết mức của con người, đó là sinh khổ. Hai là lão khổ. Con người từ thơ ấu đến
thanh niên, tráng niên (đứng tuổi) rồi đến tuổi già, thời gian như tên bay,
tháng ngày như thoi đưa, mới nhìn còn là thanh niên cường tráng, thấm thoát mái
tóc đã bạc phơ, lưng còng già yếu rồi, thực có thể gọi là cảnh già thúc đẩy con
người, trong bất thình lình con người sẽ già nua đợi chết, thật là nhìn thấy
hoa rơi mà chẳng biết làm sao được, đó là lão khổ.
Lại còn "bệnh khổ". Con người có sinh mệnh, có thể
xác thì tất nhiên sẽ có bệnh. Có hai loại bệnh đau đớn: một là bệnh sinh lý,
hai là bệnh tâm lý. Thể xác của con người không có bệnh này thì có bệnh khác, một
đời không có lúc nào dừng lại. Về tinh thần con người không tránh khỏi có buồn
rầu, buồn bực ít vui, đau buồn không biết làm sao được, tạo nên bệnh tâm lý. Từ
đó ta thấy, một đời của con người không phải có bệnh sinh lý thì có bệnh tâm
lý, hoặc cả hai loại bệnh đồng thời phát ra, đem lại cho con người nỗi đau khổ
rất lớn, đó là bệnh khổ. Cuối cùng là tử khổ. Con người rất sợ chết, nhưng lại
nhất định phải chết, hoặc chết vào tuổi già, hoặc chết non yểu, hoặc bị sái gân
sái cốt, bị tai họa nước lửa, chiến tranh mà chết.
Cái chết hết sức khác nhau, nhưng kết cục lại mãi mãi như
nhau, há chẳng buồn sao! Đó là tử khổ. Nói như thế, đời người hoàn toàn không
phải chỉ có một chỗ một nơi có đau khổ, mà là không có lúc nào, không có chỗ
nào không có đau khổ. Dù rằng tử vong giáng xuống, cũng không giải thoát được
đau khổ, bởi vì còn có Lục đạo luân hồi, chết chẳng qua là trung gian và chiếc
cầu đưa con người sa vào trạng thái sinh tồn của đau khổ khác.
Như vậy thì làm thế nào để giải thoát được nỗi khổ của đời
người? Phật giáo cho rằng, đời người có nhiều đau khổ hoàn toàn là con người
mình tạo nên "nghiệp", mình được "quả", con người có
"tham" (tham lam), "sân" (tức giận) và "si" (ngu
đần), từ đó hãm mình vào trong bể khổ mênh mang.
Cho nên, loại bỏ nỗi đau khổ của đời người thật ra không phải
ở chỗ cải tạo thế giới hiện thực và làm thay đổi mọi điều kiện người ta sống ở
trong đó, mà là ở chỗ diệt hết tất cả mọi dục vọng, cách suy nghĩ và hành vi của
con người. Nhưng, con người có thể xác, thì sẽ có dục vọng. Con người có tinh
thần, thì sẽ có theo đuổi, loại bỏ dục vọng của con người, đâu có phải dễ. Do
đó, Phật giáo chỉ ra thế giới bên ngoài cả đến bản thân con người đều là hư ảo
không thực. Bởi vì, một là thế giới này biến động không ngừng.
Trịnh Hiểu Giang
(Zheng Xiao Jiang)
Dịch giả: Nguyễn An
Theo http://kilopad.com/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét