“Em là hoa huệ trắng”,
“Em là hoa huệ trắng - Nở trong trái tim Anh - Em là
ngàn tia nắng - Soi đời Anh ngọt lành...”, những câu thơ rất quen thuộc xưa nay
vẫn được cho là của thi hào Đức Heinrich Heine (1787-1856), nhưng theo một phát
hiện mới, lạ lùng thay, thực ra nó là của một tác giả Việt Nam, viết cách đây gần
năm thập niên. Bài viết của Thymianka Thảo Nguyên từ Berlin, CHLB Đức.
Bài thơ của tác giả Vũ Lương trong sổ thơ một người bạn
Sáng qua, không hiểu có điều gì xôn xao mà tôi mua cho mình một
bó hoa huệ trắng. Huệ ở trời Tây là thứ hoa kiêu kỳ phù phiếm vì nó vừa thơm, vừa
hiếm, lại mau tàn và cũng… không hề rẻ. Tôi ít mua huệ cho riêng mình vì mùi
thơm của nó thường là nỗi ám ảnh rất sâu. Nhưng nó còn ám ảnh hơn nữa khi chiều
nay, một cô bạn thân run run gọi điện, báo tin, bài thơ “Em là hoa huệ trắng”
mà tôi và nàng cùng yêu thích bấy lâu nay hóa ra lại là của Vũ Lương, một người
bạn, người anh vô cùng gần gũi và thân thiết với chúng tôi.
Thế là cả tối nay, mặc dù rất bận cho ngày lễ của những đôi nhân tình (14-2), tôi cũng dán mắt vào cái máy tính, hết chat cho người này lại gọi điện cho người kia như con thoi để nghe chuyện, hỏi han, ghi chép... Câu chuyện về bài thơ và hành trình 45 năm lưu lạc đầy thú vị và cảm động đến nỗi, tôi biết, cả mấy anh em đêm nay đều rất khó ngủ. Sài Gòn thì đã rạng sáng mà Berlin thì cũng đã quá nửa đêm lúc nào không hay.
Sau đây là một phần những chia sẻ của anh Vũ Lương:
Tiến sĩ Tô Văn Trường, một cây bút viết phản biện nổi tiếng, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Nam Bộ, nguyên trợ lý của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một người rất yêu thơ. Cách đây nửa năm, anh gửi cho tôi qua mail mấy bài thơ mà anh ấy yêu thích. Trong đó, có bài “Em là...”, và đề tên tác giả được đề là Heinrich Heine, thi hào người Đức.
Vừa vui, vừa ngạc nhiên, tôi viết lại cho anh Trường, nói rằng, ông Heinrich Heine không viết bài này. Vì tác giả là... tôi, Vũ Lương.
Từ Sài Gòn, Vũ Lương đã thức trắng đêm để kể lại cho tôi câu chuyện về bài thơ và hành trình của nó. Tại sao, từ “Em là...” của Vũ Lương, một chàng sinh viên Việt Nam, lại biến thành bài “Em là hoa huệ trắng” của Heinrich Heine tận nước Đức xa xôi?
Tôi học Đại học Giao thông Vận tải, khóa 6.
Năm 1965, sơ tán lên vùng Mai Sưu, huyện Lục Nam, Hà Bắc. Hồi ấy, chúng tôi phải vào rừng chặt tre, nứa, cắt cỏ gianh về dựng lán, làm lớp học, đào giếng... Giảng đường gần những khu rừng dẻ, có suối chảy quanh, nên trong thơ tôi viết, thường có hình ảnh đồi dẻ, dòng suối....
Bài thơ “Em là...” được viết năm 1967, vào cuối năm thứ hai, và viết cho chính mình, theo cảm xúc của một thanh niên mới lớn. Khi ấy, chưa có bạn gái, càng chưa biết yêu, chiến tranh mà. Hồi ấy tôi làm nhiều thơ lắm. Nhưng cũng không tặng ai, chỉ cho chính mình và bạn bè đọc thôi.
Thế là cả tối nay, mặc dù rất bận cho ngày lễ của những đôi nhân tình (14-2), tôi cũng dán mắt vào cái máy tính, hết chat cho người này lại gọi điện cho người kia như con thoi để nghe chuyện, hỏi han, ghi chép... Câu chuyện về bài thơ và hành trình 45 năm lưu lạc đầy thú vị và cảm động đến nỗi, tôi biết, cả mấy anh em đêm nay đều rất khó ngủ. Sài Gòn thì đã rạng sáng mà Berlin thì cũng đã quá nửa đêm lúc nào không hay.
Sau đây là một phần những chia sẻ của anh Vũ Lương:
Tiến sĩ Tô Văn Trường, một cây bút viết phản biện nổi tiếng, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Nam Bộ, nguyên trợ lý của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt là một người rất yêu thơ. Cách đây nửa năm, anh gửi cho tôi qua mail mấy bài thơ mà anh ấy yêu thích. Trong đó, có bài “Em là...”, và đề tên tác giả được đề là Heinrich Heine, thi hào người Đức.
Vừa vui, vừa ngạc nhiên, tôi viết lại cho anh Trường, nói rằng, ông Heinrich Heine không viết bài này. Vì tác giả là... tôi, Vũ Lương.
Từ Sài Gòn, Vũ Lương đã thức trắng đêm để kể lại cho tôi câu chuyện về bài thơ và hành trình của nó. Tại sao, từ “Em là...” của Vũ Lương, một chàng sinh viên Việt Nam, lại biến thành bài “Em là hoa huệ trắng” của Heinrich Heine tận nước Đức xa xôi?
Tôi học Đại học Giao thông Vận tải, khóa 6.
Năm 1965, sơ tán lên vùng Mai Sưu, huyện Lục Nam, Hà Bắc. Hồi ấy, chúng tôi phải vào rừng chặt tre, nứa, cắt cỏ gianh về dựng lán, làm lớp học, đào giếng... Giảng đường gần những khu rừng dẻ, có suối chảy quanh, nên trong thơ tôi viết, thường có hình ảnh đồi dẻ, dòng suối....
Bài thơ “Em là...” được viết năm 1967, vào cuối năm thứ hai, và viết cho chính mình, theo cảm xúc của một thanh niên mới lớn. Khi ấy, chưa có bạn gái, càng chưa biết yêu, chiến tranh mà. Hồi ấy tôi làm nhiều thơ lắm. Nhưng cũng không tặng ai, chỉ cho chính mình và bạn bè đọc thôi.
Chị Lan năm 20 tuổi dán ở đầu cuốn thơ
Một lần, khi ấy là khoảng tháng 12-1969, trong đợt đi thực tập ở Hải Phòng tôi
gặp chị Đào Thúy Lan, vừa là hàng xóm, vừa là chị gái của một người bạn. Chị
Lan cũng đi thực tập chuẩn bị tốt nghiệp Đại học Thương Nghiệp.
Tuổi trẻ thời ấy thiếu thốn đủ thứ, nhất là các món ăn tinh thần. Nhưng sinh viên hầu như ai cũng có một cuốn sổ chép đủ thứ từ thơ, đến danh ngôn và nhiều thứ linh tinh, riêng tư khác. Chị Lan cũng có một cuốn sổ như thế và chị đã nhờ tôi chép mấy bài thơ vào đó cho chị. Trong đó có bài “Em là...”.
Bài thơ này, cũng như những bài khác, mới chỉ đăng trên bích báo của lớp Đại học Giao thông Vận tải hồi đó và cũng chỉ một lần, duy nhất, tôi viết vào sổ tay thơ của chị Đào Thúy Lan. Rồi sau đó, cuộc sống ồn ào với nhiều thay đổi đã kéo tôi đi. Tôi cũng ít khi còn nhớ tới bài thơ cùng số phận của nó suốt bao nhiêu năm trời.
Nhưng từ cuốn sổ tay của chị, bài thơ đã được truyền tay nhau, có một đời sống không ngừng nghỉ, qua rất nhiều thế hệ sinh viên.
Lá thư tôi viết cho tiến sĩ Tô Văn Trường cũng chỉ dừng lại ở đó nếu như ngày 11-2-2014, tôi không vào Google. Gõ dòng chữ: “Em là hoa huệ trắng, nở trong...” và thấy có rất nhiều kết quả. Thật ngỡ ngàng, bài thơ được chọn là một trong những bài thơ tình hay nhất, nổi tiếng nhất...
Tất nhiên, tôi rất xúc động vì không thể ngờ tới sức lan tỏa của bài thơ. Gần nửa thế kỷ trôi qua, biết bao nhiêu người đã đoc và ghi chép, truyền tay nhau qua nhiều thế hệ. Đó là điều vượt quá sức tưởng tượng của người làm ra nó.
Tôi nghĩ, có thể một phần do người đời đã gán tên Heine cho nó nên sức hấp dẫn được tăng lên.
Điều sung sướng, là khi đọc vài cảm nghĩ của người đọc, họ còn nhầm tác giả là một nhà thơ Nga, do anh Thúy Toàn dich... Và cha của chàng trai ấy, khi còn trẻ, đã chép bài này trong sổ tay. Theo anh, nhờ bài thơ, mà cha đã “cua” được... má của chàng!
Khi viết thư cho tiến sĩ Tô Văn Trường, tôi cũng phân tích vài chi tiết trong bài thơ.
Nhất là, câu: “Em là bông lan đá/ Hương tỏa ngát núi rừng”. Khi ấy, mình có nhìn thấy bông lan đá bao giờ đâu. Đấy là tôi nhớ tới lời bài hát trong khi tham gia dàn hợp xướng của trường cấp ba Đoàn Kêt, năm học lớp 10, niên khóa 1964. Bài hát “Câu chuyện một đêm xuống núi” của nhạc sĩ Hồng Đăng, nói về chiến tranh chống Pháp ở khu vực Núi Voi, Hải Phòng.
Lời bài hát:
“Đứng trên đỉnh núi ta thề
Không giết được giặc không về núi Voi
Núi ơi nhớ chăng ngày xưa,
Tuổi trẻ thời ấy thiếu thốn đủ thứ, nhất là các món ăn tinh thần. Nhưng sinh viên hầu như ai cũng có một cuốn sổ chép đủ thứ từ thơ, đến danh ngôn và nhiều thứ linh tinh, riêng tư khác. Chị Lan cũng có một cuốn sổ như thế và chị đã nhờ tôi chép mấy bài thơ vào đó cho chị. Trong đó có bài “Em là...”.
Bài thơ này, cũng như những bài khác, mới chỉ đăng trên bích báo của lớp Đại học Giao thông Vận tải hồi đó và cũng chỉ một lần, duy nhất, tôi viết vào sổ tay thơ của chị Đào Thúy Lan. Rồi sau đó, cuộc sống ồn ào với nhiều thay đổi đã kéo tôi đi. Tôi cũng ít khi còn nhớ tới bài thơ cùng số phận của nó suốt bao nhiêu năm trời.
Nhưng từ cuốn sổ tay của chị, bài thơ đã được truyền tay nhau, có một đời sống không ngừng nghỉ, qua rất nhiều thế hệ sinh viên.
Lá thư tôi viết cho tiến sĩ Tô Văn Trường cũng chỉ dừng lại ở đó nếu như ngày 11-2-2014, tôi không vào Google. Gõ dòng chữ: “Em là hoa huệ trắng, nở trong...” và thấy có rất nhiều kết quả. Thật ngỡ ngàng, bài thơ được chọn là một trong những bài thơ tình hay nhất, nổi tiếng nhất...
Tất nhiên, tôi rất xúc động vì không thể ngờ tới sức lan tỏa của bài thơ. Gần nửa thế kỷ trôi qua, biết bao nhiêu người đã đoc và ghi chép, truyền tay nhau qua nhiều thế hệ. Đó là điều vượt quá sức tưởng tượng của người làm ra nó.
Tôi nghĩ, có thể một phần do người đời đã gán tên Heine cho nó nên sức hấp dẫn được tăng lên.
Điều sung sướng, là khi đọc vài cảm nghĩ của người đọc, họ còn nhầm tác giả là một nhà thơ Nga, do anh Thúy Toàn dich... Và cha của chàng trai ấy, khi còn trẻ, đã chép bài này trong sổ tay. Theo anh, nhờ bài thơ, mà cha đã “cua” được... má của chàng!
Khi viết thư cho tiến sĩ Tô Văn Trường, tôi cũng phân tích vài chi tiết trong bài thơ.
Nhất là, câu: “Em là bông lan đá/ Hương tỏa ngát núi rừng”. Khi ấy, mình có nhìn thấy bông lan đá bao giờ đâu. Đấy là tôi nhớ tới lời bài hát trong khi tham gia dàn hợp xướng của trường cấp ba Đoàn Kêt, năm học lớp 10, niên khóa 1964. Bài hát “Câu chuyện một đêm xuống núi” của nhạc sĩ Hồng Đăng, nói về chiến tranh chống Pháp ở khu vực Núi Voi, Hải Phòng.
Lời bài hát:
“Đứng trên đỉnh núi ta thề
Không giết được giặc không về núi Voi
Núi ơi nhớ chăng ngày xưa,
lời thề một đêm xuống núi,
nhìn quê hương mà lòng ngậm
ngùi”.
...và:
“Nhìn bông lan đá đang mùa nở hoa
Núi là Mẹ hiền yêu dấu,
...và:
“Nhìn bông lan đá đang mùa nở hoa
Núi là Mẹ hiền yêu dấu,
đã từng cùng ta chiến đấu,
Một bức tranh do anh Vũ Lương vẽ, trong cuốn sổ thơ
Thêm một chi tiết nữa, là trong bài thơ gốc chép ở cuốn sổ, có xóa một dòng.
Lúc đầu, ở khổ 4 tôi viết:
“Em là cây tùng xanh
Vươn cao trong bão táp
Em là chim mùa xuân
Sải rộng đôi cánh đẹp”
Nhưng khi viết vào sổ, tôi chữa lại là:
“Em là cây tùng xanh
Vươn cao trong bão tố
Em là chim mùa xuân
Bay vờn trên biển cả”
Nên ở khổ bốn, có 5 dòng. Dòng thứ 4 chính là dòng xóa.
Ngoài ra, nguyên bản một câu là:
“Em là đồi cây dẻ
“Em là cây tùng xanh
Vươn cao trong bão táp
Em là chim mùa xuân
Sải rộng đôi cánh đẹp”
Nhưng khi viết vào sổ, tôi chữa lại là:
“Em là cây tùng xanh
Vươn cao trong bão tố
Em là chim mùa xuân
Bay vờn trên biển cả”
Nên ở khổ bốn, có 5 dòng. Dòng thứ 4 chính là dòng xóa.
Ngoài ra, nguyên bản một câu là:
“Em là đồi cây dẻ
Còn bản lưu truyền bây giờ là:
“Trăng sáng ôm mênh mông”
May mà chị Lan còn giữ cuốn sổ dù đã qua nửa thế kỷ. Và vẫn gối đầu giường bởi nó lưu giữ những tháng năm tuổi trẻ của chị. Ngày hôm qua, 12-2-2014, sau một cuộc điện thoại, tôi đã gặp chị và cầm lại trên tay cuốn sổ ố vàng sau gần nửa thế kỷ.
Nhìn màu giấy, nét chữ, cùng những hình vẽ và bài thơ do chính tay mình viết, tôi không sao ngăn được cảm xúc. Phải là một cơ duyên may mắn đến nhường nào, mới có thể gặp lại đứa con lưu lạc sau ngần ấy thời gian. Nhất là, đứa con ấy, đã được sống một đời sống hết sức kỳ lạ và sôi động trong lòng người yêu thơ.
May mà chị Lan còn giữ cuốn sổ dù đã qua nửa thế kỷ. Và vẫn gối đầu giường bởi nó lưu giữ những tháng năm tuổi trẻ của chị. Ngày hôm qua, 12-2-2014, sau một cuộc điện thoại, tôi đã gặp chị và cầm lại trên tay cuốn sổ ố vàng sau gần nửa thế kỷ.
Nhìn màu giấy, nét chữ, cùng những hình vẽ và bài thơ do chính tay mình viết, tôi không sao ngăn được cảm xúc. Phải là một cơ duyên may mắn đến nhường nào, mới có thể gặp lại đứa con lưu lạc sau ngần ấy thời gian. Nhất là, đứa con ấy, đã được sống một đời sống hết sức kỳ lạ và sôi động trong lòng người yêu thơ.
Thay lời kết:
Chị Đào Thúy Lan hiện giờ 75 tuổi, đã nghỉ hưu hơn chục năm. Sống ở khu dân cư
Trường Đại học Quốc gia Thủ Đức.
Tác giả, nhà báo, nhà thơ Vũ Lương, hiện sống tại Sài Gòn. Anh sẽ có mặt ở Berlin trong vòng một tuần nữa cùng cuốn sổ vô giá của chị Lan. Và câu chuyện thú vị đầy lãng mạn về bài thơ hoa huệ của anh, sẽ còn nhiều bất ngờ nữa.
Tác giả, nhà báo, nhà thơ Vũ Lương, hiện sống tại Sài Gòn. Anh sẽ có mặt ở Berlin trong vòng một tuần nữa cùng cuốn sổ vô giá của chị Lan. Và câu chuyện thú vị đầy lãng mạn về bài thơ hoa huệ của anh, sẽ còn nhiều bất ngờ nữa.
Chị Lan và cuốn sổ thơ của một thời...
(Bài thơ chép từ nguyên bản gốc trong cuốn sổ của chị Lan)
EM LÀ...
Em là hoa huệ trắng
Nở trong trái tim Anh
Em là ngàn tia nắng
Soi đời Anh ngọt lành
Em là những ước mơ
Mà anh hằng khát vọng
Em là một hồn thơ
Chứa chan đầy sức sống
Em là từng đợt sóng
Ôm ấp mạn tàu Anh
Em là vì sao sáng
Dọi màn đêm lung linh
Em là cây tùng xanh
Vươn cao trong bão tố
Em là chim mùa xuân
Bay vờn trên biển cả
Em là bông lan đá
Hương tỏa ngát núi rừng
Em là đồi cây dẻ
Trăng vàng ôm mông mênh
Em là dòng suối trong
Những buổi chiều Anh tắm
Em là dáng hoàng hôn
Lúc nhớ nhà Anh ngắm
Trong mắt Em thăm thẳm
Anh thấy cả đất trời
Cách xa tình vẫn đẹp
Có phải không Em ơi!.
EM LÀ...
Em là hoa huệ trắng
Nở trong trái tim Anh
Em là ngàn tia nắng
Soi đời Anh ngọt lành
Em là những ước mơ
Mà anh hằng khát vọng
Em là một hồn thơ
Chứa chan đầy sức sống
Em là từng đợt sóng
Ôm ấp mạn tàu Anh
Em là vì sao sáng
Dọi màn đêm lung linh
Em là cây tùng xanh
Vươn cao trong bão tố
Em là chim mùa xuân
Bay vờn trên biển cả
Em là bông lan đá
Hương tỏa ngát núi rừng
Em là đồi cây dẻ
Trăng vàng ôm mông mênh
Em là dòng suối trong
Những buổi chiều Anh tắm
Em là dáng hoàng hôn
Lúc nhớ nhà Anh ngắm
Trong mắt Em thăm thẳm
Anh thấy cả đất trời
Cách xa tình vẫn đẹp
Có phải không Em ơi!.
Vũ Lương, Hải Phòng, 22-12-1969
Ghi chú (của NCTG):
(*) Bài thơ có lẽ là duy nhất về Hoa huệ của Heinrich Heine:
Die Rose, die Lilie, die Taube, die Sonne,
Die liebt' ich einst alle in Liebeswonne,
Ich lieb' sie nicht mehr, ich liebe alleine
Die Kleine, die Feine, die Reine, die Eine;
Sie selber, aller Liebe Wonne,
Ist Rose und Lilie und Taube und Sonne.
Ghi chú (của NCTG):
(*) Bài thơ có lẽ là duy nhất về Hoa huệ của Heinrich Heine:
Die Rose, die Lilie, die Taube, die Sonne,
Die liebt' ich einst alle in Liebeswonne,
Ich lieb' sie nicht mehr, ich liebe alleine
Die Kleine, die Feine, die Reine, die Eine;
Sie selber, aller Liebe Wonne,
Ist Rose und Lilie und Taube und Sonne.
Thảo Nguyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét