Nhạc sĩ Văn Giảng - Một con người
giản dị, khiêm nhường
Nhạc sĩ Văn Giảng/Thông Đạt
(1924-2013)
Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang
Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi...
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang
Đi đi đi, lời thề nguyền, tung gươm thiêng, thi gan trai
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi...
Trên đây là lời ca 8 trường canh đầu của bài hành khúc
"Lục Quân Việt Nam" của Văn Giảng mà mọi người Việt Nam, từ cậu học
sinh đến anh tân binh ở quân trường cũng như tất cả quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
đều biết. Bài hát được tác giả viết vào năm 1950 với cung Ré trưởng, khi được đồng
ca bởi một số đông người, đem lại cho người nghe một cảm giác như hăng say
cương quyết, như nung chí anh hùng:
... Phá tan tành ầm ầm đoàn quân xông pha
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù
Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương
Ta anh hùng đời đời lục quân Việt Nam...
Thét oai linh tung gươm giết tan quân thù
Đoàn hùng binh say sưa nhìn trong trời sương
Ta anh hùng đời đời lục quân Việt Nam...
Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 5 năm 1924 tại
Huế trong một gia đình trung lưu. Thừa hưởng năng khiếu thiên phú gia tộc về âm
nhạc vì ông nội của Văn Giảng cũng là một nhạc sĩ cổ nhạc rất giỏi cho nên Văn
Giảng cũng có khiếu về âm nhạc từ lúc nhỏ và ngày còn bé, nghe người ta chơi một
loại nhạc khí nào là ông có thể về mò mẫm tự học lấy và thành công trong việc sử
dụng loại nhạc khí đó. Cũng như mọi người thích âm nhạc và quyết tâm chơi nhạc,
loại đàn dễ học nhất cho mọi người là đàn mandoline, nhạc sĩ Văn Giảng cũng vậy,
khi bắt đầu ông học đàn măng cầm và sau đó lần đến lãnh vực tây ban cầm.
Có một người bạn lớn tuổi hơn ông biết đàn tây ban cầm, Văn
Giảng muốn tầm sư học đạo, đến nhà ông này để nhờ chỉ dạy nhưng người này bắt
ông phải trả công bằng một cây đàn guitare. Làm gì có tiền ở lứa tuổi còn nhỏ?
Văn Giảng về nhà tìm tòi tự học lấy và chỉ một thời gian sau, ông vượt qua tài
nghệ của ông "thầy hụt" kia và ông này phải nhờ Văn Giảng chỉ lại
cho. Nhờ có biệt tài như vậy mà nhạc sĩ Văn Giảng có thể sử dụng rành rẽ nhiều
nhạc khí cổ kim, trở thành một nhạc sĩ tài giỏi và đào tạo rất nhiều môn sinh
có trình độ sau này.
Không những chỉ trong lãnh vực âm nhạc mà thôi, nhạc sĩ Văn
Giảng còn nổi bật trong lĩnh vực văn hóa, mọi thứ, mọi việc ông đều tự học như
vừa làm giáo sư âm nhạc ở Huế, ông vừa tự học để rồi sau đó lặn lội vào Saigon
thi lấy bằng tú tài và bằng cử nhân.
Ông tốt nghiệp Anh văn ở Hội Việt Mỹ và trúng tuyển cuộc thi
tuyển sinh viên nghiên cứu về âm nhạc ở ngoại quốc, được xuất dương du học tại
trường Âm nhạc lớn của Hoa Kỳ ở Hawaii và Bloomington. Ở Hoa Kỳ, Văn Giảng đã tốt
nghiệp với lời khen của Ban Giám khảo và được cấp thêm học bổng để nghiên cứu bậc
cao học âm nhạc. Sau đó ông trở về nước và được đề cử làm Giám đốc trường Quốc
gia Âm nhạc Huế.
Phần đông những sáng tác của nhạc sĩ Văn Giảng thuộc loại
hùng ca như "Thúc Quân" (1949), "Lục Quân Việt Nam" (1950),
"Đêm Mê Linh" (1951), "Quân Hành Ca" (1951), "Qua
Đèo" (1952), "Nhảy Lửa" (1953) v.v... nhưng ít người được biết
nhạc sĩ Văn Giảng còn có một biệt hiệu khác là "Thông Đạt" với ca
khúc bất hủ "Ai Về Sông Tương" mà mọi người trong giới học sinh, sinh
viên và ở lứa tuổi 40 trở lên đều biết:
Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương...
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương
Tháng với ngày mơ nhuốm đau thương
Tâm hồn mơ bóng em luôn
Mong vài lời em ngập hương...
Bài ca này được tác giả viết vào năm 1949 với cung La trưởng,
uyển chuyển tha thướt trong phần lời lãng mạn, trữ tình, là một bản nhạc gối đầu
giường, nằm lòng của thanh thiếu niên nam nữ trong những thập niên 50 - 60.
Về ca khúc này, có một câu chuyện khá thú vị như sau: Trong
những thập niên 1940, 1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà
Xuất bản Tinh Hoa Huế (xin đừng lẫn lộn với nhà xuất bản Tinh Hoa miền Nam ở
Saigon do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc phẩm
ít oi của thời đó.
Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt
vì một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt
ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý bảo rằng nhạc sĩ
Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không
phải sở trường của Văn Giảng.
Nghe vậy hay vậy, không cần phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về
nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài "Ai Về Sông Tương", không ghi tên
tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới
toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó. Bản "Ai Về Sông Tương" được
tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Saigon và cả nước
đều nghe "Ai Về Sông Tương" của Thông Đạt trong thời gian sau đó:
... Thu nay về vương áng thê lương
Vắng người duyên dáng tôi thương
Mối tình tôi vẫn cô đơn
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em
Mơ hoài hình bóng không quên
Hương tình mộng say dịu êm...
Vắng người duyên dáng tôi thương
Mối tình tôi vẫn cô đơn
Xa muôn trùng lưu luyến nhớ em
Mơ hoài hình bóng không quên
Hương tình mộng say dịu êm...
Sau nhiều lần được nghe bài "Ai Về Sông Tương" quá
hay trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và
hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài "Ai Về
Sông Tương" là ai không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm
này nhưng Văn Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai!
Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ
Kim Bảng, tác giả bài "Mùa Thi" (Thi ơi là thi, sinh mi làm chi,
"bay" nghẹn ngào, "bám", ồn áo, buồn vui vì mi) và nhà văn
Lữ Hồ tình cờ đến nhà Văn Giảng chơi và thấy bản thảo bài "Ai Về Sông
Tương" với tuồng chữ và lối chép nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc
trên bàn viết nên nói cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này mới lái xe ngay tới nhà
Văn Giảng và vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể
điệu "Blues" tha thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ
những khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó.
Nhạc phẩm "Ai Về Sông Tương" đã chiếm kỷ lục tái bản thời đó với 6 lần
in thêm trong tháng đầu tiên và được thính giả Đài Phát thanh Pháp Á chọn là
bài nhạc hay nhất trong năm 1949. Qua bút hiệu Thông Đạt, chúng ta còn được thưởng
thức những sáng tác sau đây: "Đôi Mắt Huyền", "Hoa Cài Mái
Tóc", "Tình Em Biển Rộng Sông Dài", "Xin Đừng Chờ Em Nữa"
v.v...
Ngoài hai bút hiệu trên, Văn Giảng - Thông Đạt còn một bút hiệu
thứ ba để sáng tác những bài Phật giáo. Đó là bút hiệu Nguyên Thông được dùng để
ghi trên những nhạc phẩm như "Từ Đàm Quê Hương Tôi", "Mừng Đản
Sanh", "Ca Tỳ La Vệ", "Vô Thường", "Hoa Cài Áo Lam"
v.v...
Trong thời gian làm nhạc trưởng Đài Phát thanh Huế và giáo sư
âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học và trường Sư phạm đào tạo
giáo viên Tiểu học, nhạc sĩ Văn Giảng có sáng tác và ấn hành một tập nhạc dành
cho thiếu nhi mang tên: "Hát Mà Học" gồm có 10 ca khúc: Đến Trường,
Chơi Ná, Chê Trò Xấu Nết, Mèo Chuột, Tham Mồi, Gương Sáng Lê Lai, Quang Trung
Hùng Ca, Trăng Trung Thu, Chúc Xuân và Tạm Biệt.
Cũng trong lãnh vực âm nhạc, nhờ xuất thân từ một gia đình có
truyền thống âm nhạc, Văn Giảng thích tìm tòi và nghiên cứu nhạc cổ truyền Việt
Nam. Năm 1956, ông đã tìm ra phương pháp ký âm cho nhạc sĩ cổ truyền có thể
nhìn bài bản mà trình tấu chung với nhạc sĩ tân nhạc và từ đó, ông thành lập
ban cổ kim hòa điệu "Việt Thanh", một ban nhạc đầu tiên trong nước dưới
hình thức tân cổ hòa điệu với những nhạc khí tranh, tỳ, nhị huyền, nhị hồ, đàn
nguyệt... hòa tấu chung với dương cầm, tây ban cầm, đại hồ cầm...
Trong phạm vi này, ông đã hoàn thành tác phẩm độc đáo
"Ai Đưa Con Sáo Sang Sông", một bản đại hòa tấu, thời lượng 60 phút,
trình diễn bởi các nhạc sĩ cổ truyền. Ông cũng đã soạn nhiều sách giáo khoa về
âm nhạc, hoàn thành quyển "Kỹ Thuật Hòa Âm" dày 350 trang được dùng
làm tài liệu dạy âm nhạc ở các trường.
Sau Tết Mậu Thân 1968, cảm thấy sinh sống ở Huế bất an - ông
Tăng Duyệt, bạn thân của ông, đã chết trong biến cố này - nhạc sĩ Văn Giảng vào
Saigon lập nghiệp từ năm 1969 và ông nhanh chóng hòa hợp với nhịp sống âm nhạc
của thủ đô, soạn hòa âm cho hãng đĩa Asia - Sóng Nhạc, dạy nhạc tại trường Quốc
gia Âm nhạc Saigon, tham gia sinh hoạt ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền
hình.
Cũng trong thời gian này, một số nhạc phẩm tình cảm với bút
hiệu Thông Đạt của ông được thành hình và tung ra thị trường. Đồng thời, Văn Giảng
được Bộ Văn Hóa Giáo Dục đề cử làm Trưởng Phòng Học Vụ Nha Mỹ Thuật, đảm trách
học vấn của các trường Âm nhạc Saigon, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật.
Năm 1970, ông được huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của
Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (âm nhạc loại A) với sáng tác phẩm "Ngũ Tấu
Khúc" (Quintet for Flute and Strings). Cùng năm này, ông được chỉ định làm
Giám đốc Nghệ thuật điều hành Đoàn Văn nghệ Việt Nam gồm 100 nghệ sĩ tân cổ nhạc
và vũ, ban vũ do nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ phụ trách, ban vũ cổ truyền đại nội Huế
do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba điều khiển, để tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại
Osaka (Nhật Bản).
Sau 1975, nhạc sĩ Văn Giảng kẹt lại Việt Nam cho đến năm 1981
mới vượt biên đến đảo Natuna (Nam Dương) và sau đó được chuyển đến đảo Pulau
Galang.
Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác được một số bài nói lên thân phận lạc loài của người dân mất nước mà bài đầu tiên là "Natuna người tình đầu" cùng một số 70 ca khúc khác.
Ở đây, trong 6 tháng, Văn Giảng sáng tác được một số bài nói lên thân phận lạc loài của người dân mất nước mà bài đầu tiên là "Natuna người tình đầu" cùng một số 70 ca khúc khác.
Ngày 20/5/1982, Văn Giảng định cư tại Úc, ở đây, ông tiếp tục
con đường âm nhạc, soạn và xuất bản nhiều sách nhạc lý như cách dùng hợp âm, tự
học tây ban cầm, hòa âm, sáng tác, học hát, học đàn v.v...
Ở đây, ông cũng đã sáng tác thêm nhiều tình khúc như: 12 tình
khúc (Tập I), 12 Tình Khúc (Tập II) v.v... Những ai thiết tha với tân nhạc, muốn
đi sâu, tìm hiểu hơn về sáng tác và hòa âm hoặc muốn trau dồi việc sử dụng các
nhạc khí kim cổ, thiết nghĩ không gì bằng tìm các sách giáo khoa của nhạc sĩ
Văn Giảng để đi đến nơi đến chốn. Văn Giảng hiện cư ngụ ở thành phố Footscray,
bang Victoria (Úc Châu).
Ngoài một gia sản âm nhạc đồ sộ, từ những hành khúc hùng dũng đến những cung bậc uyển chuyển lả lướt của những bài tình ca qua những điệu nhạc vui tươi yêu đời dành cho thiếu nhi và những ca khúc uy nghiêm về Phật giáo, nhạc sĩ Văn Giảng còn đóng góp trong việc phổ biến âm nhạc Việt Nam ở hải ngoại với một số lượng đáng kể về sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, chẳng những dành cho thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại mà cho cả người ngoại quốc muốn học hỏi và tìm hiểu về nền âm nhạc Việt Nam.
Ngoài một gia sản âm nhạc đồ sộ, từ những hành khúc hùng dũng đến những cung bậc uyển chuyển lả lướt của những bài tình ca qua những điệu nhạc vui tươi yêu đời dành cho thiếu nhi và những ca khúc uy nghiêm về Phật giáo, nhạc sĩ Văn Giảng còn đóng góp trong việc phổ biến âm nhạc Việt Nam ở hải ngoại với một số lượng đáng kể về sách dạy nhạc viết bằng Việt ngữ và Anh ngữ, chẳng những dành cho thế hệ trẻ Việt Nam ở hải ngoại mà cho cả người ngoại quốc muốn học hỏi và tìm hiểu về nền âm nhạc Việt Nam.
Một con người giản dị, khiêm nhường, không thích phô trương với
một gia tài âm nhạc to lớn như thế của mình ẩn náu nơi một góc trời Đông sau
ngày mất nước quả thật là một người đáng kính nể, đáng tôn thượng trong làng âm
nhạc Việt Nam.
Lê Dinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét