Tháng 5, tôi lại có một chuyến đi xa khỏi thành phố. Đây là
chuyến đi lần thứ 10 chỉ trong vòng chưa đến 6 tháng đầu năm, có vẻ hơi
khác thường vì tôi không phải người quá rảnh để đi chơi. Tôi nói với các bạn:
Cung Thiên di của mình năm nay "động"! Do bạn bè, người thân về thăm
nhà khá nhiều.
Tìm qua trang web của du lịch Saigon Tourist, chấm vài điểm: Tây Nguyên huyền thoại: Komtum- Ban Mê- Pleiku, hoặc vịnh Vĩnh Hy, Phan Rang. Sáng ra Cafe Sinh hỏi về tour, ở đây không có tour đi Tây Nguyên mà chỉ là những tour đến những điểm tôi đã đi ở miền Tây và Trung phần. Một anh chàng cận thị ngồi ở quầy tiếp khách tư vấn: Cô đi Phú Quốc đi, đẹp lắm!. Tôi nói: Rồi em à. - Hay là Mekong Delta, Mỹ Tho, Rạch Giá? - Rồi! - Hay là đi Mũi Né đi cô - Trời, cô đi hoài em ơi, mới đi hôm đầu năm nữa rồi! - Thế thì đi Nha Trang? - Cũng vừa mới đi! - Hay ra Huế, Hội An vậy cô! - Cũng rồi luôn! Có chỗ nào khác những địa điểm đó không em? Thất vọng, anh chàng không nói nữa. Tôi đến quầy rút vài tờ chương trình rồi ngồi xuống ghế xem. Thấy không có gì lạ, chúng tôi đến Vietravel. Ồ rất nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn cho mùa hè, nhưng tuần này các tour đều kín chỗ. Cô nhân viên du lịch đề nghị chúng tôi chuyển sang tuần sau nhưng lúc đó bạn tôi sẽ phải rời Việt Nam rồi.
Tìm qua trang web của du lịch Saigon Tourist, chấm vài điểm: Tây Nguyên huyền thoại: Komtum- Ban Mê- Pleiku, hoặc vịnh Vĩnh Hy, Phan Rang. Sáng ra Cafe Sinh hỏi về tour, ở đây không có tour đi Tây Nguyên mà chỉ là những tour đến những điểm tôi đã đi ở miền Tây và Trung phần. Một anh chàng cận thị ngồi ở quầy tiếp khách tư vấn: Cô đi Phú Quốc đi, đẹp lắm!. Tôi nói: Rồi em à. - Hay là Mekong Delta, Mỹ Tho, Rạch Giá? - Rồi! - Hay là đi Mũi Né đi cô - Trời, cô đi hoài em ơi, mới đi hôm đầu năm nữa rồi! - Thế thì đi Nha Trang? - Cũng vừa mới đi! - Hay ra Huế, Hội An vậy cô! - Cũng rồi luôn! Có chỗ nào khác những địa điểm đó không em? Thất vọng, anh chàng không nói nữa. Tôi đến quầy rút vài tờ chương trình rồi ngồi xuống ghế xem. Thấy không có gì lạ, chúng tôi đến Vietravel. Ồ rất nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn cho mùa hè, nhưng tuần này các tour đều kín chỗ. Cô nhân viên du lịch đề nghị chúng tôi chuyển sang tuần sau nhưng lúc đó bạn tôi sẽ phải rời Việt Nam rồi.
Thực sự gần đây tôi đã đi về những thành phố biển nhiều quá,
từ Phan Thiết, Phú Quốc, Rạch Giá, đến Nha Trang, Quy Nhơn, trong lòng đang
mong muốn lần này sẽ đi lên "phố núi cao phố núi đầy sương" (*). Và
Pleiku, Ban Mê là hai nơi tôi đang rất muốn đi. Những ngày này trời lại mưa nhiều,
tour Tây Nguyên cũng phải chờ đủ khách mới khởi hành. Lại bàn bạc tính toán tiếp,
cuối cùng tôi nói: Thôi, chỉ còn cách tự đi, không đi quá xa vì ai cũng không có
thì giờ. Thì chỉ cần mua vé xe lên Đà Lạt, tự thuê phòng, đăng ký city tour
trên ấy, muốn ăn gì thì ăn, muốn đi đâu thì đi không bị gò bó theo chương trình
định sẵn.
Cũng hơn ba năm rồi tôi không có dịp trở lại Đà Lạt. Những năm
trước 1975, lúc còn ở Quy Nhơn, mùa hè nào ba má cũng cho hai chị em tôi đi Đà
Lạt nghỉ hè. Về sau vì nhiều điểm đi quá, Đà Lạt đã trở thành quen thuộc nên thỉnh
thoảng có dịp thì tôi mới đi. Vào những ngày mùa hè nóng nực ở Sài gòn, tôi hay
nhớ về Đà Lạt, nơi thường được gọi với những cụm từ rất kêu như "thành phố
mù sương", "thành phố ngàn thông", "thành phố ngàn
hoa", "thành phố tình yêu" v.v... vì đặc điểm của vùng đồi núi này
là rừng thông, thác, hồ và hoa cùng nhiều điểm tham quan nổi tiếng như Thung lũng
Tình Yêu, Hồ Than Thở, Đồi thông hai mộ, Đỉnh Langbiang v.v... từ lâu đã gắn liền
với những huyền thoại tình yêu đẹp đẽ.
Từ Sài gòn đi Đà Lạt bằng xe mất khoảng 8 tiếng đồng hồ. Tôi
thường thích đi xe vì được ngắm cảnh bên đường, được đi qua nhiều tỉnh thành. Từ
ngã ba Vũng Tàu, xe đi qua hết ranh giới Đồng Nai là đến địa phận tỉnh Lâm Đồng.
Xe dừng cho hành khách ăn trưa và nghỉ ngơi tại Madaguoil - thị trấn Dambri, cách
Sài gòn 152 km và Đà Lạt 148 km, vậy là đã đi được nửa đoạn đường. Nơi đây ngày
xưa là một vùng đất hoang vu chỉ có người Thượng - dân tộc Mạ sinh sống, có rất
ít người Kinh. Sau 1975 trở thành vùng kinh tế mới, và bây giờ là một thị trấn
nhộn nhịp. Không khí bắt đầu dịu đi khi xe lên đèo Bảo Lộc. Xa xa đã thấy thấp
thoáng những cánh rừng thông khi xe đi qua Bảo Lộc, Di Linh.
Một rặng núi có hình thù lạ trên đường đi.
Những vườn trà Bảo Lộc
Trên xe mọi người ngủ gà ngủ gật, còn tôi cứ căng mắt mà tìm những bụi quỳ vàng
bên đường. Không thấy nhiều như tôi tưởng. Nhớ thời trung học có lần đọc được vài
đặc san một số trường trung học ở Đà Lạt, có nhắc đến hoa dã quỳ vùng Tây
nguyên, đến mùa hoa nở vàng rực cả triền đồi và thảo nguyên. Tôi đã quên rằng ở
Việt Nam, hoa quỳ chỉ nở vào mùa đông, báo hiệu cho mùa khô sắp đến. Hoa dã quỳ
nhỏ, còn có tên gọi cúc quỳ, sơn quỳ, hướng dương dại v.v.. thuộc họ cúc (Asteraceae). Ngày xưa, người Pháp đã trồng loại hoa này nhiều ở các đồn điền Lâm
Đồng, dùng làm phân xanh cho các vườn cà phê, cao su. Vì dễ trồng, về sau hoa đã
phát tán mọc khắp nơi trên các vùng rừng núi Tây nguyên.
Đi qua Liên Nghĩa, Đức Trọng. Nhớ ngày xưa khi mỗi lần đi máy
bay từ Quy Nhơn đến phi trường Liên Khương - dì tôi thường gọi là Liên Khàng,
do từ dân tộc miền núi gọi tên dòng thác Liên Khàng cách phi trường chừng 1 km.
Liên là thác, Khàng là ong vò vẽ hay kiến vàng. Cái tên này không bắt nguồn từ
một huyền thoại tình yêu mà là từ một truyền thuyết từ xa xưa, rằng có lũ giặc
kiến vàng đã ào ạt kéo đến vùng này cư ngụ, ăn hết thức ăn của con người. Cuối
cùng các thần Sấm Sét, thần Lửa phải ra tay cứu giúp cho nước lũ từ Đa Nhim về
cuốn trôi hết lũ kiến.
Khó mà quên cái cảm giác khi mỗi lần đặt chân xuống phi trường Liên Khương. Từ
mùa hè nóng nực của phố biển, thoắt sau 1 tiếng đồng hồ bước sang khí trời dịu
mát, lành lạnh, thật là dễ chịu. Cả hình ảnh bầu trời xám, bóng mây lãng đãng vờn
trôi trên đỉnh núi, những bãi cỏ xanh, rừng thông reo vi vu đã theo tôi mãi
trong tiềm thức. Rồi trên đường về Đà lạt những vườn rau, bắp xanh mướt mắt. Đặc
biệt trái bắp Tùng Nghĩa, luộc hay nướng đều ngon, ăn từ ngày xưa nay vẫn còn
nhớ mùi vị đến nỗi cứ nhắc đến Liên Khương tôi lại nhớ đến trái bắp!.
Trên đường đèo Đà Lạt
Tôi vẫn không ngủ để ngồi ngắm cảnh đèo. Một bên là núi đá, một bên là vực sâu
thăm thẳm. Xa xa dưới thung lũng nhấp nhô vài căn nhà nhỏ. Khói lam chiều từ bếp
nhà ai tỏa lên quyện trong màn sương lạnh dưới chân núi. Vài cánh chim rừng vội
vã bay về tổ, xuyên qua cánh rừng thông dày đặc trùng trùng. Dường như bao giờ
tôi cũng cảm thấy vừa thích vừa sợ mỗi lần xe đi qua đèo. Ngày xưa đường đi qua
nhiều ngọn đèo cheo leo, mỗi lần qua đèo tài xế phải chạy thật chậm, nhưng nhiều
tai nạn thảm khốc đã xảy ra trên nhiều quãng đường đèo, nơi đã có những ngôi miếu
nhỏ bên đường mà hương khói luôn nghi ngút. Ngày nay đường đi tốt hơn rất nhiều,
tạo cảm giác yên tâm hơn khi qua đèo Bảo Lộc, đèo Prenn.
Đến Đà Lạt vào lúc gần 6 g chiều. Trời dần tối và có mưa phùn nho nhỏ. Chúng tôi chọn khách sạn ngay trung tâm khu Hòa Bình. Ăn cơm tối xong, chúng tôi đi dạo chợ đêm. Cái thú đi dạo đêm ở Đà Lạt là ngắm chợ trái cây, những gian hàng bánh mứt, quả khô, đồ len ..., rồi ghé vào một quán cà phê ấm áp nào đó nhìn thành phố về đêm. Mưa bắt đầu nặng hạt. Tôi vội vã chạy vào trú dưới tấm bạt che một gian hàng áo len. Bạn tôi đang thẩn thơ bên gian hàng hoa và cây cảnh. Tôi nhớ ngày xưa đối với tôi chợ rất lớn và đẹp. Lịch sử chợ có từ năm 1929 tại khu Hòa Bình bây giờ, dựng bằng cây, mái tôn nên còn được gọi là chợ Cây. Đến năm 1958 được xây dựng tại khu chợ hiện nay, là ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt nam. Cho đến bây giờ, trung tâm Đà Lạt vẫn là ngôi chợ này. Mọi sinh hoạt xoay quanh cái chợ, lúc nào cũng tấp nập kẻ mua người bán. Tôi rất thích nhìn những gian hàng hoa, trái cây và rau quả. Hoa Đà Lạt thật đẹp vì luôn tươi thắm, sau khi cắt ra khỏi cành vẫn còn giữ được vẻ tươi tắn nhờ khí hậu, nào hoa hồng, glaieuil, cúc, lan rừng nhiều loại. Màu xanh đỏ tươi non của những quả su hào, bắp cải, cà rốt, quả bơ, dâu, hồng, đào... nhìn luôn mát mắt, hấp dẫn.
Đến Đà Lạt vào lúc gần 6 g chiều. Trời dần tối và có mưa phùn nho nhỏ. Chúng tôi chọn khách sạn ngay trung tâm khu Hòa Bình. Ăn cơm tối xong, chúng tôi đi dạo chợ đêm. Cái thú đi dạo đêm ở Đà Lạt là ngắm chợ trái cây, những gian hàng bánh mứt, quả khô, đồ len ..., rồi ghé vào một quán cà phê ấm áp nào đó nhìn thành phố về đêm. Mưa bắt đầu nặng hạt. Tôi vội vã chạy vào trú dưới tấm bạt che một gian hàng áo len. Bạn tôi đang thẩn thơ bên gian hàng hoa và cây cảnh. Tôi nhớ ngày xưa đối với tôi chợ rất lớn và đẹp. Lịch sử chợ có từ năm 1929 tại khu Hòa Bình bây giờ, dựng bằng cây, mái tôn nên còn được gọi là chợ Cây. Đến năm 1958 được xây dựng tại khu chợ hiện nay, là ngôi chợ lầu đầu tiên ở Việt nam. Cho đến bây giờ, trung tâm Đà Lạt vẫn là ngôi chợ này. Mọi sinh hoạt xoay quanh cái chợ, lúc nào cũng tấp nập kẻ mua người bán. Tôi rất thích nhìn những gian hàng hoa, trái cây và rau quả. Hoa Đà Lạt thật đẹp vì luôn tươi thắm, sau khi cắt ra khỏi cành vẫn còn giữ được vẻ tươi tắn nhờ khí hậu, nào hoa hồng, glaieuil, cúc, lan rừng nhiều loại. Màu xanh đỏ tươi non của những quả su hào, bắp cải, cà rốt, quả bơ, dâu, hồng, đào... nhìn luôn mát mắt, hấp dẫn.
Ngày ấy mỗi lần đi Đà Lạt, ở suốt mùa hè, thỉnh thoảng chúng
tôi cùng chị họ đi Trại Hầm thăm các dì. Ở đó các dì có một vườn mận dưới thung
lũng phía sau nhà. Là dân làm vườn, lúc nào họ cũng tất bật vất vả, vậy mà mỗi
lần chúng tôi đến, các dì thường đổ bánh xèo cho ăn. Trời lạnh, ngồi bên bếp lửa
hồng, ăn bánh xèo nóng ngon tuyệt vời, khó mà quên được. Thời gian còn lại hai
chị em tôi không biết đi đâu chỉ quẩn quanh đồi Cù, dạo bờ hồ Xuân Hương, chui
vào Thủy Tạ, hay loanh quanh khu Hòa Bình và chợ. Chủ nhật nào khu Hòa Bình
cũng đông nghẹt lính sĩ quan Võ Bị Đà Lạt và Chiến tranh Chính trị trong quân
phục màu vàng. Tôi thì chỉ thích chúi mũi trong tiệm sách Xuân Thu, mê mẩn với
loạt truyện tranh tiếng Pháp mà đến giờ vẫn nhớ: Martine à la ferme, Martine
fait du théâtre ... Đi ăn thì có phở Tùng, một tiệm mì hoành thánh tôi không nhớ
tên, có đã từ lâu. Lúc đó chúng tôi ở nhờ nhà một bà dì đường Hồ Tùng Mậu, gần
khách sạn Palace.
Hai bà chị họ của tôi được sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt, da dẻ trắng trẻo mịn màng, hai má lúc nào cũng ửng hồng. Chị lớn đã có chồng, có 2 đứa con xinh như thiên thần mà hai ông bà lúc nào cũng như đôi tình nhân chưa cưới. Chị có nét đẹp thanh tú, ra ngoài thường khoác áo măng tô. Anh là con nhà giàu, dân trường Tây, ra trường làm lính kiểng, để lấy được chị anh phải siêng đi nhà thờ vì nhà chị có đạo. Sau đó thì "Cúi đầu lạy Chúa ba ngôi, Tôi lấy được vợ tôi ... thôi nhà thờ!" Chúng tôi thường trêu anh như vậy. Ngày ấy, họ thường sánh vai nhau đi bên bờ hồ Xuân Hương, lên đồi Cù, đẹp đôi nổi tiếng Đà Lạt và tôi cũng ngưỡng mộ lắm, đã nhiều lần vẽ họ bằng bút chì. Khoảng năm 85, lúc tôi lên Đà Lạt trong lần công ty cho nhân viên đi nghỉ mát thì gặp anh đứng bán bong bóng bên ngoài chợ, lúc về nhà anh ngồi ăn dĩa cơm không với nĩa, anh còn đùa với tôi "Xem này, anh ăn cơm không với fourchette!", tôi đã rơi nước mắt. Bây giờ thì anh chị và các con đã sống ở Mỹ, nhưng cũng đã ly dị nhau. Ngày ấy đi chơi cùng anh chị nhiều quá, nên sau này cứ đi Đà Lạt là tôi nhớ đến họ. Một chuyện tình đẹp, có hậu vì lấy được nhau, có con cái, nhưng cái "hậu" sau đó thì không phải như truyện cổ tích để "sống bên nhau đến bạc đầu"... Tôi thường luôn cảm thấy tiếc cho đoạn kết buồn của nhiều chuyện tình đẹp một thời, dù biết là không phải bao giờ con người cũng "trước sau như một".
Hai bà chị họ của tôi được sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt, da dẻ trắng trẻo mịn màng, hai má lúc nào cũng ửng hồng. Chị lớn đã có chồng, có 2 đứa con xinh như thiên thần mà hai ông bà lúc nào cũng như đôi tình nhân chưa cưới. Chị có nét đẹp thanh tú, ra ngoài thường khoác áo măng tô. Anh là con nhà giàu, dân trường Tây, ra trường làm lính kiểng, để lấy được chị anh phải siêng đi nhà thờ vì nhà chị có đạo. Sau đó thì "Cúi đầu lạy Chúa ba ngôi, Tôi lấy được vợ tôi ... thôi nhà thờ!" Chúng tôi thường trêu anh như vậy. Ngày ấy, họ thường sánh vai nhau đi bên bờ hồ Xuân Hương, lên đồi Cù, đẹp đôi nổi tiếng Đà Lạt và tôi cũng ngưỡng mộ lắm, đã nhiều lần vẽ họ bằng bút chì. Khoảng năm 85, lúc tôi lên Đà Lạt trong lần công ty cho nhân viên đi nghỉ mát thì gặp anh đứng bán bong bóng bên ngoài chợ, lúc về nhà anh ngồi ăn dĩa cơm không với nĩa, anh còn đùa với tôi "Xem này, anh ăn cơm không với fourchette!", tôi đã rơi nước mắt. Bây giờ thì anh chị và các con đã sống ở Mỹ, nhưng cũng đã ly dị nhau. Ngày ấy đi chơi cùng anh chị nhiều quá, nên sau này cứ đi Đà Lạt là tôi nhớ đến họ. Một chuyện tình đẹp, có hậu vì lấy được nhau, có con cái, nhưng cái "hậu" sau đó thì không phải như truyện cổ tích để "sống bên nhau đến bạc đầu"... Tôi thường luôn cảm thấy tiếc cho đoạn kết buồn của nhiều chuyện tình đẹp một thời, dù biết là không phải bao giờ con người cũng "trước sau như một".
Thung lũng Trại Hầm
Sáng hôm sau chúng tôi chọn một chương trình city tour để đi chơi. Một loạt địa
danh được giới thiệu. Vì có nơi đã đi nhiều lần như Thác Cam Ly, Pongour,
Datanla, Gougah, Hồ Tuyền Lâm, chùa Linh Sơn, thiền viện Trúc Lâm, biệt thự Hằng
Nga, biệt điện Bảo Đại v.v... Một số địa điểm như Thung lũng Tình Yêu, Hồ Than
Thở, thác Prenn ... ngày nay không còn hấp dẫn bởi cảnh đẹp thiên nhiên hoang sơ
như xưa vì có quá nhiều hàng quán, trò chơi phục vụ cho du lịch. Vì vậy lần này
tôi chọn "tour Văn hóa", trong đó có đi tham quan các làng hoa Đà Lạt,
thung lũng Vàng, nhà thờ Domaine de Marie, đỉnh Langbiang, xã Lát của người
dân tộc và bảo tàng Dân tộc. Trong đoàn nhiều người tỏ ý không thích đi thăm làng
dân tộc. Tôi hỏi người hướng dẫn nếu tôi thích đi thì làm thế nào, anh ta nói:
Bây giờ người dân tộc họ khác rồi. Con gái đi lấy chồng ngoại quốc, Việt kiều.
Nhà cửa thì không còn nhà sàn, mà là nhà tôn, nhà lầu. Có vào đó cũng không thấy
như ngày xưa. Cho nên nếu muốn, anh ta sẽ dẫn chúng tôi đi tham quan ... Bảo tàng
dân tộc!.
Thác Pongour
Đất Lâm Đồng từ thời xưa đã là nơi cư trú của các dân tộc Chu Ru, Mạ và K'Ho.
Người Mạ sống chủ yếu ở vùng trung và hạ lưu sông Đồng Nai như Di Linh, Cát Tiên
...; Chu Ru tập trung ở Đơn Dương - Lâm Đồng, một số ở Ninh Thuận; còn K'Ho ở vùng
cao nguyên Lâm Viên, gồm các nhóm địa phương như Chill, Srê, Lạch, Nộp... Họ sống
bằng nghề dệt vải và đan lát hàng mây tre lá. Đặc biệt 2 dân tộc K'Ho Chill và
K'Ho Lát ngày xưa có phong tục cà răng ( nam ) căng tai ( nữ ). Một khi có ai căng
tai đến đứt tai thì sẽ được bộ tộc thưởng cho người ấy một con trâu!
7 năm trước lúc đến Đà Lạt tôi được đi thăm làng Gà (K'Long), nay không thấy
trong chương trình, chẳng biết làng Gà bây giờ ra sao rồi! Đó là một ngôi làng
nhỏ của người K'Ho, nằm dưới chân núi Voi, thuộc xã Hiệp An, huyện Đức Trọng, Lâm
Đồng. Từ Đà Lạt xuống đèo Prenn xuôi theo quốc lộ khoảng 15 km. Ngay đầu làng có
một tượng gà chín cựa bằng đá khổng lồ. Truyện kể có đôi trai gái K'Ho yêu
nhau. Theo chế độ mẫu hệ của người K'Ho, người con gái đã đi tìm gà chín cựa để
làm lễ vật cưới chồng. Không biết có phải do bên chồng thách cưới, hay vì tình
yêu mà cô gái đã lặn lội đi tìm trong vô vọng, cuối cùng mất xác trong rừng sâu.
Dân làng thương cảm mới cho dựng bức tượng con gà chín cựa để tưởng nhớ và răn
dạy con cháu hãy bỏ những hủ tục hà khắc ngày xưa để đến với tình yêu.
Hình ảnh nhà sàn dân tộc gắn liền với cuộc sống của họ, nhưng ngày nay đã thay đổi
nhiều. Để so sánh giữa xưa và nay, tôi đành lấy hình ảnh đã chụp những căn nhà
sàn truyền thống mô hình chưng bày trong Bảo tàng Lâm Đồng!
Có chút thất vọng vì tôi cứ tưởng sẽ được tham quan làng dân tộc, thấy được chút
gì đó đặc sắc của bản làng. Trong chương trình lại còn có mục giao lưu cồng chiêng
với người dân tộc bản địa, uống rượu cần Tây nguyên và tham gia các trò chơi dân
gian. Nhưng nếu chỉ có mỗi mình tôi đi làng dân tộc thì tour cũng không tổ chức
được. Dù sao tôi cũng chưa lên đến đỉnh Langbiang nên cuối cùng tôi vẫn chọn
tour này.
Điểm đầu tiên chúng tôi được tham quan là làng hoa Vạn Thành, nổi tiếng với hoa
hồng, là một trong số 6 làng hoa của Đà Lạt, do những hộ gia đình từ Hà Nam
Ninh vào thành lập từ sau năm 1954, đến những năm 1960 họ chuyển từ trồng rau
sang trồng hoa. Những làng hoa lâu đời như làng hoa Hà Đông, thành lập từ năm
1938. Làng hoa Thái Phiên, nổi tiếng với hoa cúc, cũng do người miền Bắc di cư
vào Nam lập nên từ năm 1956; cùng các làng hoa Xuân Thọ và Định An. Trước những
năm 90 những làng hoa này chuyên trồng các loại hồng, cúc, lan, cẩm chướng
v.v... xuất khẩu địa lan, glaieuil, hoa lys trắng rất nhiều sang các nước thuộc
Liên Xô và Đông Âu.
Đến năm 1994 xuất hiện làng hoa công nghiệp Hasfarm thì ngành trồng hoa phố núi thực sự bùng nổ với đủ loại hoa màu sắc chủng loại phong phú, có nhiều loại giống nhập từ các nước châu Âu như Pháp, Ý, Anh, Hà Lan, hay từ châu Á như Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản v.v.. nên Đà Lạt đã có thể cung cấp hoa cho cả nước và xuất khẩu rất mạnh.
Khác với nông dân trồng hoa theo mô hình
nhà lưới, Hasfarm áp dụng phương pháp thắp đèn sưởi ấm cho hoa, có thể ra hoa đúng
dịp Tết và giá thành rẻ hơn cách trồng truyền thống nhiều. Nhờ vậy các làng hoa
ngày nay cũng áp dụng theo kỹ thuật trồng hoa hiện đại như công nghệ nhà kính,
nhà lưới, tưới nước nhỏ giọt, nuôi cấy mô trong trồng hoa bằng cây giống v.v...
Tôi còn nhớ ngày trước, mỗi lần đi Đà Lạt tôi rất thích những ngôi nhà có vườn
cỏ xanh phía trước nở đầy hoa. Có cả các loại penseé, violette, marguerite và
những bụi Forget-me-not dễ thương mọc dại bên đường. Vào vườn hoa Đà Lạt - tên
cũ là vườn Bích Câu, thì thấy cả các loại hoa rừng miền nhiệt đới, đẹp nhất là địa
lan - đặc biệt là lan hồ điệp, cho đến hoa phương Đông, phương Tây như hoa hồng,
cẩm tú cầu, xác pháo, mimosa... Sau này, còn có thể nhìn thấy các loại hoa lấy
giống từ Hà Lan như tulipe và nhiều loại hoa lạ khác trong các Festival Hoa của
Đà Lạt, hay những chợ hoa ngày Tết ở Sài gòn.
Đến năm 1994 xuất hiện làng hoa công nghiệp Hasfarm thì ngành trồng hoa phố núi thực sự bùng nổ với đủ loại hoa màu sắc chủng loại phong phú, có nhiều loại giống nhập từ các nước châu Âu như Pháp, Ý, Anh, Hà Lan, hay từ châu Á như Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản v.v.. nên Đà Lạt đã có thể cung cấp hoa cho cả nước và xuất khẩu rất mạnh.
Thật thú vị khi được bước vào những vườn hoa khoe sắc. Ở vườn
hoa Vạn Thành, nơi chúng tôi ghé vào là khu vực trồng hoa đồng tiền, hoa hồng,
cúc, hoa "salem". Có 2 loại hoa khô mà tôi rất thích là
"salem" và sao tím. Riêng loại hoa này làm tôi thắc mắc, vì sao lại gọi
là "salem"? Một người bạn cho tôi biết, có lẽ người ta đọc trại từ chữ
Gazon d'Olympe. Nhưng loại hoa Gazon d'Olympe hay còn gọi là Gazon d'Espagne,
Amérie maritime lại là một loại hoa khác. Trong tài liệu có nói loại hoa
"salem" này mọc quanh năm ở Ecuador. Ở châu Âu thì chỉ nở vào mùa
xuân và hạ. Trong tiếng Anh gọi là Statice, một loại hoa khô phổ biến, thuộc họ
Plumbaginaceae, còn có tên Sinuata Statice, Limonium, English Statice, German
Statice, Seafoam Statice, Latifolia, Sea Lavender (Oải Hương biển) tùy theo
giống. Còn "Hybrid Limonium" thì là loại hoa sao có 2 màu tím và trắng,
cũng là loại hoa có thể dùng làm hoa khô, cắm phối hợp cho các bình hoa lớn rất
đẹp.
Làng hoa Vạn Thành cũng có cả một khoảng vườn trồng cà phê
Moka phía trước. Con đường đi xuống thung lũng mở ra cho thấy bạt ngàn cây xanh
và những nhà kính hiện đại trồng hoa trên vùng đất đỏ bazan. Đang định tìm đường
một mình xuống thung lũng xem có cái gì ở dưới đó thì mọi người gọi ra xe đi đến
nơi khác gấp. Bạn tôi nói: Sao mà đi đến chỗ nào cũng làm cho mọi người phải chờ
vậy nhỉ? Tôi chỉ cười. Trong các kỳ du lịch, tôi đã nổi tiếng luôn là người ...
lên xe sau. Đi tham quan mà cứ ào ào, chẳng thấy gì, hiểu gì, tôi thấy quá phí!
Rời làng hoa Vạn Thành, xe chúng tôi đi về phía thung lũng
Vàng trên con đường Đông Trường Sơn. Hai bên đường là những cánh rừng nối tiếp
không dứt. Rừng Đà Lạt cho nhiều loại gỗ như Pơ mu, cẩm lai, căm xe, trắc nghệ,
xá xị, bách, hương, thông, tùng v.v... Vốn làm trong nghề gỗ mỹ nghệ, tôi cũng
biết những loại gỗ này. Gỗ Pơ mu thuộc hàng gỗ quý, thơm, có vân đẹp, màu vàng,
thường dùng chạm khắc tượng Phật Di Lặc, ngày trước bán khá đắt. Có thời gian
làm hàng gỗ mun, giáng hương nhiều vì vân gỗ các loại này cũng rất đẹp. Phổ biến
bây giờ chúng tôi dùng nhiều gỗ căm xe cho hàng nội thất, một loại gỗ rất cứng
kháng mối mọt rất tốt. Riêng với cây thông thì Đà lạt hiện nay ngoài những rừng
thông thiên nhiên, đa phần là rừng thông cải tạo loại thông 5 lá, đặc biệt có
thông đỏ. Khu vực Di Linh, Bảo Lộc thì trồng thông 2 lá.
Thung lũng Vàng ngày nay có thể nói rất đẹp. Cách trung tâm
Đà Lạt chừng 15 km về hướng Bắc, là một trong những điểm du lịch mới của Đà Lạt
từ năm 2005. Cái đẹp ở đây do cảnh thiên nhiên được bàn tay con người điểm tô
chăm sóc nên càng thêm quyến rũ. Rừng thông có đủ loại thông 3 lá, 5 lá, thông
đỏ, thanh tùng, bạch tùng, tùng xà ngũ phúc... Có cả loại cây được nhập như cây
lá phong, phong lữ thảo, hồng sa mạc... Có cây bồ đề 300 năm tuổi. Vườn hoa được
chăm sóc công phu, màu sắc phối hợp đẹp. Vẫn là những loại hoa chính ở Đà Lạt
như cẩm tú cầu, thạch thảo, mimosa, cúc trắng, cúc tím, ... lần này có thêm vườn
hoa đỗ quyên nhiều màu.
Từ vườn hoa và cây cảnh, đi theo đường xuống hồ Vàng, là một
khung cảnh thật thơ mộng. Khu vực từ Suối Vàng đi lên phía đỉnh Langbiang, thuộc
huyện Lạc Dương, phía bên trái là những vườn rau, khi đi ngang qua cả một quãng
đường dài, chúng tôi nghe mùi xác cá dùng để bón rau bốc lên nồng nặc.
Đến Langbiang, đỉnh cao nhất miền Trung Nam bộ, cao 2.167 m
so với mặt biển. Từ đỉnh Langbiang, có thể nhìn thấy đồi núi cao nguyên Lâm
Viên trùng trùng điệp điệp, Suối Vàng Suối Bạc và toàn cảnh Đà Lạt. Con đường từ
dưới lên đến đỉnh là 6 km nên sẽ có xe Zeep đón khách đưa lên mất khoảng 15
phút. Nếu chọn cách đi bộ, du khách sẽ đi xuyên qua những rừng thông và làng
dân tộc.
Lên đến đỉnh núi, lại thêm một huyền thoại tình yêu được kể,
ghi khắc trên một bia đá: "Ngày xưa tại vùng núi này, có người con trai
tên Lang, tù trưởng bộ tộc Lát, thương người con gái tên Biang, con gái tù trưởng
bộ tộc Chil. Do khác bộ tộc nên nàng Biang không cưới được chàng Lang, vì vậy
hai người đành lấy cái chết để giữ trọn tình và phản đối luật tục khắt khe. Khi
Lang và Biang mất, cha của Biang hối hận đã thống nhất các bộ tộc người Lát,
Chil, Sré...thành chung một dân tộc K'Ho. Từ đó thanh niên nam nữ các bộ tộc dễ
dàng yêu nhau, cưới nhau. Mộ hai người dần trở thành hai ngọn núi cao nằm cạnh
nhau và dân làng đặt tên cho ngọn núi này là núi Langbiang".
Mẹ con người K'Ho
Ở đây có khu vực bán hàng thổ cẩm, mỹ nghệ của người dân tộc.
Tôi đã ngắm khá lâu một phụ nữ dân tộc địu con sau lưng đứng trên đỉnh
Langbiang, phông nền là núi rừng bao la phía dưới. 80% dân số huyện Lạc Dương
này là dân tộc bản địa. Trên đường xuyên qua khu vực này, có nhiều nhà cửa, trường
học của người dân tộc. Đúng như lời người hướng dẫn, đời sống người dân tộc
ngày nay cũng khá hơn xưa rất nhiều. Có những ngôi biệt thự rất khang trang đẹp
đẽ mà chúng tôi đã tưởng đó là biệt thự của người Kinh, nhưng không phải. Ghé
thăm bảo tàng dân tộc trên đường, tôi hơi ngạc nhiên vì bảo tàng khá lớn và
phong phú, trưng bày nhiều cổ vật, các loại đá quý, gỗ rừng, các di sản văn hóa
mỹ thuật của người dân tộc.
Sau chuyến đi Langbiang, chúng tôi trở về thành phố ăn trưa,
rồi đến cung Nam Phương hoàng hậu. Một điểm đến khá mới lần này là đi xem
"chiếc bàn xoay kỳ lạ".
Mặt tiền Ga Đà Lạt
Buổi chiều lại có mưa nhỏ. Chúng tôi ghé ga Đà Lạt. Đây là
nhà ga cổ nhất còn lại của Việt Nam, được xây dựng từ 1932-1936, thiết kế vừa
mang hình dáng của đỉnh núi Langbiang, vừa kết hợp với kiến trúc Pháp. Nhà ga vẫn
còn giữ nơi bán vé và thân tàu hỏa cổ chạy bằng hơi nước. Riêng chiếc đầu tàu
nghe nói đã bán cho người Ý để chưng bày trong bảo tàng của họ.
Đến nhà thờ Domaine de Marie, tên chính thức "Nhà Thờ
Mai Anh Tước Hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội", nằm trên đồi Mai Anh đường
Ngô Quyền. Là cụm kiến trúc bao gồm nhà nguyện và 2 dãy nhà của tu viện nữ tử
Bác Ái Thánh Vinh Sơn, được xây dựng từ năm 1930 đến 1943 theo phong cách châu
Âu thế kỷ 17 có kết hợp với kiến trúc dân gian Tây nguyên.
Khi các bạn trong đoàn ra phía sau khu nhà trẻ mồ côi để mua
các loại quà tặng do các nữ tu dạy nghề cho các cháu làm, tôi đã đi vào khu nhà
nguyện. Không phải giờ làm lễ nên chỉ có vài người đang quỳ đọc kinh ở hàng ghế
cuối. Không khí thật trầm lắng. Tuy không có đạo nhưng tôi thường thấy rất ấm
áp mỗi lần bước vào nhà thờ. Có một bức tượng Đức Mẹ được tạc theo hình mẫu của
một người phụ nữ Việt Nam, do bà phu nhân toàn quyền Đông Dương Decoux dâng
cúng nhà thờ vào năm 1943. Phía sau nhà thờ có phần mộ của bà. Không gian thật
yên tĩnh, chỉ nghe tiếng mưa rơi trên lá cây trong vườn. Một nữ tu đưa tay ngỏ
ý mời tôi bước vào phía sau khu nhà nguyện. Khu vườn mặt trước và bên trong nhà
thờ được chăm sóc khá công phu. Qua màn mưa chiều đang rơi, toàn cảnh có nhạt
nhòa nhưng màu sắc của mái ngói đỏ, bức tường màu hồng xinh xắn và những bông
hoa tươi thắm trong vườn vẫn lộng lẫy.
Từ đồi Mai Anh nhìn xuống, cảnh thật đẹp làm tôi tưởng đang ở
xứ sở châu Âu nào xa xôi. Xa xa nhấp nhô những ngôi nhà mái đỏ, cái cao cái thấp
theo đồi núi. Dù không phải mùa hoa nở, hàng cây mimosa lá bạc vẫn đem đến cảm
giác rất Đà lạt, nghĩa là một thứ cảm giác chỉ có ở Đà Lạt mới có.
Nhiều lần trở lại Đà Lạt, vẫn thấy thích vì không khí cảnh vật
ở đây đã làm cho chúng tôi cảm thấy như trở về thời tuổi trẻ mơ mộng ngày nào.
Biết Đà Lạt hay mưa, tôi thường cẩn thận đem theo cây dù to che đủ cho 2 người.
Mưa lớn vẫn ướt, nhưng cái thú của những đôi bạn hợp ý là được đi bên nhau dưới
mưa. Vừa đi chúng tôi vừa kể cho nhau nghe nhiều chuyện, rồi ghé lại một
hàng sữa đậu nành nóng để ngồi xuống bên đường uống một ly, hay buổi sáng sớm
ghé phở Hiền chọn chỗ ngồi ngoài đường ăn tô phở nóng bốc khói kèm chiếc bánh
giò cháo quẩy giòn rụm, vừa xuýt xoa vì lạnh, hay gặm ổ bánh mì baguette nóng
giòn, món bắp nướng bên đường ... Tất cả vẫn còn từ ký ức ngày xưa đến bây giờ
mỗi lần đến Đà Lạt vẫn muốn được thưởng thức lại. Đôi khi hạnh phúc đến từ những
điều tưởng như rất nhỏ nhoi đó.
Góc phố Đà Lạt
Viết về Đà Lạt, có rất nhiều đề tài tùy theo bạn khai thác. Một
bài viết sơ lược thế này chỉ như một chút sương mù lãng đãng trên đỉnh núi miền
cao. Từ chuyện bác sĩ Yersin khám phá cao nguyên Lâm Viên vào năm 1893; đến những
huyền thoại, truyền thuyết tình yêu; những rừng thông và đồi núi bạt ngàn của
cao nguyên Lâm Viên, những dòng thác, bờ hồ nổi tiếng, những làng dân tộc đầy bản
sắc, những làng hoa, vườn hoa tuyệt đẹp; những cảnh chùa yên tĩnh nên thơ... đều
là những chủ đề hấp dẫn. Vì vậy mà đã có rất nhiều bài hát, tranh, thơ văn về
Đà Lạt. Nếu bạn chưa bao giờ đến Đà Lạt, hãy đến một lần, và có lẽ một lần
không đủ, thì vài lần, nhiều lần, sẽ đem đến cho ta nhiều kỷ niệm, gắn kết với
khung cảnh thơ mộng của Đà Lạt chắc chắn sẽ làm bạn không thể quên.
Tôi chỉ thêm một lời khuyên nhỏ: Đi Đà Lạt, bạn nên đi...
hai mình!.
(*) "Một Chút Gì Để Nhớ" - Thơ Vũ Hữu Định
Hình ảnh: Nguyễn Diệu Tâm
NGUYỄN DIỆU TÂM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét