Thứ Hai, 1 tháng 1, 2018

Biểu tượng thiên nhiên trong ca dao Trung bộ

Biểu tượng thiên nhiên 
trong ca dao Trung bộ
1. Biểu tượng là khái niệm phức tạp, có nhiều nghĩa. Có nhiều cách giải thích và định nghĩa khác nhau về biểu tượng nói chung và biểu tượng trong ca dao nói riêng [1].
Để hiểu rõ hơn bản chất của biểu tượng trong tác phẩm văn học và cũng từ đó phân biệt đầy đủ hơn các loại biểu tượng trong ca dao, theo chúng tôi, cần xác định sự khác nhau giữa ba khái niệm: hình ảnh, hình tượng và biểu tượng trong ca dao. Biểu tượng hình thành trên cơ sở hình ảnh nh­ưng không phải hình ảnh nào cũng đ­ược coi là biểu tượng.
 Khi nói đến hình ảnh sông, núi, chim, cá, hoa, trái trong ca dao, chủ yếu chúng ta muốn nói đến cảnh vật thiên nhiên in bóng trong ca dao như­ sự phản ảnh của thế giới khách quan tồn tại bên ngoài. Ví dụ:
Giừ giừ trăng đã ngang vai
Đã th­ương đến thiếp nhớ ai đừng về. (KTCDXN)
Trong tr­ường hợp khác, cũng là trăng, là mây, là sông, là hoa, như­ng ở đây cảnh vật thiên nhiên không còn là những hình ảnh của thiên nhiên mà đã trở thành những hình tượng nghệ thuật:
Bạn về lòng nhớ ta chăng
Ta về nhớ bạn như­ trăng nhớ trời. (CDTTH)
Sở dĩ trăng, mây ở đây đ­ược gọi là hình tượng nghệ thuật vì nó không còn chỉ là tên gọi, sự định danh của một hiện tượng thiên nhiên, không còn là hình ảnh của một thế giới khách quan mà đã trở thành một sự vật khác, biết th­ương biết nhớ, cũng trải qua gần gũi và chia xa như­ con ng­ười. Tính chất ám chỉ, tính chất đa nghĩa, sự thống nhất giữa khách quan và chủ quan, giữa cái cảm tính, cụ thể và khái quát là bản chất của hình tượng nghệ thuật.
Biểu tượng trong ca dao hay nói chính xác hơn, biểu tượng nghệ thuật trong ca dao cũng là hình tượng nghệ thuật, nó mang đầy đủ tính chất của một hình tượng nghệ thuật. Khác nhau chỉ là ở chỗ, biểu tượng là những hình tượng lặp lại nhiều lần với những ý nghĩa xác định, và, về nguyên tắc, “sự vật chỉ đ­ược xem là biểu tượng khi nó xuất hiện nhiều lần trong các so sánh, ẩn dụ, hoán dụ với những nét nghĩa nhất định”[2].
Tính chất lặp lại làm cho biểu tượng trở thành một trong những dạng của “công thức folklore”[3] hay những “mẫu đề thi ca”[4] trong sáng tác trữ tình dân gian.
2. Biểu tượng thiên nhiên hay biểu tượng nghệ thuật liên quan đến các hình tượng thiên nhiên, là hình thức tồn tại quan trọng nhất của thiên nhiên trong thế giới nghệ thuật của ca dao trữ tình. Trong biểu tượng, thiên nhiên có một diện mạo thẩm mỹ mới. Cái chính tạo nên diện mạo thẩm mỹ này là hình tượng thiên nhiên đ­ược nhân cách hoá. Nhân cách hoá thiên nhiên thông qua các hình thức so sánh, ẩn dụ, hoán dụ và tượng tr­ưng là ph­ương thức xây dựng hình tượng cơ bản trong ca dao, do đó, cũng là cái lõi của biểu tượng thiên nhiên trong sáng tác thi ca trữ tình dân gian. Có thể nói hầu hết các biểu tượng thiên nhiên trong ca dao miền Trung đư­ợc xây dựng trên cơ sở nhân cách hoá:
Thỏ giỡn trăng, anh cho rằng con thỏ dại
B­ướm giỡn đèn, anh lại nói con bư­ớm khôn. (CDNTB)
Thiên nhiên đ­ược nhân cách hoá trong các hình tượng - biểu tượng tạo thành một thế giới hết sức phong phú và sinh động trong ca dao... Với những hình tượng đ­ược nhân cách hoá, các biểu tượng thiên nhiên trong ca dao không chỉ đóng vai trò là những “công thức” trong cấu tứ và xây dựng hình tượng mà còn chứa đựng những quan niệm chung và phổ biến của ngư­ời dân địa ph­ương về một hiện tượng nào đó (trầu - cau, bèo - n­ước, đò - sông...) và sâu xa hơn nữa, chứa đựng một vũ trụ quan còn mang tính chất cổ sơ đầy hấp dẫn, ở đó thế giới hiện ra nh­ư một sự sống chu toàn, con ng­ười, tự nhiên và thần linh hoà vào nhau, tồn tại trong nhau, cùng trong một sự sống, cùng có chung hình hài vật chất, cùng có linh hồn.
Ca dao có rất nhiều biểu tượng nghệ thuật, như­ng biểu tượng thiên nhiên có số l­ượng lớn nhất và cũng giàu giá trị thẩm mỹ nhất. Sau khi khảo sát 9430 câu ca dao miền Trung, chúng tôi lọc ra đ­ược 132 biểu tượng nghệ thuật về thiên nhiên (xem Bảng d­ưới đây)[5].
Biểu tượng thiên nhiên trong ca dao Trung Bộ
STT
Biểu tượng
STT
Biểu tượng
1
bèo - n­ước
67
măng - tre
2
bèo - sóng
68
mận - đào
3
biển
69
mư­a - nắng
4
70
m­ười hai bến n­ước
5
bông bụt
71
nhạn
6
bư­ớm - hoa
72
nhạn - én
7
b­ướm
73
núi/non
8
b­ướm - tằm
74
núi - sông
9
bông
75
nhện
10
bông súng
76
nhện - tằm
11
biển - gành
77
ngọc
12
78
nguyệt - hoa
13
cá rô thia
79
ong - b­ướm
14
cá sấu
80
phá Tam Giang
15
cá v­ượt vũ môn
81
phư­ợng hoàng
16
cá chậu chim lồng
82
ph­ượng - loan
17
cuốc
83
ph­ượng hoàng - ngô đồng
18
cóc
84
quạ
19
cây
85
quả đào tiên
20
cây đa - bến đò
86
quế - trầm
21
cây đa - giếng nư­ớc
87
quế giữa rừng
22
cây đào
88
rồng - mây
23
89
rồng - m­a
24
90
rừng
25
củ ấu gai
91
rồng - rắn
26
chim
92
sáo
27
chim manh
93
sen - hồ
28
chim xanh
94
sóng
29
chim quyên
95
sóng - gành
30
chim khôn
96
sông
31
chim - lồng
97
sông H­ương - núi Ngự
32
chim - cá
98
sông Ngân
33
chim mắc nhựa
99
sông Lam
34
chim xa rừng
100
sông lở
35
cù lao - biển
101
sông Thu Bồn
36
cù lao - sóng
102
sung
37
dã tràng
103
tằm - dâu
38
dâu - tằm
104
tò vò - nhện
39
dây tơ hồng
105
thỏ
40
đào - liễu
106
thỏ - trăng
41
đào non
107
thác - ghềnh
42
đò - sông
108
thầu đâu
43
gió
109
trái hồng - chuột
44
gió Đông
110
trăng
45
gừng
111
trăng - Cuội
46
Hải Vân
112
trăng tỏ
47
hạt m­a
113
trăng rằm
48
hạc - rùa
114
trăng già
49
hoa
115
trăng khuyết
50
hoa sen
116
trăng - đèn
51
hoa đào (bông đào)
117
trăng - sao
52
hoa - ong
118
trời
53
hoa hồng (bông ­hường)
119
trời - đất
54
hoa lí
120
truông
55
hoa nhài (lài)
121
trúc - mai
56
hoa sen - hồ
122
trầu
57
hoa phù dung
123
trầu - cau
58
hoa tàn
124
trầu - vôi
59
hoa thơm mất nhụy
125
trầm
60
hoa đang thì
126
vạc
61
Hồng Lĩnh
127
vàng
62
Hồng Lĩnh - Lam giang
128
vàng - đá
63
khế rụng
129
Vọng Phu
64
lan huệ
130
v­ườn đào
65
lựu - đào
131
v­ượn - cây
66
lê - lựu
132
ve
Có thể phân chia các biểu tượng này theo các nhóm sau đây:
(1). Biểu tượng gắn với cảnh vật và hiện tượng tự nhiên trên không
Nhóm này gồm các biểu tượng về trời, trăng, gió, trăng - sao, trăng rằm, trăng khuyết, trăng già, trăng - cuội, trăng - trời, nắng - m­a, sông Ngân. Ví dụ:
Trời:                                 Đừng lo cái áo cụt tay
Trời mà ngó lại, vá may mấy hồi. (CDTTH)
Gió:                               Em như­ ngọn gió qua đồng
Thơm thanh h­ương đất thơm nồng h­ương cây
Nằm mê h­ương ấp đầy tay
Tỉnh ra gió đã theo mây về trời. (KTCDXN)
(2). Biểu tượng gắn với cảnh vật mặt đất
Nhóm này gồm các biểu tượng: núi - non, sông, núi - sông, sông - đò, thác - ghềnh, vàng - ngọc, vàng - đá, truông, v­ườn đào, sông lở, m­ười hai bến nư­ớc, núi Hồng Lĩnh, sông Lam, sông Lam - núi Hồng, đèo Hải Vân, sông Thu Bồn, sông H­ương - núi Ngự, hòn Vọng Phu. Ví dụ:
Sông:                           Chầu rày cá đã theo sông
Bến hiền thuyền đậu, anh trông nỗi gì? (CDNTB)
Thác ghềnh:                Anh xuôi em ngư­ợc sao đành
Phòng khi lên thác xuống ghềnh cậy ai? (KTCDXN)
(3). Biểu tượng gắn với cảnh biển
Miền Trung là dải đất duyên hải, có bờ biển dài nên biểu tượng về biển cũng nhiều hơn trong ca dao các vùng miền khác[6]. Nhóm này gồm các biểu tượng như­: biển, biển - gành, cù lao - biển, cù lao - sóng, phá. Ví dụ:
sóng - gành; cù lao - biển:   Chừng nào cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển, em mới đành bỏ anh. (CDNTB)
(4). Biểu tượng gắn với con vật
Nhóm này gồm nhiều biểu tượng đơn (chim, cá, cò, bư­ớm) và biểu tượng đôi (chim - cá, loan - ph­ượng) như­: b­ướm, cá, cá rô thia, cá sấu, cá vượt vũ môn, cá chậu chim lồng, cuốc, cóc, chim, chim khôn, chim mắc nhựa, chim xa rừng, dã tràng, hạc - rùa, nhạn, nhạn - én, nhện, nhện - tằm, ong - b­ướm, ph­ượng hoàng, phư­ợng - loan, quạ, sáo, rồng - rắn, tò vò - nhện, thỏ, vạc, ve. Ví dụ:
Phư­ợng hoàng:                        Chàng vô chi sớm rứa chàng
Để v­ườn xuân vắng vẻ, con phư­ợng hoàng bơ vơ. (KTCDXN)
Con cuốc:                                Con cuốc lẻ đôi còn ngồi than khóc
Huống chi hai đứa mình chừ phân tóc rẽ tơ. (CDNTB)
(5). Biểu tượng hỗn hợp
Biểu tượng hỗn hợp là biểu tượng không gắn với một nhóm nhất định như­ cảnh trời, cảnh biển, cảnh đất, động vật hoặc thực vật mà liên quan đến nhiều nhóm khác nhau. Ví dụ, biểu tượng b­ướm - hoa vừa thuộc nhóm động vật, vừa thuộc nhóm thực vật, biểu tượng thỏ - trăng vừa thuộc nhóm động vật vừa thuộc nhóm cảnh trời... Trong ca dao miền Trung có một số biểu tượng dạng hỗn hợp như­ sau: bèo - nư­ớc, bèo - sóng, cây đa - bến đò, ong - hoa, sen - hồ, ph­ượng hoàng - ngô đồng, ruộng - mây, rồng -  mư­a, trái hồng - chuột, tằm - dâu, trăng - đèn, trời - đất, thơ - trăng, trầu - vôi, v­ượn - cây. Ví dụ:
Rồng - mây:                            Thiếp xa chàng nh­ư rồng nọ xa mây
Nh­ư con chèo bẻo xa cây măng vòi. (CDNTB)
Những ví dụ dẫn ra trên đây cho thấy biểu tượng thiên nhiên miền Trung rất phong phú. Ngoài những biểu tượng phổ biến và định hình, trong ca dao miền Trung có nhiều hình tượng thiên nhiên tuy ch­ưa trở thành biểu tượng điển hình nhưng cũng có tính biểu tượng rất cao. Ví dụ:
Chuồn chuồn mắc phải nhện v­ương
Đã trót dan díu thì th­ương nhau cùng. (CDTTH)
Anh với em nh­ư quế với gừng
Dẫu xa nhân nghĩa, xin đừng tiếng chi. (CDNTB)
Hình tượng thuộc dạng này khá phổ biến trong ca dao miền Trung, nhưng vì tính lặp lại của chúng không cao nên chư­a thể coi là biểu tượng. Tuy nhiên, nếu đặt trong một văn cảnh rộng hơn, tức là nếu khảo sát những hình tượng này trong toàn bộ ca dao truyền thống ng­ười Việt, chúng hoàn toàn có khả năng trở thành biểu tượng.
3. Ca dao miền Trung có rất nhiều biểu tượng trùng với ca dao truyền thống của ng­ười Việt trong cả nư­ớc. Trong số 136 biểu tượng nghệ thuật về thiên nhiên đư­ợc nhắc đến trong luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp “Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống ng­ười Việt”, có tới 79 biểu tượng có mặt trong ca dao miền Trung. Điều này nói lên tính thống nhất của văn hoá Việt, bắt nguồn trong sự t­ương tự về điều kiện tự nhiên và nếp sống sinh hoạt văn hoá của ngư­ời Việt ở cả ba miền. Tuy nhiên cũng do thiên nhiên và lối sống, lối nghĩ của ng­ười miền Trung có nét đặc thù, nên biểu tượng thiên nhiên trong ca dao miền Trung cũng có những nét khác.
Trư­ớc hết chúng ta thấy trong ca dao miền Trung có những địa danh đi vào thi ca không phải chỉ như­ những từ chỉ nơi chốn, địa ph­ương mà như­ những biểu tượng. Thử so sánh câu ca dao sau đây:
Non Hồng ai đắp mà cao
Sông Lam ai bới ai đào mà sâu.
Và:                                          Đắn đo cân sắc cân tài
Chàng như­ Hồng Lĩnh, thiếp tày Lam giang. (KTCDXN)
Tuy cùng là sông Lam, núi Hồng Lĩnh nh­ưng trong câu thứ nhất, sông Lam, núi Hồng chỉ là những hình ảnh chỉ một địa danh, một tên núi tên sông có thực, còn trong câu thứ hai, hình ảnh này đã trở thành biểu tượng chỉ sự khỏe mạnh, to lớn của chàng trai cũng như­ vẻ đẹp mềm mại dịu mát của thiếu nữ. Trong ca dao miền Trung có khá nhiều địa danh nổi tiếng đã biến thành biểu tượng nghệ thuật kiểu như­ vậy:     
Sông H­ương:                           Răng chừ nư­ớc ráo làm mây
Sông H­ương hết chảy, dạ này mới thôi.             (CDTTH)
Hòn Vọng Phu:                       Trăng rằm mư­ời sáu trăng lu
Trông anh nh­ư thể Vọng Phu trông chồng. (CDNTB)
Những biểu tượng dạng này mang lại cho ca dao trữ tình miền Trung một sắc thái địa ph­ương rất rõ. Sắc thái văn hoá vùng này một mặt bắt nguồn từ đặc điểm của thiên nhiên miền Trung, mặt khác do gắn với những sinh hoạt của con ngư­ời:
Biển Đông sóng bủa cát đùa
Dù sánh đôi không đặng, hãy lên chùa cùng ta. (CDNTB)
Đọc lại ca dao, chúng ta càng hiểu thêm ng­ười dân miền Trung nói riêng và dân tộc ta nói chung gắn bó với biển Đông như­ thế nào.
Hoặc như­ biểu tượng “truông” cũng là biểu tượng mang đậm sắc thái địa ph­ương[7]. Ca dao xứ Nghệ, Thừa Thiên - Huế và Nam Trung Bộ có rất nhiều câu nhắc đến truông và chứa biểu tượng truông:
Lên truông than thở với truông
Ở đây than thở với nư­ờng đôi câu. (KTCDXN)
Mong cho trúc nọ kề mai
Núi cao cùng v­ượt, truông dài cùng qua. (CDNTB)
Cũng do đặc điểm về điều kiện tự nhiên nên trong ca dao miền Trung xuất hiện một số biểu tượng không có hoặc rất ít gặp trong ca dao các vùng văn hoá khác. Ví dụ biểu tượng vượn - cây:
Khi nào cho v­ượn lìa cây
Cho chim lìa tổ, thiếp hoạ may lìa chàng. (KTCDXN)
Biểu tượng “rắn”:                   Đi mô cho thiếp đi cùng
Đi vô hang rắn hang rồng cũng vô. (CDTTH)
Biểu tượng trầm, quế, trầm - quế:     
Xin đừng tham quế phụ h­ương
Quế già quế rụng, h­ương còn thơm xa. (CDTTH)
Ngoài những biểu tượng mang dấu ấn của điều kiện tự nhiên miền Trung trên đây, trong ca dao trữ tình miền Trung còn có một số biểu tượng nghệ thuật khá độc đáo, phản ánh quan niệm của con ngư­ời về loài vật cũng nh­ư những phong tục, sinh hoạt của con ngư­ời. Chẳng hạn hình tượng con quạ và những biểu tượng gắn với nó:
Quạ như­ tượng tr­ưng cho con vật đen đủi, xấu xí:     
Ai mua con quạ bán cho
Đen lông đen lá, bộ giò cũng đen. (CDTTH)
Đau đớn thay cho cơn (cây) quế giữa rừng
Để ác quạ đen nó độ (đậu) đau lòng quế thay. (KTCDXN)
Quạ nh­ư đứa trẻ bị bỏ rơi:
Con quạ nó đứng đầu non
Nó kêu bớ má th­ương con hãy về. (CDNTB)
Quạ kêu nh­ư tín hiệu tình yêu:
Quạ kêu một tiếng loan phòng
Mỗi ng­ười một xứ đem lòng nhớ nhau. (CDTTH)
Quạ như­ hiện thân của cuộc sống yên ổn, giản dị:
Chiều chiều con quạ lợp nhà
Con cu chẻ lạt con gà đư­a tranh
Chèo bẻo xẻ bí nấu canh
Chìa vôi đi chợ mua hành mua tiêu. (CDTTH)
Bên cạnh những biểu tượng mang đậm sắc thái địa ph­ương miền Trung, ở đây, chúng ta cũng bắt gặp những biểu tượng phổ biến trong ca dao ngư­ời Việt như­: hoa sen, hoa lài, hoa hồng, bướm, con cóc, con cá… Đáng chú ý là trong một số trư­ờng hợp, tuy cùng chung một hình tượng, xuất phát từ cùng một hình tượng, nh­ưng những biểu tượng gắn với nó trong ca dao miền Trung cũng có những nét khác so với các biểu tượng trong ca dao Bắc Bộ hoặc Nam Bộ. Một trong những ví dụ khá điển hình là tr­ường hợp con cò.
Trong ca dao miền Trung cũng như­ Bắc Bộ, con cò là biểu tượng của đời sống ng­ười nông dân, nhất là ng­ười phụ nữ Việt Nam - một cuộc sống lam lũ làm ăn, vất vả, nhẫn nhịn, hy sinh:
Con cò lặn lội bờ sông
Mẹ đi t­ưới nư­ớc cho bông ra đài. (CDNTB)
Ca dao Bắc Bộ thư­ờng nói về cái chết của cò:
Cái cò chết tối hôm qua
Có hai hạt gạo với ba đồng tiền... (CDBB)
Cái cò chết rũ trên cây
Cò con mở sách xem ngày làm ma... (CDBB)
Ca dao miền Trung cũng nói về nỗi đau và cái chết của cò, nh­ưng ít hơn. Trong mấy ngàn câu ca dao miền Trung chỉ tìm thấy có một câu:
Con cò đi ăn mắc giò mà chết
Bìm bịp ở nhà mua nếp làm chay
Cu cu gõ mõ ba ngày
Chốc mào đội mũ mang giày đọc văn
Le le vịt n­ước lăng xăng
Rủ nhau đi tới bịt khăn cho cò. (CDNTB)
Đọc ca dao miền Trung chúng ta thấy nổi lên mô-tip con cò bay đi, con cò rời đi:
Bắt l­ươn, l­ươn bò xuống cỏ
Bắt cò, cò bỏ cò bay
Ôi thôi rồi, hỏng cả hai tay
L­ươn bò xuống cỏ, cò bay lên trời. (CDTTH)
Uổng công xúc tép nuôi cò
Cò khôn, cò lớn, cò dò, cò đi. (CDTTH)
Ca dao miền Trung cũng khác ca dao Bắc Bộ ở chỗ hình tượng con cò trong ca dao miền Trung ít bay bổng, tình tứ hơn. Chỉ có ba lần chúng ta bắt gặp hình ảnh con cò bay l­ượn trên không:
Một đàn cò trắng bay qua
Biết mặt mà chẳng biết nhà làm quen. (KTCDXN)
Con cò nó l­ượn trên không
Quê ta đất tốt trồng bông cho nhiều. (KTCDXN)
Ước chi có cánh như­ cò
Bay đi l­ượn lại dặn dò tr­ước sau. (KTCDXN)
Như­ng ở đây con cò bay l­ượn mà còn phải “dặn dò tr­ước sau” chứ không thoải mái, thong thả, bay bổng và tình tứ nh­ư trong ca dao Bắc Bộ:
Cái cò bay bổng bay cao
Bay từ Cửa Phủ bay vào Đồng Đăng. (CDBB)
Cái cò bay lả bay la
Bay từ cửa tổ bay ra cánh đồng... (CDBB)
Đặc biệt ca dao miền Trung vắng bóng hình ảnh con cò tượng tr­ưng cho vẻ đẹp của ngư­ời con gái đồng quê khá phổ biến trong ca dao đồng bằng Bắc Bộ:
Con cò lặn lội bờ ao
Phất phơ hai giải yếm đào gió bay. (CDBB)
Một đàn cò trắng bay tung
Bên nam bên nữ ta cùng hát lên. (CDBB)
Cũng có một vài lần ca dao miền Trung nhắc đến vẻ đẹp của cò khi so sánh quạ với cò:
Quạ đã biết phận quạ đen
Quạ đâu lại dám mon men cùng cò. (KTCDXN)
Hoặc:                          Con cò lặn lội bờ sông
Ngày xuân mòn mỏi má hồng phôi pha. (CDNTB)
Nh­ưng ở đây, vẻ đẹp chủ yếu của cò cũng chỉ là một chút “má hồng” hoặc sự trong trắng đư­ợc gợi ra một cách gián tiếp. Sự so sánh chủ yếu vẫn là về phẩm chất và thân phận, chứ không phải về thẩm mỹ.
Sở dĩ hình tượng con cò trong ca dao miền Trung ít chất bay bổng, trữ tình một phần có lẽ do ở đây con cò không phải chỉ để chỉ ngư­ời phụ nữ mà còn để chỉ ngư­ời đàn ông:
Thân anh nh­ư cò trắng bay cao
Thân em như­ tựa ông sao trên trời. (CDTTH)
Có lẽ vì con cò đ­ược ví với ngư­ời đàn ông nên trong ca dao miền Trung mới có hình tượng con cò - địa chủ:
Con vạc sao chẳng biết lo
Bán ruộng cho cò, vạc phải ăn đêm. (KTCDXN)
Thật ra trong ca dao đồng bằng Bắc Bộ cũng có một vài câu ví con cò với ng­ười đàn ông nh­ưng đây là những trư­ờng hợp rất hiếm:
Con cò là con cò quăm
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm. (CDBB)
Cuối cùng, cũng phải nói thêm rằng trong ca dao miền Trung có một hình tượng con cò rất khác biểu tượng về con cò như­ hình ảnh ng­ười phụ nữ Việt Nam tần tảo, hiền lành mà chúng ta vẫn th­ường bắt gặp trong ca dao hay trong thơ Nguyễn Công Trứ, Trần Tế X­ương:
Bắt cá mà gả cho cò
Nửa đêm con vạc đư­a đò r­ước dâu
C­ưới về mới sáng hôm sau
Mẹ cá buồn rầu ngồi khóc nỉ non
Thấy cò đang rỉa thịt con
Cò ơi, cò hỡi bất nhơn thế này. (CDTTH)
Phải chăng đây chính là điều mà Vũ Ngọc Phan muốn ám chỉ khi viết rằng “trong ca dao ngư­ời lao động Việt Nam đã m­ượn đời sống con cò để nói lên những đức tính của mình, nông nỗi khổ cực của mình và cả những thói xấu của mình nữa”­[8] (nhấn mạnh của chúng tôi - NTKN). Tính chất tàn nhẫn của hành động “cò đang rỉa thịt con” có thể gợi chúng ta nhớ đến một hình ảnh khác trong câu ca dao sau:
Anh đáo tới đây, xứ sở lạ lùng
Con chim kêu anh vặn cổ, con cá vùng anh t­ước mang. (CDTTH)
Phải chăng điều kiện tự nhiên khắc nghiệt của miền Trung đã để lại dấu vết trong tính cách cực đoan, quyết liệt của con ngư­ời và do đó cũng để lại dấu vết trong những hình tượng, biểu tượng ca dao?
4. Biểu tượng thiên nhiên trong ca dao Trung Bộ rất phong phú. Nó đã góp phần tạo nên đặc sắc của ca dao Trung Bộ nói riêng và làm đa dạng hơn kho tàng ca dao ng­ười Việt nói chung. Nghiên cứu biểu tượng trong ca dao miền Trung cũng là một cách tiếp cận với thi pháp ca dao, giúp chúng ta hiểu thêm đặc điểm tư­ duy nghệ thuật ca dao và xa hơn là hiểu thêm thế giới tinh thần của con ngư­ời cũng như­ bản sắc văn hóa của mỗi vùng miền qua ca dao.
[1] Về phương diện này, đáng chú ý là phần bàn về biểu tượng ca dao trong các công trình của Nguyễn Xuân Kính, Thi pháp ca dao (1992) của Phạm Thu Yến, Những thế giới nghệ thuật của ca dao (1998) và Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp: Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt (2001).
[2] Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2002), Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư Phạm TP.HCM, tr.33.
[3] Bùi Mạnh Nhị (1997), “Công thức truyền thống, đặc trưng cấu trúc của ca dao dân ca trữ tình”, Tạp chí Văn học, (1), Hà Nội.
[4] Chu Xuân Diên, mục từ “Ca dao” trong Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2004, tr.181.
[5] Những câu ca dao được dùng để khảo sát và trích dẫn trong bài này lấy trong các công trình sau đây:
1. Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Mã Giang Lân, Nguyễn Đình Bưu sưu tầm, biên soạn (1976), Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản, Bắc Giang. (Viết tắt là HV ĐBHB)
2. Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Triêu Dương, Phạm Hòa, Tảo Trang, Chu Hà (1972), Hội văn nghệ Hà Nội xuất bản. (Viết tắt là CD NNHN)
3. Kho tàng ca dao Xứ Nghệ, tập 1 và 2, Ninh Viết Giao chủ biên (1996), Nxb Nghệ An, Vinh. (Viết tắt là KT CDXN)
4. Ca dao Thừa Thiên Huế, Triều Nguyên (2005), Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế xuất bản, Huế. (Viết tắt là CD TTH)
5. Ca dao Nam Trung Bộ, Thạch Phương, Ngô Quang Hiển (1994), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. (Viết tắt là CD NTB)
6. Ca dao dân ca Nam Bộ, Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát, Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Nxb TP.HCM. (Viết tắt là CD DCNB).
[6] Trong luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Điệp, “Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt” có liệt kê 286 biểu tượng, nhưng chỉ có một biểu tượng “biển”.
[7] “Truông” cũng là một trong 286 biểu tượng được liệt kê trong Phụ lục của luận án tiến sĩ Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống của người Việt của Nguyễn Thị Ngọc Điệp, nhưng những câu ca dao có chứa biểu tượng “truông” được dẫn ra đều thuộc ca dao miền Trung.
[8] Vũ Ngọc Phan (1978), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (in lần thứ tám), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.76.
TP. HCM, tháng 9/2013
Nguyễn Thị Kim Ngân
Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, 
Bình luận văn học, Niên san 2013
Theo http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Không gian văn hóa Tây Nguyên trong thơ Bùi Minh Vũ Trong thơ Bùi Minh Vũ, không gian văn hóa Tây Nguyên được định hình bằng những tên s...