Tiếng chuông chùa
Kể từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, tiếng chuông chùa
đã in sâu vào tâm hồn của người dân Việt không biết từ lúc nào. Âm thanh trầm bổng
du dương đã làm lắng dịu biết bao tâm hồn đang còn lưu lạc giữa chốn hồng trần,
và còn vấn vương lưu lại trong thi văn, ca nhạc. Cảnh vật như cộng hưởng cùng
tiếng chuông. Tất cả đều trở nên lung linh trầm mặc. Tiếng chuông chùa đã thi vị
và đầy sức sống cảm hóa làm nẩy sinh ra biết bao cảm hứng trong âm nhạc và thơ
văn, chứa chan chất liệu rốt ráo của tinh thần Phật giáo cùng với mối sầu cảm ướp
đầy tình tự quê hương. Mái chùa và tiếng chuông là hình ảnh cùng hồn thiêng của
đất nước đã thẩm thấu mặn mà trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam và đã trở
thành một bộ phận hữu cơ gắn liền với sinh hoạt xóm làng, không thể tách rời.
Tiếng chuông chùa là phương tiện của cửa thiền để mở đường hòa nhập vào đời sống
tâm linh, là âm thanh trầm hùng kêu gọi thế nhân quay về với thực tại. Tiếng
chuông ngân như một cuộc hành hương từ chốn phong ba trở về vùng tĩnh lặng an
nhiên. Ta thử nghe tiếng chuông công phu khuya đã đánh thức người nông dân tỉnh
giấc về với ruộng đồng:
“Tiếng chuông vượt núi len sông,
Vào làng thức tỉnh dân nông ra đồng.
Chuông không ngại ngày đêm mưa gió thổi,
Chuông không vì sông núi bể đèo ngăn.
Tiếng của chuông là bản thể xa xăm,
Đây vọng lại mấy nghìn năm âm hưởng.”
Với Sư Huyền Không, tiếng chuông và mái chùa đã sớm tối đồng
hành với dân quê Việt Nam “Mái chùa che chở hồn dân tộc, . . .”, từng nuôi dưỡng
tâm hồn biết bao thế hệ để cùng nhau xây dựng quê hương xóm làng:
“Vì vậy, làng tôi sống thái bình,
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh.
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm,
Còn đối với Nguyễn Bính thì trong khung cảnh thiên nhiên với
nhịp sống hài hòa, tiếng chuông chùa ấm áp đã hiện hữu và gắn liền với con người,
với quê hương dân tộc. Tiếng chuông đã lắng đọng trong tâm thức mỗi người dân
như những hiện tượng thiên nhiên bình thường nhất:
“Quê tôi có gió bốn mùa,
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm.
Chuông hôm, gió sớm, trăng Rằm,
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi.
Mai này tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa.”
Nguyễn Bính đã phác họa nên một bức tranh làng quê thật đẹp đẽ
với thời tiết hài hòa, có trăng, có gió sớm ban mai để rồi ai cũng yêu quê mình
tuy thanh đạm nhưng có sức quyến rủ lạ thường. Mỗi lần xa quê, ai cũng nhớ cũng
thương về chốn cũ. Xa quê, bỏ trăng, bỏ gió là cũng thường tình thôi, nhưng nhớ
đến ngôi chùa tâm linh, thỉ người nghệ sĩ đã phải thốt lên “chao ôi” để diễn tả
nên nỗi niềm thương tiếc, nhớ đến tiếng vọng chuông chùa, rồi liên tưởng đến những
thời pháp của sư bà mà thính chúng vẫn chưa về và còn lưu lạc nơi đâu:
“Mấy chiều vắng bặt hơi chuông,
Sư bà khuyên giáo thập phương chưa về.”
Trong thi ca Việt Nam, tiếng chuông chùa cũng đã được
nhiều tác giả đề cập đến, tiếng chuông của quê hương xóm làng theo những nhặt khoan trên đồng ruộng, trên dòng sông tạo nơi sự hài hòa của cảnh, sự cân bằng
giữa cảnh và tâm như trong thơ của Trần Nhân Tông:
“Lạnh lẽo chùa quê bóng mịt mờ,
Trong âm hưởng tiếng chuông sâu đậm của đất Thần kinh lan toả,
từ đỉnh tháp chùa, rót qua không gian một tiếng chuông, cuộn trôi êm đềm theo dòng Hương giang mỗi lần người dân xứ Huế nhớ đến tiếng chuông Thiên Mụ ngân
nga hòa quyện với tiếng gà gáy từ bên kia thôn làng Thọ Xương giữa đêm khuya
thanh vắng:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.”
Qua hai câu thơ trên, Phạm Quỳnh đã “tức cảnh” viết thêm: ”Cả
cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một
chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng, làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia, Đêm khuya
nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước
long lanh mà cảm đặt thành câu ca.”
Nhưng đối với Chu Mạnh Trinh trong “Hương Sơn Phong Cảnh” thì
thi sĩ chẳng những say sưa với cảnh đẹp làm xao động quá dạt dào chênh vênh giữa
cảnh và tâm:
“Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái,
Lững lờ Khe Yến, cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Giữa cảnh trầm tư mặc tưởng của khu rừng, tác giả thực tình
yêu mến cảnh non nước nên đã gọi là “Cảnh Bụt”:
Lần tràng hạt niệm Nam Mô Phật,
Cửa từ bi công đức biết là bao.
Càng trông phong cảnh càng yêu!
Tiếng chuông ở đây như một thông điệp của trí tuệ và từ bi
như lời nhắn nhủ của Đức Phật “tất cả những gì theo duyên khởi cũng đều theo
duyên diệt.”, vừa dẫn dắt con người hòa nhập với cảnh vừa thức tỉnh đưa con người
về với cõi thực. Trong cái âm thanh của tiếng chuông gắn liền với cảnh Bụt được
Chu Mạnh Trinh trân quý:
“Muôn hồng nghìn tía tưng bừng,
Suối khe hát nhạc, thông rừng dạo sênh.
Chim cúng quả, cá nghe kinh,
Đối với thi sĩ Quách Tấn, tiếng chuông chùa như một kỷ vật
thiêng liêng nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non, chùa chiền thì từ đâu trong
tiềm thức trổi dậy, cảnh thiên nhiên gợi nhớ:
“Núi Nhạn chuông ngân, trời bãng lãng,
Đầm Ô sen nở, gió thơm tho. “
“Mây tạnh non cao đọng náng chiều,
Tiếng chuông chùa cổ vọng cô liêu.”
Ngay cả những lúc trải qua bao cảnh ưu phiền chìm trong giấc
mộng, mỗi khi tỉnh giấc, tiếng chuông chùa cũ cũng vẫn vọng về trong tâm thức:
“Mây nước nhiễm phong trần,
Nơi đâu tình cố nhân,
Những đêm buồn tỉnh giấc,
Chùa cũ tiếng chuông ngân.”
Rồi Quách Tấn tâm sự: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không
rửa mà trong, thân không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng
mình đã xa lánh hẳn cõi trần tục.” . . . “Nếu không có tiếng chuông lay mộng
thì mộng còn mãi chìm trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vương hương bay lờ lững
trong hồ sen yên tịnh:
”Gió ru hồn mộng thiu thiu,
Chuông chùa rơi rụng trong chiều đầu non.”
“Mây tạnh non cao đọng nắng chiều,
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu.”
“Chùa ẩn non mây trắng,
Bóng in hồ liễu xanh.
Mai chiều chuông đã tạnh,
Vòng sóng còn long lanh.”
Âm hưởng của tiếng chuông chùa cũng đi vào trong dòng nhạc Việt
khơi lại tâm tình riêng tư của người nghệ sĩ. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đã miêu tả
cảnh quạnh hiu, cô đơn của lữ khách trong “Đêm Đông” lạnh lẽo, với một tâm trạng
xa nhà, u buồn khôn xiết, trong lúc mọi người đang vui chơi trác táng nơi chốn
trà đình tửu quán:
“Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống,
Đâu đây buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cành chim bâng khuâng rã rời,
Còn trái lại, Y Vân và Nguyễn Hiền cảm nhận thấy mùa Xuân đầy
hương sắc và muốn trai gái trong làng cùng trao nhau câu ân tình “Anh Cho Em
Mùa Xuân” khi nghe tiếng chuông chùa văng vẳng trong ánh trăng thanh gió mát:
“Anh cho em mùa Xuân,
Mùa xuân này tất cả,
Đất mẹ gầy có lúa.
Đồng ta xanh mấy mùa.
Ngoài đê điều căng gió,
Thoảng câu hò đôi lứa.
Trong xóm vang chuông chùa.
Trăng sáng soi liếp dừa.
Cũng là tiếng chuông chùa, nhưng trong những hoàn cảnh khác
nhau, tâm hồn những người nghệ sĩ cũng hòa đồng với cảnh vật xung quanh nên
Nguyễn Du đã cùng than thở “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ!.”
Sau bao năm lưu lạc với những chán chường thăng trầm, tủi hổ,
Thúy Kiều phải tìm về nương náu nơi cửa Thiền rộng mở để mong thoát kiếp trần
duyên, Nguyễn Du cũng đã giải bày:
“Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.”
Lưu lạc bao năm chốn xa nhà, Hoàng Trọng tìm lại giây phút êm
đềm khi lòng thổn thức, khi trở về lại bến xưa, khi đã “Dừng Bước Giang Hồ” sau
một đời rong ruổi:
“Chiều nay sương gió
lữ khách dừng bên quán xưa.
Mơ màng nghe tiếng chuông chiều
Trong khúc “Nhạc Chiều”, tiếng chuông chùa vắng ngân lên khiến
người nghệ sĩ trong nỗi chứa chan niềm cay đắng đã rủ bỏ, quên hết đi đám bụi
trần vướng mắc:
“Chuông chùa vương tiếng ngân.
Âm thầm trong chiều vắng.
Đường tơ lắng buông trong huy hoàng,
Ru hồn quên hết nỗi chứa cang niềm cay đắng."
. . . .”Vương sầu làm chi cho ngày thắm phai,
“Từ miền xa, tiếng chuông ngân.
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng”
. . . “Hồn ta chìm đắm tiếng chuông xa vời.
Hồi chuông ngân nga
trong chiều thu ngợp gió.”
trong chiều thu ngợp gió.”
Trong khói sương chiều cao nguyên Đà Lạt thời âm giai tiếng
chuông chùa Linh Sơn khiến ưu phiền trầm lặng và tình thương lên ngôi, Minh Kỳ
như tỉnh giấc mơ hoa khi lòng chợt nhớ “Thương Về Miền Đất Lạnh” dấu yêu:
“Linh Sơn đâu đây buông tiếng chuông ban chiều,
Như ru ai say trong giấc mơ dạt dào.
Cho thế nhân thôi, ru hết ưu sầu,
Trải qua bao mùa binh lửa, rồi có một ngày, sẽ một ngày chinh
chiến tàn. Nhạc sĩ Nhật Ngân đã ước mơ ngày hòa bình biết bao giờ sẽ đến. Và
ngày đó trong “Giã từ vũ khí”:
“Để có một ngày, có một ngày cho chúng mình,
Ta lại gặp ta, còn vòng tay
Mở rộng thương mến bao la.
Chuông chùa làng xa, chiều lại vang.
Bếp ai lên khói ấm tình thương.
Bát cơm rau thắm mối tình quê.
Có con trâu, có nương dâu.
Tô Vũ nhờ tiếng chuông “Chiều Thu” mà nhớ lại bao kỷ niệm của
thuở xa xưa thời niên thiếu:
Hôi chuông reo vui như tiếng đồng.
Chuông rung lời ước cũ,
.Tình ta đẹp bao nhiêu.
Với Hoàng Giác, khi nghe tiếng chuông đã gợi niềm nhung nhớ một
bóng hình người đẹp trong giấc “Mơ Hoa” xa xưa với lời tâm sự “Tôi liên tưởng
ngay đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường tôi đi học... Và đây là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi . . .:
“Chuông chiều ngân tiếng vấn vương lòng trông theo cô hái
hoa.
Bước đi bâng khuâng muôn ngàn sầu nhớ bóng mờ mờ xa . . .”
Mơ Hoa - Vân Khánh (HTV - TLMN 11/5/2008) - YouTube
Mơ Hoa - Vân Khánh (HTV - TLMN 11/5/2008) - YouTube
Tiếng chuông chùa lắng đọng trong thơ văn và âm nhạc, len lõi
gieo vào lòng người, rồi với thời gian, tiếng chuông là liều thuốc cho những ai
còn ngây ngất say sưa trong giả ảo, bám víu vào kiếp sống tạm bợ, như gác trọ
qua đêm, cuộc đời vô thường, tỉnh nhớ lại và quay về với thực tại. Tiếng chuông
chùa mang tự thân trở về và khơi gợi ở con người vừa tỉnh mộng, tâm từ rộng mở,
dàn trải, vươn tới thăng hoa và bình an cho tự tâm. Chuông chùa ngân nga, không
bao giờ thúc giục, lôi kéo mà chỉ vang lên mãi trong sâu thẳm của niềm an lạc.
Tiếng chuông chùa quả thật là thông tư hòa giải, chuyển hoá được lòng người,
hóa giải những trái ngang xung đột, những dằng vặc khổ đau của con người nơi chốn
trần tục.
Tháng 8/2016
Lê Ánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét