Hiện thực cuộc sống từ “Thế rồi
một buổi chiều” của Nhất Linh
Văn học từ lâu đã trở thành một nhu cầu tinh thần không thể
thiếu trong đời sống con người. Trong hoàn cảnh sống, nhân dân lao động qua các
thế hệ vẫn nối tiếp nhau thầm lặng sáng tạo văn học của riêng mình. Niềm vui, nỗi
buồn, hoàn cảnh, tư tưởng, văn hóa phong tục có thể đưa con người đến với nền
văn học và nghệ thuật.
Mỗi người cầm bút có một mối quan tâm riêng, điều đó tạo nên
đặc thù trong sáng tác văn học của họ, nhằm một mục đích nào đó, bằng cách này
hay cách khác để gửi gắm thông điệp hay ít ra cũng gửi đến công chúng những suy
nghĩ, những hiểu biết phong phú, giải phóng con người khỏi những suy nghĩ chật
hẹp của bản thân. Văn học giúp cho con người có được trạng thái vui, buồn, yêu,
ghét nhiều hơn, tạo ra những biến đổi trong tư tưởng, tình cảm. Văn học còn là
nguồn phản ánh hiện thực cuộc sống một cách sinh động và là nguồn tiếp sức năng
lượng tinh thần cho con người trong cuộc sống. “Khám phá và thể hiện đời sống
tâm lý của con người cùng những mối quan hệ xã hội đa dạng của nó, văn học giúp
con người liên tưởng đến cuộc sống của chính bản thân mình. Nhiều tác phẩm đi
vào đời sống tinh thần người đọc như những tấm gương soi, giúp người đọc phát
hiện ra chính bản thân mình. Sự nhận thức thế giới biến thành quá trình tự ý thức
của người đọc” [1, 54]. “Thế rồi một buổi chiều” là một tác phẩm văn học
phản ánh hiện thực cuộc sống qua câu chuyện tình cảm lãng mạn giữa một sư cô và
một thanh niên cách mạng. Qua đó, nhà văn Nhất Linh gợi cho người đọc nhận thức
được tình huống và kết quả của vấn đề xảy ra trong cốt truyện. Hoàn cảnh đã đưa
họ gặp nhau, sự băn khoăn khi phát sinh tình cảm và sự quyết định cuối cùng của
cả hai là “đi theo tiếng gọi của đời tục lụy, đời ái ân”.
Trong “Thế rồi một buổi chiều”, Nhất Linh đã tạo ra nhân
vật Dũng đang gặp nạn, bị truy đuổi của bọn người xấu xa, cùng đường nên “liều
vào một cái ngõ con, đi hết quãng đường, gặp một cái cổng chùa, nửa khép nửa mở” và
Dũng hít phải “một dãy hồng nở hoa, thoang thoảng đưa hương thơm” (chất lãng mạn
mở đầu). Nơi đây, Dũng được Sư bà cứu nạn và gặp được “đôi mắt hoa đương đăm đăm
nhìn chàng, đôi mắt ngạc nhiên của cô sư trẻ tuổi” (cái duyên gặp gỡ ban đầu).
Rồi khi Dũng hốt hoảng, lo sợ trước tình cảnh nguy cấp của mình, thì Dũng lại “lấy
làm ngạc nhiên về cử chỉ của cô sư. Chàng thoáng thấy vẻ đẹp oanh liệt, lạ lùng
hiện lên nét mặt dịu dàng của người sư nữ đã điềm tĩnh tìm cách cứu chàng, che
chở chàng như một người chị”. Khi được thoát nạn, Dũng “mới để ý đến giọng
thanh tao của vị sư nữ, đến đôi bàn tay xinh xắn, trắng trẻo đương nhẹ nhàng xếp
lại mấy phần oản, và đôi bàn chân nhỏ nhắn trong dép da mộc mạc”, “dưới ánh
đèn, nét mặt sư cô nhiễm một vẻ đẹp thần tiên: hai con mắt từ bi dịu dàng nhìn
Dũng thương hại, như an ủy chàng”. Rồi vì tính mạng, cuộc đi bất toàn, Dũng được
sư cô cho tạm lánh trong một gác khánh bỏ hoang để chờ cơ hội ra đi. Dũng ở đây
trong mười ngày, nhận được sự quan tâm ân cần của sư cô. Đôi khi, Dũng cảm thấy
ngại vì “sư cô là người tu hành, tôi là một người… một người trần tục”,
nhưng Dũng lại cảm nhận sư cô “là một người sư nữ vừa dịu dàng, xinh đẹp,
lại vừa lanh lẹ, vui tính. Đó là một sự thường lắm”. Một tình cảm phát sinh
trong lòng Dũng ngày một lớn “dần dần Dũng thấy sự mong mỏi của mình vượt
ra ngoài sự thường đó, chàng tha thiết gặp mặt sư cô như người khát mong được uống
nước suối… Khi trông thấy sư cô, Dũng thấy trong lòng êm ả, quên hẳn cái thân
trốn tránh, tưởng tượng như người đương đi nắng thấy thoang thoảng có hương sen
theo ngọn gió mát ở đâu đưa lại”. Nói chung, Dũng đã dành tất cả sự ưu ái và
ngưỡng mộ đối với sư cô để rồi cuối cùng dẫn đến một tình yêu chân thật.
Quan điểm của sư cô lúc đầu khi cứu Dũng thoát khỏi tình trạng
nguy cấp: “là kẻ tu hành, thì cốt chỉ có lòng thương người, xin ông đừng
quan tâm gì cả”. Nhưng “dần dần hai người trông thấy nhau có vẻ thẹn
thùng, ngượng nghịu”. Và, “Thế rồi một buổi chiều… sư cô thấy tâm hồn mình lạnh
lẽo với gió hiu hiu rung động với lá thông rì rào… chiều hôm ấy, đem lại cho sư
cô những cảm giác mới lạ, gợi trí sư cô nghĩ tới những nỗi ái ân, yêu thương của
quãng đời đã qua, quãng đời mà sư cô tưởng đã xóa mờ trong trí nhớ… nàng lánh đời
ba năm nay… trong da thịt nàng cái dư vị không bao giờ phai của những sự yêu
thương cũ”. Đối trước câu hỏi của Dũng “sư cô, vì sao lại đi tu?”, đã gợi
cho sư cô nhớ lại “những ngày đau đớn của quãng đời tục lụy ba năm về trước…
nàng muốn lánh xa sự đau khổ thì sự đau khổ lại càng như ác nghiệt đuổi theo”.
Từ đây, nguyên nhân sư cô che chở cho Dũng được hé lộ: “sự tình cờ run rủi
cho nàng gặp Dũng, một thiếu niên có chí khí mà ngay lúc buổi đầu khi tìm cách
che chở, nàng đã đem lòng ái mộ”. Khi biết được nguyên nhân sư cô đi tu, Dũng
đã đưa ra lời khuyên rằng: “Nếu sư muốn lánh xa tình ái mà vào đây thì thực
là nhầm. Sư cô tưởng con đường đi tới sự quên, con đường ấy chỉ đưa người ta đến
sự nhớ mà thôi… Theo ý tôi tưởng, người ta muốn quên… không gì hơn là quên mình
trong sự hành động”. Dũng cũng có hoàn cảnh khổ đau, nhưng khi “chàng dấn
thân vào một cuộc đời hoạt động, một cuộc đời sống vì người khác, chàng đã quên
hẳn được những vết thương cũ, đời chàng tuy vất vả nhưng tâm hồn chàng lúc nào
cũng thư thái”.
Nhà văn Nhất Linh đã mô tả diễn tiến tâm trạng của người sư nữ
đi tu vì chán nản đến tuyệt vọng quãng đời tục lụy của mình. Nhưng khi vào chùa
tu trong ba năm qua thì “tiếng chuông chùa với mùi nhang thơm chỉ như gợi
cho nàng nghĩ đến sự lạnh lẽo của một đời cô độc, khô khan, gợi cho nàng mơ ước
những sự yêu thương vơ vẩn”, “nàng mơ màng nghe thấy một tiếng khác tha
thiết hơn: đó là tiếng gọi của tình thương yêu không thể dập tắt trong lòng,…”,
nghĩa là sư cô vẫn chưa giải thoát được sự ràng buộc của ái tình. Khi gặp Dũng,
nghe Dũng nói chuyện, sư cô đã xác định “những câu nói của Dũng nói ra, sư
cô cho là rất phải, rất hợp với tâm hồn sư cô”. Còn Dũng “chàng thấy tâm
tính chàng đối với sư nữ không phải là một thứ tình thoáng qua, một thứ tình có
thể theo thời gian mà phai lạt được”. Hai con người, với hai hoàn cảnh đã có sự
cảm thông với nhau và thật sự đã có tình cảm với nhau, “hai người mà trước kia sự
chán nản ở đời đã làm cho tâm hồn khô héo, rỗng không, nhưng nay lại trở về với
cái đời đầy đủ, cùng đem theo hai tấm tình yêu và hai tấm lòng ham sống”. Nhất
Linh đã xây dựng tâm trạng người cô đơn nhưng đang đối diện trước một khung cảnh
ấm áp, khơi gợi tình yêu của cuộc đời: “trong căn gác nhỏ ấm áp, dưới ánh
sáng lờ mờ của ngọn đèn con, hai người ngồi đối diện bên mấy chén chè nóng, hơi
lên nghi ngút. Bên ngoài bắt đầu mưa to…”. Cuối cùng thì nhà Phật không thể “yên
ủy” cho những tâm hồn chán nản nên họ đã quyết định cùng nhau ra đi, mặc kệ
cho: “sau lưng hai người, tiếng chuông chùa liên tiếp nhau mỗi lúc một nhỏ,
rồi như đua nhau, theo nhau dần dần tan vào quãng hư vô…”. Họ đã ra đi, không cần
biết rồi đây cuộc sống sẽ ra sao, chỉ biết hiện tại này, họ khao khát một tình
yêu của cuộc đời như những con người thế tục.
Nhà văn Nhất Linh
Có thể cho rằng, nhà văn Nhất Linh đã đưa ra một tình huống của
cuộc đời, một cái “duyên” của con người thế gian khi vướng vào tục lụy, điểm
hay dở, tốt xấu thì độc giả sẽ tự cảm nhận được. Điều đáng nói ở đây, nhà văn
Nhất Linh có thể đúng khi viết: “một tâm hồn chán nản mà nhà Phật không thể
yên ủy được”. Dưới cái nhìn Phật học, đi sâu vào kinh tạng Nguyên thủy hoặc Luật
tạng của Phật giáo, người xuất gia đúng Chánh pháp là người “vì lòng tin
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, không xảo trá, không lường gạt,
không hư ngụy, không mất thăng bằng, không cao mạn, không dao động, không nói
phô tạp nhạp, hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, chú tâm tỉnh giác, không thờ
ơ với Sa-môn hạnh, tôn kính học tập, sống không quá đầy đủ, không uể oải, từ bỏ
thối thất, đi đầu trong viễn ly, tinh cần, tinh tấn, chánh niệm, an trú, tỉnh
giác, định tĩnh, nhứt tâm, có trí tuệ,…”[2, 116-117]. Thế mới biết, từ bỏ đời sống
gia đình để làm người xuất gia tu hành rất là khó. Người xuất gia phải vì Phật
pháp tồn tại để soi tỏ thế gian. Người muốn xuất gia phải vọng bái lên không
trung lạy bốn ân: cha mẹ, quốc gia, sư trưởng, Tam bảo. Xuất gia phải hoằng
truyền Chánh pháp vì lợi ích của đạo và vì muốn thoát ly sanh tử, nên người xuất
gia không để ngoại trần quấy rối, dao động tâm, luôn lấy “Giới – Định – Tuệ”
làm trọng tâm trên con đường tu hành như Đức Phật đã dạy: “Này các Tỷ-kheo,
vị Tỷ-kheo cần phải quán sát một cách như thế nào để thức của vị ấy đối với ngoại
(trần) không tán loạn, không tản rộng, tâm không trú trước nội (trần), không bị
chấp thủ quấy rối. Này các Tỷ-kheo, nếu thức đối với ngoại (trần) không tán loạn,
không tản rộng, tâm không trú trước nội trần, không bị chấp thủ quấy rối, sẽ
không có tập khởi, sanh khởi của khổ về sanh, già, chết, trong tương lai” [3,
513 - 526]. Lại nữa, “Phẩm Tịnh Lự” trong “Pháp Uẩn Túc Luận” có
nêu bốn hạng người xuất gia: 1) Thân xuất gia nhưng tâm không xuất gia; 2) Tâm
xuất gia nhưng thân chưa xuất gia; 3) Thân và tâm đều xuất gia; 4) Thân và tâm
không xuất gia. Đứng ở khía cạnh Phật học cho “Thế rồi một buổi chiều” thì
nhân vật sư nữ này thuộc hạng người thứ nhất: thân xuất gia nhưng tâm không xuất
gia. Các luận sư A-tỳ-đàm đã phân tích hạng người này như sau: “có một loại
người đối với những dục cảnh, thân người ấy tuy đã xa lìa những dục cảnh, nhưng
tâm vẫn còn đắm trước. Như có người cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, chánh tín xuất
gia. Người này, tuy thân tướng là xuất gia, nhưng tâm vẫn còn tham luyến nhớ
nghĩ về những dục cảnh mà người ấy đã được cảm thọ trước đây. Những người này,
gọi là thân xuất gia mà tâm chưa xuất gia” [4, 194]. Chính vì tâm tánh
chưa xuất gia nên sớm muộn gì vẫn bị nghiệp lực [5] lôi kéo, đó là lẽ đương
nhiên. Sự nhận thức này giúp cho người đọc có thể không rơi vào phê phán nhân vật,
mà trái lại người đọc còn có thể thông cảm cho hoàn cảnh của họ. Nhưng đứng ở
góc độ Phật pháp mà nói, tất nhiên, hạng người này không nên xuất gia, vì chỉ
làm uổng phí thời gian và không đạt kết quả tốt đẹp. Họ có thể chọn đời sống
chánh tín của người Phật tử tại gia là tốt nhất.
Nhất Linh là một trong những bút danh của Nguyễn Tường Tam
(1906-1963). Ông là một chính khách, nhà báo và nhà văn nổi tiếng, là người
thành lập nhóm “Tự lực văn đoàn” của giai đoạn 1930 – 1945 thuộc dòng văn học
hiện đại, từng là chủ bút của tờ báo Phong Hóa, Ngày Nay. Các tác phẩm văn
học của Nhất Linh mang tính hiện thực xã hội và lãng mạn. Tập truyện ngắn “Thế
rồi một buổi chiều” của Nhất Linh được viết những năm 1934 - 1937 [6]. Đây
là thời kỳ mà con người cần phải nương tựa vào nhau mà sống. Cũng là thời kỳ mà
cánh cửa nhà Phật không đủ điều kiện, khả năng để phát triển giáo dục và hoằng
pháp vào cộng đồng Phật tử, thậm chí cộng đồng Phật tử cũng không thể dốc toàn
tâm huyết cho sự nghiệp phát triển Phật pháp. Bằng lối văn điêu luyện, đầy chất
sáng tạo, Nhất Linh đã dẫn dắt người đọc đi vào cốt truyện từ đầu đến cuối một
cách thuyết phục khi lấy bối cảnh xã hội thời kỳ tranh đấu cách mạng, xã hội loạn
lạc.
“Thế rồi một buổi chiều” của Nhất Linh có xu hướng tự do
cá nhân, đầy chất lãng mạn và tính hiện thực xã hội. Điều đó nói lên sự ước mơ
đi theo tiếng gọi của trái tim yêu thương đời thường, khát khao tận hưởng hạnh
phúc của ái tình, sống một đời sống lao động bình thường và tận tụy với công việc.
Nhưng, “Thế rồi một buổi chiều” cũng đã phản ánh một hiện thực cuộc sống
của người xuất gia tu hành không thích hợp với Chánh pháp của Đức Phật. Cửa từ
bi của nhà Phật luôn rộng mở tiếp nhận và chuyển hóa khổ đau, ban vui cho chúng
sanh, nhưng không thể chuyển nghiệp lực của chúng sanh khi họ vẫn còn bó chặt
tâm mình vào tư tưởng, tình cảm thế tục (yêu, ghét, vui, buồn, hận, oán, tương
tư, ái luyến), nghĩa là họ còn “vướng nghiệp trần” theo cách nói của nhà Phật.
Chú thích:
1] Hà Minh Đức (chủ biên) và các tác giả, Lý luận văn học,
NXB. Giáo Dục, Hà Nội, 2007.
[2] Kinh Trung Bộ tập 3 (nguyên bản Pali), Việt dịch:
HT. Thích Minh Châu, NXB.Tôn Giáo, TP. Hồ Chí Minh, 2005.
[3] Kinh Trung Bộ tập 3 (nguyên bản Pali), Việt dịch:
HT. Thích Minh Châu, NXB.Tôn Giáo, TP. Hồ Chí Minh, 2005.
[4] Thích Hạnh Bình, Tìm hiểu giáo lý Phật giáo Nguyên
thủy, NXB Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh, 2007.
[5] Nghiệp lực: Nghiệp là sự tạo tác, tức những hoạt động của
thân tâm như hành vi, ý chí hoặc chỉ cho những sinh hoạt của thân tâm do ý chí
sinh ra. Nếu kết hợp với quan hệ nhân quả thì nghiệp là năng lực được hình
thành do những hành vi đời quá khứ kéo dài đến hiện tại hoặc tương lai. Nghiệp
lực là năng lực của nghiệp. Tất cả quả vui, khổ đều do nghiệp lực dẫn phát.
(theo Từ điển Phật học Huệ Quang, quyển III, Thích Minh Cảnh chủ
biên, NXB. Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2010).
[6] http://vi.wikipedia.org/
Hoa Duyên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét