Phạm Đình Chương:
Phạm Đình Chương, người nhạc sĩ tài hoa đã làm phong phú cho
gia tài âm nhạc Việt Nam. So với một số các nhạc sĩ nổi tiếng khác, số lượng
sáng tác của ông không nhiều lắm nhưng có rất nhiều ca khúc đã đi vào cõi bất tử.
Nhạc của ông sẽ có tuổi thọ hơn ông nhiều lần. Những ca khúc quen thuộc của ông
đã trở thành một phần trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam.
Riêng với cá nhân tôi, mỗi lần nghe lại những bản nhạc như
Sáng Rừng hay Trường Ca Hội Trùng Dương, tôi lại bồi hồi nhớ đến những ngày xưa
lúc tôi mới lên trung học. Ở ngôi trường mà trước đây là chỗ nuôi ngựa của quân
đội Nhật sau sửa chữa thành Trung Tâm Học Liệu, chúng tôi đã học hát những bài
này với thầy Chung Quân ròng rã những năm đệ nhất, đệ lục. Những bài hát đã tạo
ấn tượng rất mạnh cho tôi từ ngôn ngữ đến âm điệu. Những bài hát làm tôi yêu mến
hơn quê hương đất nước tôi. Tôi nhớ cả lớp tôi chia làm hai bè và những câu hát
cứ đuổi theo nhau như lượn sóng ào ạt cuồn cuộn: “… Sóng muôn triền tới sóng xô
về tới như muôn tình mới vươn sức người. Bừng giữa đời…”. Chúng tôi cứ thế mà
hào hứng hát trong cái kích động vô cùng của chuyển khúc nhạc. Thầy Chung Quân,
tác giả của ca khúc nổi tiếng Làng Tôi thì không hết lời giảng giải với bọn học
trò chúng tôi những nét hay ý đẹp của những ca khúc này. Thành ra, tuy tôi chưa
gặp mặt bao giờ nhưng lại vô cùng quen thuộc khi nghe nhắc tới tên tuổi của nhạc
sĩ Phạm Đình Chương… Hình như trong tiềm thức của tôi, đã có một vóc dáng nhạc
sĩ cực kỳ to lớn. Những lời ca hằn trong tâm thức và một lúc nào, có chất xúc
tác, bùng vỡ cảm xúc như trôi theo suối, theo sông…
Rồi thời gian trôi, tôi lớn lên, vào đại học rồi đi lính, đi
tù, rồi vượt biên, rồi lưu lạc xứ người, mãi thời gian khoảng thập niên 80 tôi
mới gặp được ông. Và hình như không sai biệt mấy. Trong một buổi họp mặt văn
nghệ ở quán Doanh Doanh của anh chị Thái Tú Hạp, ông hát bản nhạc mới sáng tác
phổ từ thơ Du Tử Lê Đêm Nhớ Trăng Sài Gòn và bản Hạt Bụi Nào Bay Qua từ thơ
Thái Tú Hạp. Dáng ông cao gầy, nói chuyện có duyên với giọng thật đặc biệt Bắc
Kỳ Sơn Tây, mặc dù lúc đó hơi men đã ngấm. Ông hát rất truyền cảm và tạo được
những phút giây lắng đọng trước khi chấm dứt làm người nghe ngưng một giây sững
sờ trước khi vỗ tay vang dội… Trong tiếng nhạc, có tâm sự tỏ bầy. Trong lời ca,
có mênh mông những khung trời quá khứ…
Theo tài liệu của nhạc sĩ Phạm Thành là con ruột ông thì nhạc
sĩ Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai. Quê nội ông ở
Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Gia đình ông là một gia đình nghệ sĩ, thân phụ
ông đánh đàn tranh rất tuyệt trong khi thân mẫu ông chơi đàn bầu cũng rất hay.
Thành ra nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, tác giả Nắng Chiều đã rất hữu lý khi phát biểu
rằng nhạc của Phạm Đình Chương đã biểu lộ được những tinh túy của âm điệu ngũ
cung. Sống trong một gia đình nghệ sĩ “nòi” như vậy thì hấp thụ được những tinh
hoa của nguồn nhạc dân tộc tính là chuyện dĩ nhiên.
Ông bắt đầu học nhạc lý từ khi còn thơ ấu. Lúc mười bẩy tuổi
ông đã sáng tác bản nhạc đầu tay Ra Đi Khi Trời Vừa Sáng với lời nhạc trong
sáng nhịp điệu vui tươi tới bây giờ vẫn còn nhiều người hát. Thí dụ như đài
phát thanh Little Sài Gòn ở Orange County đã dùng làm bản nhạc khởi đầu chương
trình “Chào Bình Minh” mỗi buổi sáng.
Thời kháng chiến chống Pháp sau năm 1945, cũng như những
chàng trai Hà Nội yêu nước, ông gia nhập vào các đoàn văn nghệ lưu động của
Liên Khu 4 và Liên Khu 3. Ông đi đến nhiều nơi: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên… Thời kỳ này, ông sáng tác những bài hát kích động
tinh thần yêu nước, chấp nhận những khó khăn, có bóng dáng của chiến tranh
nhưng không hận thù chém giết. Như ca khúc Được Mùa âm điệu vui tươi, chứa chan
tình cảm với lòng tin tưởng vào tương lai. Trong khi những bản nhạc cùng thời
sáng tác như Ngày Mùa của Văn Cao, Gánh Lúa của Phạm Duy, hay Dân Ca Lúa Vàng của
Mặc Thy, thì lời ca tiếng nhạc có bóng dáng của chém giết chiến tranh hơn.
Nhà văn Mai Thảo khi còn sinh tiền hay thường kể về những
ngày tháng đầy hào hứng tuổi trẻ của những thanh niên lớp tuổi ông và Phạm Đình
Chương, vai đeo bạc đà tay bút tay đàn rộn rã với sinh hoạt văn nghệ thời kỳ
toàn dân chống giặc. Nhà văn Tạ Tỵ trong hồi ký viết về các văn nghệ sĩ mà ông
quen biết cũng nhắc đến quán cà phê của gia đình Ban Hợp Ca Thăng Long thuở ấy.
Vừa lưu diễn vừa sáng tác, tay đàn tay bút, từ đồng nội đến núi rừng, sinh lực
tuổi trẻ và tâm tình yêu nước đã thể hiện trong từng ca khúc của Phạm Đình
Chương.
Sau chính sách Cải Cách Ruộng Đất và những ngày rèn cán chỉnh
quân, ông và gia đình trở về thành và vào Sài
Gòn sinh sống. Ở đây, ông cùng với anh ruột là nhạc sĩ Hoài Trung, chị ruột là
ca sĩ Thái Hằng, anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy, em ruột là ca sĩ Thái Thanh thành
lập thành ban hợp ca Thăng Long. Đôi khi còn tăng cường ca sĩ Khánh Ngọc. Ban hợp
ca Thăng Long đã hoạt động liên tục trong một thời gian dài. Có khi trình diễn ở
Hà Nội thì đổi tên là ban hợp ca Gió Nam với sự góp mặt của nhạc sĩ Nam Tiến (tức
Trần Văn Trạch). Kỷ niệm những ngày lưu diễn này nhạc sĩ Trần Văn Trạch đã nhắc
đến và tâm sự nhiều lần trước khi qua đời và coi như một kỷ niệm đẹp trong đời
ca hát của người nghệ sĩ lão thành này.
Những ngày ở miền nam là những ngày sáng tác sung mãn của
ông. Ly Rượu Mừng bài hát vui tươi tràn đầy mộng ước, là lời chúc rất nhân bản
đã trở thành một bài hát mở đầu cho những buổi họp mặt của hầu hết mọi người
dòng dã mấy chục năm về sau. Hay Tiếng Dân Chài, theo lời kể của tác giả là một
sáng tác từ cảm hứng trên bờ sông Mã khi mục kích sinh hoạt của những người dân
chài lưới.
Thời kỳ này Ban Hợp ca Thăng Long nổi tiếng đến nỗi bìa của
giai phẩm xuân “Đời Mới” của nhà báo kiêm chính khách Trần Văn Ân có hình ban
Thăng Long với hai cô Thái một cô Khánh (Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc) phải
in thêm để có đủ số lượng bán.
Là linh hồn của Ban Thăng Long, những sáng tác của ông đã góp
phần làm rạng rỡ những thành công vượt bực. Như Sáng Rừng, như Tiếng Dân Chài,
như Xóm Đêm, như Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội, như Anh Đi Chiến Dịch, như Ly Rượu Mừng,…
Những bài hát đã thật quen thuộc đến trở thành một phần đời sống của những người
dân ở mền Nam Việt Nam.
Nhưng một gia sản to lớn của nhạc sĩ để lại cho âm nhạc Việt
Nam là trường ca Hội Trùng Dương. Theo Phạm Thành cho biết thời gian sáng tác
là bốn năm dòng dã. Nhiều người đã xếp hạng Hội Trùng Dương ngang hàng với những
Trường Ca Sông Lô của Văn Cao hay Hòn Vọng Phu của Lê Thương trong những nỗi niềm
và những khát vọng của dân tộc được thể hiện. Sáng tác trong thời gian đất nước
bị chia đôi, ông muốn nói lên cái tâm tư Bắc Nam là một và những dòng sông rồi
cũng xuôi về biển mẹ. Sông Hồng, với thao thiết âm thanh Quan Họ. Sông Hương, với
đồng vọng giọng hò mái đẩy xứ thần kinh. Sông Cửu Long, với tiếng dân ca mộc mạc.
Tất cả, trộn lẫn lại để thành tiếng hát đầy tình tự dân tộc và trong sáng. Thấp
thoáng trong nốt nhạc, lời ca là sự lạc quan của những người tin tưởng vào
tương lai của đất nước.
Năm 1967, ông nhận tổ chức và điều khiển phòng trà Đêm Màu Hồng
(cũng là tên của một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thở của Thanh Tâm Tuyền). Những
sáng tác nổi danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của Ban Hợp Ca Thăng Long
đã biến phòng trà này một chỗ nổi tiếng nhất và là nơi tụ tập của những nghệ sĩ
hàng đầu của đô thành Sài Gòn.
Trong nhạc Phạm Đình Chương, thi ca đóng một vai trò quan yếu.
Hình như bắt nguồn từ sự đồng cảm với thi sĩ, nhạc đã tháp cánh cho thơ vút
cao. Những vần thơ của Đinh Hùng, Hoàng Anh Tuấn, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa,
Quang Dũng, Trần Dạ Từ,… trước năm 1975 hay Du Tử Lê, Kim Tuấn, Thái Tú Hạp,…
sau năm 1975 ở hải ngoại đã thành những ca khúc có sức lôi cuốn mạnh mẽ và nói
lên được tâm tư của thời đại. Thơ, với chất lãng mạn sẵn có, hợp cùng âm điệu của
nhạc để thành những nhớ lại từ liên tưởng những cuộc tình, những phận người. Để
rồi có sự chia sẻ với suy nghĩ, với ngôn ngữ, với thanh âm, đã mở hướng đi xa đến
vời vợi hơn những cửa ngõ này, những chân trời kia…
Nhạc sĩ Vũ Thành đã có lần nhận xét rằng phổ thơ như Phạm
Đình Chương từ bài thơ Tự Tình Dưới Hoa của Đinh Hùng thành Mộng Dưới Hoa là việc
hình thành một “tuyệt tác đáng phục”. Nhất là, chất lãng mạn được giữ nguyên nếu
không nói là tăng thêm bội phần.
Một trường hợp khác, ông đã phổ thành công những bài thơ của
thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Nhiều nhạc sĩ nhận xét rằng phổ những bài thơ tự do, âm
điệu phóng túng, với nhiều vần trắc, như thơ Thanh Tâm Tuyền, không phải là việc
dễ dàng. Thế mà, với Dạ Tâm Khúc, với Bài Ngợi Ca Tình Yêu, với Đêm Mầu Hồng,
cái ý thơ cảm được nhưng khó diễn tả bằng lời đã được truyền cảm trọn vẹn. Thơ,
đi gần tới hơn đối tượng và bằng nhịp điệu lôi cuốn người nghe với nghệ thuật
riêng của nhịp cầu âm điệu. Không biết thành công này có phải bắt nguồn từ sự đồng
cảm giữa thi sĩ và nhạc sĩ qua mối thâm giao lâu đời chăng?
Biến cố tháng tư năm 1975 khiến ông phải làm nhân chứng cho một
cuộc đổi đời. Sống ở Sài Gòn những năm tháng nghẹt thở, ông và gia đình vượt biển
năm 1979 rồi sang định cư ở xứ người. Đời sống thúc bách của sinh kế không làm
ông ngưng sáng tác. Tâm sự một người lưu lạc chất ngất nỗi niềm khiến cho ông cảm
thấy gần gũi với những vần thơ của thi sĩ Du Tử Lê. Những bài thơ như Khi Tôi
Chết Hãy Mang Tôi Ra Biển, Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn, hay Quê Hương Là Người Đó được
phổ nhạc trong sự chia sẻ ấy. Quê hương mới đây mà đã cách biệt ngàn trùng. Những
không gian, thời gian đã xa mất hút nhưng sao còn gần gũi. Tâm sự chúng ta đôi
khi khác nhau nhưng vẫn cùng mẫu số. Mẫu số của một thời đại lưu vong.
Có lẽ trong những nhà thơ, Du Tử Lê là người có duyên với các
nhạc sĩ nhất cũng như thi sĩ Đinh Hùng thời trước. Gần một trăm bài thơ được phổ
nhạc với rất nhiều ca khúc gần như “bất tử” phải là một hiện tượng trong đời sống
văn học Việt Nam.
Nhà văn Mai Thảo đã viết về người bạn tâm giao của mình với dẫn
chứng từ những tài năng âm nhạc khả tín:
“… Trên một tầm cao hơn, thuần túy nhạc lý và nhạc tính hơn,
những điểm xuất sắc của cõi nhạc, nét nhạc Phạm Đình Chương cũng được những kiến
thức có thẩm quyền hết lời ca khen ngợi. Như một nhận xét tổng quát của nhạc sĩ
Nghiêm Phú Phi. Là đường nét của âm điệu (ligne melodique), cách thế hòa âm, tiết
điệu và bố cục từ khúc, mặt nào ở Phạm Đình Chương cũng cao sang, điêu luyện và
thuần thục. Cao và sang nhưng không khó không xa rất hợp rất gần với tâm hồn đại
chúng. Như một phân tích tóm gọn của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn.
Là Phạm Đình Chương xử dụng ngũ cung tài giỏi, cấu trúc và kỹ
thuật nhạc hiện đại, tiền tiến nhưng vẫn giữ được âm điệu, yếu tính (essence)
và tâm hồn Việt Nam…”
Riêng tôi, qua hơn sáu chục ca khúc cho một khoảng hơn bốn
mươi lăm năm sáng tác, tôi đã nhìn thấy rõ một vóc dáng nhạc sĩ lớn. Là người
ngợi ca tình yêu với những ca khúc để đời: Mộng Dưới Hoa, Ngợi Ca Tình Yêu, Người
Đi Qua Đời Tôi, Mầu Kỷ Niệm,… là người yêu quê hương, tin tưởng vào tương lai
dân tộc, với Tiếng Dân Chài, với Được Mùa, với Trường Ca Hội Trùng Dương… là
người lưu lạc tha hương, nhớ về chốn cũ nhà xưa, với Mưa Sài Gòn, Mưa Hà Nội, với
Đêm, Nhớ Trăng Sài Gòn, với Khi Tôi Chết Hãy Mang Tôi Ra Biển,… là người nhạc
sĩ yêu đời mang những bài ca tươi thắm với Sáng Rừng, với Trăng Rừng, với Ra Đi
Khi Trời Vừa Sáng,… tất cả, thành một vóc dáng âm nhạc đa diện. Ở mặt nào, cũng
là đặc sắc. Ở cõi nào, cũng là khai phá bước chân. Mỗi mỗi, là những hiển lộng
nghệ thuật, những dụng công tinh vi. Âm nhạc và đời sống có những bổ túc để
thành một nhất quán cho sáng tác.
Dù nhạc sĩ đã qua đời vào năm 1991, nhưng tuổi thọ của những
ca khúc hầu như bất tử sẽ còn dài hơn rất nhiều 62 tuổi hưởng thọ. Đã có những
chương trình hát và tưởng niệm cố nhạc sĩ. Đã có những ca khúc được trình bày
như một cách thế cảm tạ những công trình mà có người gọi là những bông hoa tô
điểm cho đời.
Ngày trước, cụ Tiên Điền Nguyễn Du đã than thở rằng “bất tri
tam bách dư niên hậu, thiên hạ thùy nhân khấp Tố Như”. Bây giờ, với những cõi
nhạc như Phạm Đình Chương, có lẽ đến vài thế kỷ sau vẫn còn đồng vọng những ca
khúc như Hội Trùng Dương hay Mộng Dưới Hoa chăng? Có thể lắm chứ sao không? Đã
gần nửa thế kỷ rồi mà lời nhạc vẫn xanh và bóng mát vẫn tỏa cùng trên quê
hương, mà âm điệu còn vang xa ra nơi con dân Việt Nam sinh sống trên toàn thế
giới!!!.
Nguyễn Mạnh Trinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét