Dưới mái học đường 1
Mỗi trẻ nhỏ được dạy dỗ là
Một con người được thành thân
V Hugo
Lời soạn giả
Để được góp một viên gạch nhỏ vào công cuộc xây dựng một nền
giáo dục mới cho nước nhà đang bắt đầu chuyển hướng dưới chính thể Cộng-Hòa,
tôi viết cuốn
DƯỚI MÁI HỌC ĐƯỜNG
phỏng theo Grands Coeurs, cuốn tiểu thuyết trứ danh của nhà
văn-hào AMICIS (Ông Hà mai Anh đã trích một số chuyện trong đó để dịch sát
nguyên văn).
Như tên đặt cho sách, tôi chỉ chọn và thêm vào những chuyện
thuộc phạm-vi nhà trường, và chung quanh nhà trường. Ở đây, các em sẽ thấy gần
gũi với những nhân-vật trong chuyện. Đó là những học sinh vẫn gặp ở các trường,
là những bạn cùng chơi hàng ngày, là chính ngay các em, với những ý nghĩ, những
tình-tiết, những bổn-phận làm trò, làm bạn, làm con…
Dành cho các em những phút giải-trí lành mạnh, tiếp tay các vị
phụ-huynh trong công cuộc giáo-dục con em, giúp cho các bạn nhà giáo một ít tài
liệu giáo-khoa xây dựng, viết với một tinh thần mới, đó là mục-đích nhỏ mọn của
tôi.
Song tôi vẫn phàn nàn rằng ngọn bút của mình chưa đủ tài tình
sâu sắc đủ làm rung động tâm hồn người đọc.
Điều đó hẳn các Ngài, các Bạn cũng biết thế mà khoan thứ cho
rồi.
SOẠN-GIẢ
° ° °
Ngày 1 tháng 9
Mới 6 giờ sáng mà trên hè phố tiếng giày guốc đã khua vang,
báo hiệu ngày tựu trường đã tới. Hai tháng hè trôi qua mau chóng quá!
Từng đoàn học-sinh lũ lượt đi, tay sách cặp, miệng bi-bô kể
chuyện. Tôi vội chải đầu, thay bộ quần áo mới rồi gọi em cắp sách cùng theo mẹ
đến trường.
Tuy chân bước đi mà lòng tôi vẫn ngổn ngang trăm nỗi. Phần
còn luyến tiếc những cảnh trăng nước đồng quê trong những ngày hè vui thú, phần
hân hoan được gặp thầy, gặp bạn, lại pha nỗi lo âu, sợ lên lớp trên học khó.
Cứ thế, tôi dắt em, chân bước theo mẹ, óc đầy ý nghĩ vẩn vơ,
rời đến cửa trường lúc nào không biết.
Quang cảnh trường học hiện ra náo nhiệt lạ thường!
Hàng quà, hàng bánh, nước mía, mực khô… không biết kéo đến tụ
họp tự lúc nào, mà đũ cả, khiến cho đông lại thêm đông. Chỉ khổ cho bác gác trường!
Mọi ngày đối với lũ trò nhỏ „oai vệ“ là thế, mà hôm nay, thêm người cảnh binh
giúp sức, bác cũng phải luôn mồm hò hét, rát cổ bỏng họng, mới giữ nỗi trật tự
lối ra vào.
Sắp sửa tiến qua cổng trường, tôi bỗng thấy có bàn tay vỗ nhẹ
vào vai. Tôi ngảnh lại. Cô giáo cũ lớp Năm âu-yếm nhìn tôi mà bảo:
- Năm nay Dũng học trên gác rồi nhỉ? Thế là cô lại không
trông thấy Dũng qua cửa lớp cô nữa. Dũng chưa quên cô đấy chứ?
Tôi chẳng biết nói gì, chỉ nhìn cô mà lòng se lại. Mẹ tôi vội
nói đỡ:
- Hôm nào rỗi mời cô lại chơi. Cháu vẫn nhắc đến cô luôn đấy ạ.
Cô mỉm cười, hứa hôm nào lại thăm mẹ tôi, véo má em Huyền, rồi
lanh lẹn bước vào cổng trường. Trong sân, túm năm, túm ba, đủ các hạng người.
Đây, một bà sang trọng dắt cậu con, mới từ đầu đến chân; kia một cụ già, tuy đứng
dưới bóng cây mà vẫn chịu khó che ô cho cháu; nọ, một ông cúi xuống vỗ về cậu
con trai, trông mặt mũi sáng sủa đáo để mà mồm cứ mếu sệch đi, định khóc.
Tôi đưa mắt nhìn ngôi trường sừng sững trước mặt: tường vôi mới
quét, thềm gạch sạch bong, như hớn hở chào mừng chúng tôi, những người bạn cũ
đã trở về. Trông thấy những nếp nhà rộng lớn mà suốt bốn năm trời dòng dã, tôi
hằng ngày lui tới học hành, lòng tôi, bỗng rộn lên một niềm vui chan chứa. Bao
nhiêu miễn cưỡng lo âu bỗng tiêu tán đâu mất cả!
Tôi hoan hỷ đưa mắt nhìn theo các bạn cũ của tôi đang tung
tăng chạy nhẩy khắp sân. Bác nào trông cũng lớn hẳn lên. Có bác đen như củ
súng, cơ hồ cháy nắng. Chả bù cho mấy chú „lính mới“, nét mặt ngơ ngác sợ sệt,
cứ túm chặt lấy áo mẹ, nước mắt vòng quanh.
Vừa lúc ấy, ông Hiệu-Trưởng đi tới. Trông ông vẫn thế. Chỉ có
bộ ria trắng bạc hơn năm ngoái ít nhiều. Thấy bóng ông ra, các bà các cô vây
tròn lấy ông, vẻ mặt giận hờn vì không còn chỗ học cho con, cho cháu. Song ông
vẫn tươi cười, an ủi người nầy, cắt nghĩa cho người kia, giải thích những trường
hợp không đúng với lệ của trường.
Nhưng một hồi chuông đã nổi lên… Các thầy giáo, các cô giáo cầm
bản danh sách học sinh, đứng ra cửa lớp gọi tên.
Em Huyền tôi được vào lớp mẫu giáo của cô Đào. Còn tôi học lớp
Nhất A của thầy Bích trên gác. Ngồi an vị rồi, tôi đưa mắt nhìn chung quanh.
Lớp học cũng chẳng khác lớp Nhì năm ngoái. Nhưng tôi tưởng
như lạ hơn nhiều: căn phòng như rộng hơn, tấm bảng đen như lớn hơn; đến cái
tranh bộ xương người, tôi coi cũng rắc rối hơn bức tranh học năm ngoái.
Mới cách đây có một phút đồng-hồ, mà tôi có cảm giác như mình
nhớn hẳn lên và cũng quan trọng hẳn lên! Chả gì cũng là học sinh lớ Nhất rồi cơ
mà! Mà lớp Nhất, thì cái gì cũng phải nhất chứ: lớn nhất, giỏi nhất, đàn anh nhất…
mà học cũng khó nhất. Thế rồi tôi bất giác giật mình lo sợ.
Còn đang lan man nghĩ ngợi, tôi thấy có tiếng gọi khẽ đàng
sau. Tôi quay lại. Đó là anh Sinh, anh bạn bao giờ cũng ngồi đầu lớp, đang nháy
tôi ra hiệu.
Tôi mỉm cười với anh, rồi đưa mắt một lượt nhìn các bạn. Vô số
là bạn mới. Nhiều gương mặt thật đáng yêu, khiến tôi thoạt nhìn đã chan chứa cảm
tình.
Qua cửa sổ, bóng lá chập chờn, đàn chim nhỏ lách tách chuyển
cành. Tôi chợt nhớ đến cảnh non cao, biển rộng mà tôi đã sống mấy tuần vừa qua,
rồi so với ngôi trường chật hẹp, trang nghiêm, tôi bỗng cảm thấy lòng buồn hiu
hắt, thương nhớ vẩn vơ.
Chợt có tiếng nói oang oang. Đó là thầy giáo tôi năm nay, đặc
biệt với dáng người mảnh khảnh, mái tóc hoa râm, với những đường nhăn trên vầng
trán rộng. Giọng thầy to và đĩnh đạc. Thầy chẳng cười bao giờ. Thầy mới nghiêm
làm sao! Thầy chăm chú nhìn vào tận mặt từng đứa chúng tôi như muốn soi rõ đến
tận tâm-hồn.
Tôi liên tưởng đến thầy giáo cũ lớp Nhì, lành như cục đất,
lúc nào cũng nhìn tôi mủm mỉm. Những nụ cười trìu mến ấy tôi quên làm sao được?
Chả mấy chốc giờ về đã điểm. Tôi thu xếp sách vở, ngao ngán
nghĩ thầm :
- Chà! đây mới là ngày đầu! Còn những 9 tháng nữa mới lại nghỉ
hè. Rồi sắp sửa chúi mũi vào học bài, làm bài, rồi lại còn thi, còn cử… Chao
ôi! bao nhiêu là khó khăn, bao nhiêu là cố gắng…
Thấy tôi uể oải ra về, vẻ mặt buồn thiu, mẹ tôi biết ý, ôm
tôi vào lòng :
- Con mẹ chưa lên lớp mà đã nản rồi! Can đảm lên cho em bắt
chước chứ con! Bài có khó đâu mà con sợ? Đã có Ba giảng cho con cơ mà! Học sinh
lớp Nhất rồi còn làm nũng. Cười đi nào!
Tôi xấu hổ, rúc đầu vào ngực mẹ…
2. Lễ Chào Cờ
Mùng 4 tháng 9
Nhân đầu niên học nhà trường tổ-chức buổi lễ chào cờ, có mời
thêm phụ-huynh hoc-sinh đến dự.
Trên sân rộng, trước cửa lớp Nhất, một bồn hoa nhỏ, màu hoa đỏ,
tím, chen lẫn sắc cỏ xanh rờn làm nổi bật cái cột cờ đang vườn mình thẳng tắp,
sừng sững đứng ngạo nghễ và oai nghiêm !
Sát vào hiên trường, bàn thờ Tổ-Quốc đã được dựng lên, cùng với
tấm bản đồ Việt-Nam. Bài-trí tuy sơ sài mà không kém vẻ tôn nghiêm !
Một hồi chuông rung lên. Chúng tôi bỏ cuộc chơi, vội vã chạy
lại dưới cột cờ. Trước mệnh lệnh của anh đoàn-trưởng, lớp nào lớp ấy yên lặng bỏ
mũ, xếp hàng ngay ngắn, tề chỉnh.
Lá quốc-kỳ đã được buộc sẵn vào dây. Một anh lớp Ba, quần áo
sạch sẽ, được chỉ định trước, đã túc-trực sẵn bên chân cột. Bầu không khí lặng
lẽ thêm uy-nghiêm ! Trên thềm cao, các vị phụ huynh cùng các thầy giáo và các
cô giáo nghiêm-trang nhìn xuống.
Ông Hiệu-Trưởng đứng ra đọc một bài diễn-văn ngắn nói qua ý
nghĩa buổi lễ hôm nay. Ông cũng không quên nhấn mạnh rằng dưới sự lãnh-đạo của
tân Tổng-Thống, nước Việt-Nam Cộng-Hòa đang cần nhiều thanh niên ưu tú. Bổn phận
hoc-sinh chúng tôi lúc này rất nặng nề, phải cố gắng học hành để một ngày kia,
ngược qua Bến-Hải, thống nhất xứ sở.
Giọng ông trầm hùng mới cảm động làm sao, khiến cho một bà tới
dự lễ luôn tay đưa mùi-xoa chấm mắt. Rồi ông quay lại, hô to :
- Nghiêm !
Rứt tiếng hô dõng dạc, chúng tôi đứng ngay ngắn lại, ưỡn ngực,
chụm gót chân, hait ay để sát vào đùi.
- Chào cờ ! Chào !
Tiếng hô lại hùng dũng nổi lên. Chúng tôi đầu ngửng cao, mắt
nhìn thẳng, lòng đầy tin tưởng.
- Quốc ca ! Một ! Hai !
Tất cả trường, ngót một ngàn học-sinh cùng cất tiếng hát. Bài
ca hùng tráng vang lên, lúc lên bổng, lúc xuống trầm. Quốc-kỳ từ từ kéo lên. Nhịp
với lời ca quyến-dũ, bao nhiêu trái tim cùng xao xuyến đập mạnh :
Vì non sông nước xưa
Truyền muôn năm chớ quên !
Giọng ca lanh lảnh, mắt chúng tô ngời sáng : hình ảnh các đấng
tiền nhân hiện ra trong ánh hào-quang chói.lọi. Quốc kỳ reo mừng trước gió, phần
phật tung bay, như ném ra muôn ngàn sóng lửa.
Thanh-niên ơi ! hăng hái đi tới cùng,
Thanh-niên ơi ! ta nguyền đem hết lòng…
Tiếng ca cứ thế, nhịp nhàng và hùng dũng vang lên, cuốn lên
cao, tràn ra xa… Chúng tôi hồi hộp say sưa lòng đầy tin tưởng vào tương lai rực
rỡ của Tổ-Quốc và cảm thấy cái trách nhiệm nặng nề của đám Thanh-Niên chúng
tôi.
Tiến lên ! cùng tiến !
Vẻ vang đời sống
Chớ quên rằng ta là giống Lạc-Hồng !
Tiếng ca đến đây im bặt. Quốc-kỳ cũng vừa lên đến đỉnh cột
cao. Chúng tôi thong thả vào lớp, tâm hồn còn rung động nao nao, lời ca bên tai
còn văng vẳng.
Quốc-kỳ nào phải mảnh vải vô hồn ! Đó là biểu hiệu của Tổ-Quốc,
tượng trưng cái ý-chí quật cường của dân-tộc. Chúng tôi hàng ngày đứng trước Quốc-Kỳ
như cảm thấy một sức mạnh thiêng liêng thúc đẩy chúng tôi cố chí học hành để
sau nầy làm cho Quốc-Kỳ được thêm rực rỡ.
Đáng giận thay những kẻ không biết tôn trọng Quốc-Kỳ !
3. Thầy Giáo Tôi
Ngày mồng 8 tháng 9
Chúng tôi đi học thế mà đã được tuần lễ. Vậy mà chẳng thấy thầy
giáo tôi cười bao giờ. Đôi khi còn thấy thầy thờ thẫn nhìn ra xa, xem như có điều
phiền muộn.
Cứ xét cái bề ngoài ấy, ai chẳng bảo thầy giáo tôi nghiêm, mà
đối với học trò như cũng ít cảm tình thì phải. Nhưng chúng tôi đã lầm. Câu chuyện
sáng hôm nay chứng tỏ điều đó, và còn làm cho chúng tôi thêm bội phần cảm mến.
Lúc ấy là giờ Đức-dục. Thầy đang giảng bài thốt nhiên ngưng lại,
đi xuống giữa lớp, đặt tay lên trán một anh ngồi ngay đầu bàn tư. Tôi để ý thấy
thầy khẽ lắc đầu, rồi móc túi lấy lọ dầu xoa lên thái-dương cho anh. Còn đang hỏi
han, thì đàng sau lưng thầy, một anh đứng lên, phồng má, trợn mắt, rồi giơ quả
thụi ra để làm trò cười.
Bất ngờ thầy quay lại, bắt gặp cử-chỉ hỗn xược ấy. Anh chàng
sợ quá, mặt đỏ gay, ngồi thụp xuống ghế, cúi gầm mặt xuống mà chịu tội. Chúng
tôi sợ hãi, lấm lét nhìn nhau, chờ cơn thịnh nộ của thầy.
Nhưng chỉ thấy thầy đặt tay lên vai chàng ta mà diu-dàng bảo
:
- Đừng dại dột thế nữa con !
Thế rồi thầy về chỗ, tiếp tục giảng bài, thản nhiên như chẳng
có chuyện gì xảy ra.
Bài Đức-dục chép xong, thầy giáo yên lặng nhìn chúng tôi một
lúc, rồi cất tiếng lên, cái giọng trang-nghiêm, to tát, nhưng cũng âu yếm ngọt
ngào làm sao, khiến tôi nhớ mãi không quên :
- Các con ơi ! Nghe thầy nói đây ! Thầy trò ta sẽ cùng nhau học
tập trong một năm. Thầy biết những gì sẽ mang ra giảng dạy cho các con không tiếc,
cả đến sức khỏe của thầy, thầy cũng không từ. Vậy chúng ta hãy cố gắng làm sao
cho niên-học được nhiều kết quả.
Còn riêng thầy không có gia đình. Mẹ thầy năm ngoái hãy còn,
nhưng giờ đây người đã khuất, bỏ lại thầy trơ trọi một mình. Các con ơi ! Các
con mới thật là con của thầy, mà thầy cũng chỉ còn có các con để làm khuây những
giờ trống trải. Ngoài các con ra, hỏi thầy còn ai để mà thương yêu nữa ?
Thầy yêu mến các con, và các con cũng thương mến thầy, cố
tránh cho thầy những nỗi tủi phiền mới phải. Thầy chỉ xin các con có một điều
là cố gắng học hành, đừng để phí thì giờ vô ích, để cho thầy đây và cha mẹ các
con cũng được hả lòng. Có thế mới tỏ ra xứng đáng là những hoc-sinh của một nước
Việt-Nam độc-lập và hùng-cường.
Trường ta chẳng khác gì một gia-đình mà các con là nguồn an-ủi,
mối kiêu hãnh của thầy. Các con ngoan ngoãn nết na, thầy cũng vui lòng hả dạ ;
các con hư hỏng lười biếng, thầy buồn phiền chán nản.
Nếu rồi đây có phải trừng phạt một đứa con nào của thầy, ấy
cũng là điều bất đắc dĩ và sẽ làm cho thầy phải đau lòng, sót ruột. Các con nên
hiểu cho thầy như thế…
Vừa nói đến đây, có tiếng chuông rung. Giờ học đã hết. Chúng
tôi yên lặng đúng lên, xếp hàng ra về.
Anh học-trò hỗn xược ban nãy, rụt rè đến bên thầy giáo, cặp mắt
đỏ hoe, cúi đầu khẽ nói :
- Thầy tha cho con…
Không nói nhiều, thầy nâng cằm anh lên mà rằng :
- Thôi con về…
Đến bữa ăn, thấy tôi có vẻ âu sầu nghĩ ngợi, cha tôi gặng hỏi.
Song tôi chỉ nói được một câu: «Thưa Ba, con xấu hổ vì đã có những ý nghĩ sai lầm
về thầy giáo…»
Thế là tôi nghẹn ngào, không nói lên được nữa…
4. Anh Bạn Di Cư
Ngày 15 tháng 9
Bữa chiều qua, chúng tôi đang nghe thầy giảng bài, bỗng có tiếng
gõ cửa, rồi ông Hiệu-Trưởng tiến vào giữa lớp, theo sau một anh học trò mới,
tóc ngắn húi cao, da ngăm ngăm đen, nét mặt khắc-khổ đăm-chiêu, nhưng vẻ đầy
cương quyết. Anh ta đi một đôi giép cao-su trắng và vận một quần ca-ki ngắn cũn
cỡn với một chiếc sơ-mi nâu đã bạc mầu. Thấy anh cao lớn như ông Hộ-Pháp, chúng
tôi khúc khích bấm nhau cười.
Sau khi trao đổi vài lời khe khẽ với thầy giáo tôi, ông Hiệu-Trưởng
vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống, rồi ra đi. Ông đi khỏi rồi, anh học
trò mới quay xuống, cặp mắt đen lay láy nhìn chúng tôi ra chiều bẽn lẽn. Thầy cầm
tay anh thân mật dắt lên đứng trên bục, rồi hướng về chúng tôi, thầy nói :
- Các con ơi ! những câu thầy sắp nói ra đây các con chớ lấy
làm thường và mong các con ghi nhớ vào lòng… Bắt đầu từ hôm nay, các con có một
người bạn mới, ở xa xôi lắm, tận miền Bắc di-cư vào, tìm tự-do bên chúng ta.
Người bạn ấy đã bỏ quê cha đất tổ, bỏ những phần mộ tổ tiên,
bỏ lại tất cả những gì thân mến trên đời, để vào đây sống một cuộc đời mới, bên
cạnh các con. Thầy mong rằng các con xem anh như người ruột thịt, và vui vẻ
cùng nhau học tập. Mà có như thế mới phải. Thực-dân phân chia Nam, Bắc, nhưng
dù Bắc, Nam có khác, chúng ta cũng cùng một nòi, một gốc.
Các con ơi ! Anh bạn mới này đây, sinh trưởng tại thủ-đô
Hanoi, trung-tâm hoạt động của bao vị anh-hùng cứu nước, nơi phát sinh ra cả một
nền văn-hóa rực rỡ đã hàng bao thế-kỷ làm chói lọi trang sử Việt-Nam. Giờ đây,
đất Bắc rên xiết đau thương, anh vào đây với một tấm lòng yêu nước thiết tha,
cùng chúng ta sát cánh để một ngày kia xây lại Tự-Do đang bị dày xéo.
Các con đừng xem anh là người xa lạ. Hãy coi anh như người
trong thân tộc để cho anh khỏi tủi hờn vì nỗi chia ly và để cho anh hiểu rằng:
«đất Việt đâu cũng là nhà, người Việt đâu cũng là anh em».
Giọng thầy run lên vì cảm-động, còn anh bạn di-cư tay mên mê
cặp sách mà hai dòng nước mắt cứ chảy đầm đìa trên má.
Nhìn lên bản-đồ Việt-Nam treo cao trên tường ở trước mặt
chúng tôi, thầy chỉ vào Bắc-Việt, rồi lớn tiếng gọi to :
- Sinh! lên thầy bảo!
Anh Sinh đứng dậy, bước lên.
- Con là học-sinh giỏi nhất lớp. Con hãy thay mặt anh em bắt
tay anh bạn miền Bắc để tỏ tình thân ái nào!
Trong khi đôi bạn hai miền xiết chặt tay nhau, cuối lớp có tiếng
hô lớn :
- Nam-Bắc một nhà! Di-cư là yêu nước!
Thế là chúng tôi vỗ tay hoan nghênh rầm rĩ. Thầy giáo nghiêm
nét mặt, ra hiệu bảo im :
- Thầy vui lòng thấy các con biết đoàn-kết. Chỉ có Đoàn-Kết mới
diệt được thù trong giặc ngoài, đem lại tự-do cho dân-tộc. Nhưng làm ầm ỹ trong
lớp như thế là phạm kỷ-luật…
Tuy thầy nói như vậy, nhưng trong thâm tâm, xem chứng thầy
cũng cảm động vì mối tình nồng nhiệt của chúng tôi. Riêng anh ban di-cư, hẳn
cũng vui lòng, vì thấy anh nhìn chúng tôi bằng cặp mắt cảm ơn.
Thầy chỉ một chỗ cho anh ngồi xuống, rồi lại nói :
- Đất Bắc với những núi non hùng-vĩ, thắng cảnh danh lam, phản
ảnh sự sống còn của dân tộc ; ngưởi Bắc với tinh thần bất-khuất, tượng trưng
cho sự đấu tranh của chính-nghĩa. Tám mươi nhăm vạn người Bắc di-cư, cùng với
mười triệu người Nam vùng lên, sẽ đem lại ngày mai huy hoàng cho đất nước.
Các con hãy coi nhau như anh em một nhà. Kẻ nào nhạo báng anh
là di-cư thế nọ, di-cư thế kia, là vô tình mắc bẫy tuyên-truyền của địch. Kẻ ấy
không xứng đáng là con Rồng, cháu Tiên, và sẽ tủi hổ trước lá Quốc-Kỳ.
Anh bạn di-cư vừa ngồi xuống ghế, các bạn đã xúm lại tặng anh
nhiều vật: bút, thước, bi ve,… Một anh ở cuối lớp cũng góp vào phần ấy một tập ảnh
ô-mai để làm kỷ niệm.
Không hiểu tại sao, lòng tôi thấy thương anh, rồi phục, rồi mến
anh quá. Tôi bỗng có cảm tưởng gần người bạn đau-khổ nhưng hiên ngang ấy rồi
đây sẽ học được lắm điều hay!
5. Anh Hùng Dân Tộc
Ngày 21 tháng 9
Anh bạn di-cư tên là Tôn. Anh mới vào được có mấy hôm đã làm
chúng tôi mến phục vì bài Việt-Sử sáng nay với đầu đề : « Anh Hùng Dân Tộc ».
Mọi lần, anh Sinh vẫn nhất bất cứ môn nào, nhưng vì hôm thi
anh nghỉ, nên thầy đọc đến tên anh Tôn cả lớp đều ngạc nhiên, quay xuống nhìn.
Đây là bài của anh đã được thầy sửa lại. Tôi mượn chép về cho
cha tôi xem.
«Trang sử nước nhà ngày thêm rực rỡ bởi sự-nghiệp lớn lao của
biết bao đấng anh hùng liệt-nữ ! Quần thoa như bà Trưng, bà Triệu đã đem tấm
thân đào tơ liễu-yếu bảo vệ non sông. Nam nhi thì nào Lê Lợi, Nguyễn Huệ, xuất
thân trong đám người áo vải ; nào Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, Trần quốc Tuấn, những
bậc danh tướng ; cả những kẻ đầu xanh như Trần quốc Toản cũng hết sức đem thân
mình đễ trả nợ non sông. Lại còn Phan đình Phùng, Nguyễn thái Học, cùng nhiều
chiến sỹ vô danh khác nữa, cũng đã đem xương máu mình để mưu sống còn cho dân tộc.
Tất cả các vị nào đó, vị nào cũng nêu gương muôn thuở, đáng
cho ta kính phục cả. Riêng theo ý tôi, tôi cho ông Nguyễn Huệ là hơn hết.
Trước sự tham tàn, phản quyền lợi dân tộc của Trương phúc
Loan làm cho máu căm hờn sục sôi giữa đám người nông dân bần bách, ông đã vùng
lên, dựng cờ khởi nghĩa.
Hạ được kẻ thù chung rồi, ông không quên đem binh diệt Trịnh
để trả nước cho vua Lê, bấy lâu khuất phục dưới nanh vuốt quyền thần. Hành động
cao thượng thay !
Cho tới khi ông vua vong quốc Lê chiêu Thống nhục nhã sang
Tàu, cõng rắn cắn gà nhà, thì 20 vạn quân Thanh, binh hùng tướng mạnh, giả danh
phù Lê để cướp nước, thế mạnh như vũ bão, ầm ầm kéo xuống chiếm đóng
Thăng-Long. Quân Tàu từ đó đã gây bao tàn hại, reo rắc bao nhiêu tang tóc trên
đất Việt thân yêu của chúng ta.
Người Việt thủa ấy đã rên xiết dưới sự áp bức của ngoại bang.
Dân tộc Việt-Nam tính mạng treo trên sợi tóc ! Giang-sơn Việt-Nam quằn quại dưới
gót thù ! Già, trẻ. Lớn, bé, ngày đêm cầu nguyện an-ninh, mong nuốt sống kẻ thù
truyền kiếp.
Trong cơn giông tố đó, với một đạo binh bằng nửa, với cách
chuyển-vận thần tốc, Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng-Đế, và chỉ trong 5 ngày, từ
Trung-Việt kéo ra đánh tan lũ quân Thanh tàn ác. Các danh tướng Tàu đều tử trận;
Tôn sĩ Nghị bỏ cả ấn tín chạy lấy thân. Giữa tiếng reo hò vang trời dậy đất của
nhân dân, quân ta trèo qua xác địch, đuổi theo cho đến tận biên thùy.
Vinh quang thay!
Thanh thế của Ngài rực rỡ đến nỗi vua Thanh phải mời sang xem
mặt, hết lòng trân trọng tiếp đãi. Trong lịch sử ta, từ xưa đến nay chưa từng
được rạng rỡ đến như thế.
Võ công của Ngài thì như vậy, chính sự của Ngài cũng chẳng tầm
thường.
Là người của dân, Ngài luôn luôn nghĩ đến dân, lo mưu đồ hạnh-phúc
cho dân. Ngài lại bắt dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán, để được độc-lập về
văn-hóa. Ngài còn có mộng tưởng chiếm phá nước Tàu để mở mang bờ cõi.
Nhưng than ôi! Nghiệp lớn chưa thành, người con cưng của lịch
sử đã mất, trong khi dân tộc Việt-Nam còn cần đến Ngài. Dẫu sao, sự nghiệp của
Ngài cũng còn lưu lại muôn đời, khiến cho người sau, mỗi lần nhắc đến tên Ngài,
ai cũng phải kính cẩn cúi đầu.
Nước Việt-Nam ta ngày nay trong cảnh chia hai đất nước, chẳng
khác gì thời Lê Chiêu Thống. Còn nhỏ, nhưng chúng ta sẽ là một lực lượng hùng hậu
để rồi đây đúng trong hàng ngũ các bậc đàn anh, thống nhất xứ sở »
Tôi còn nhớ sau khi đọc xong bài anh, thầy bảo :
- Bài này đủ ý, câu gọn, lời hùng. Anh Sinh nếu có đi, chưa
chắc đã hơn… Các con ạ, Quang-Trung anh hùng như thế mà lũ người vong bản ngoài
kia dám xuyên tạc công trạng của Người, có đáng giận không ?
Cha tôi, lúc xem xong, cũng chép miệng nói :
- Bạn con tay ngồi đây làm bài, nhưng hẳn lòng vẫn hướng về đất
Bắc. Khí khái như anh quả không thẹn là con dân nước Việt.
Mà trong số những anh hùng dân tộc ta đừng quên anh Tôn cùng
với tất cả đồng-bào di-cư với một niềm-tin mãnh-liệt, đã can-đảm vượt dòng Bến-Hải
với bao nỗi gian lao nguy hiểm. Con nên chọn anh kết bạn mà chơi !
6. Các Bạn Tôi
Ngày 24 tháng 9
Từ đầu năm đến giờ, tôi mới có dịp giới thiệu các bạn.
Quả như lời tôi ức đoán, anh Tôn sau bài thi Việt-Sử đã hoàn
toàn chiếm được lòng tín nhiệm của toàn thể chúng bạn. Lớn nhất, lại tỏ ra hoạt-động
nhất, anh được tất cả chúng tôi bầu làm đoàn-trưởng và được thầy giáo cho giữ sổ
điểm. Thật là cái vinh dự cho anh.
Anh năm nay 17 tuổi, nhưng trường hợp đặc biệt của anh long
đong vì chiến sự, sự học luôn luôn bị gián đoạn, nên ông Hiệu-Trưởng cũng thuận
cho anh ngồi học lớp Nhất.
Người anh lớn, đầu to, vai rộng. Với nụ cười thường nở trên
môi, người ta cũng biết là anh tốt bụng. Tuy vậy xem ra anh lúc nào cũng như tư
lự, mơ màng, có lúc ngồi gốc cây đến hàng giờ không nói. Biết anh nhớ vế quê
cũ, chúng tôi bảo nhau không ai đến làm rộn anh.
Anh là người tôi mến nhất lớp, mà coi như anh cũng nhiều cảm
tình với tôi thì phải.
Ngoài anh, tôi còn được làm quen với vô số bạn khác. Trước hết
phải kể đến anh Tý, là đội trưởng đội tôi. Lúc nào chân anh cũng đi guốc đệm
cao-xu, đầu đội cái mũ nồi lệch sang một bên. Cha anh là một hạ-sĩ trong quân-đội
cộng-hòa, vì bị thương trong cuộc tiễu trừ phiến-loạn miền Tây nên mãn lính trở
về. Gom góp được ít vốn liếng, cha mẹ anh mở một cửa hàng bán than, củi, làm kế
sinh nhai.
Ngồi bên cạnh anh là anh Ninh. Tội nghiệp cho anh quá, chẳng
may mang tật từ buổi lọt lòng, nên người anh bé bằng cái nắm tay, lại thêm một
cái bướu nặng trên lưng.
Sở dĩ rôi chú ý đến anh chỉ vì những bài Việt-Sử. Thật thế
khi chép bài, viết đến tên những vị anh hùng như Ngô-Quyền, Phạm-ngũ-Lão,… anh
nắn nót như viết tập đồ. Vậy mà đến những tên Tô-Định, Liễu-Thăng thì anh bôi
ra nguệch ngoạc, có khi lại còn rỏ thêm mực vào nữa.
Ngồi trước mặt tôi, ở đội Lê-Lợi, là anh Bích, làm đỏm chẳng
khác gì con gái, quần áo lúc nào cũng diêm dúa, tay luôn luôn vuốt lại nếp quần.
Bên cạnh anh Bích là anh «Tư-Húi », sở dĩ có tên như vậy là
vì cha anh làm nghề thợ cạo. Mặt anh tròn như mặt trăng và mũi thì tẹt dí. Anh
có biệt tài làm «mắt lác» rất thần tình, khiến chúng tôi thường đem anh ra làm
trò cười với nhau.
Ngồi phía bên kia là anh Phi, đội trưởng đội Quốc-Toản, người
cao như cò hương, với cái mũi nhòm mồm, đôi mắt tí hí. Luôn luôn anh ta mua đi
bán lại chẳng từ một thứ gì: từ cái ngòi bút đến cái vỏ diêm. Thật là một bộ óc
thương mại hiếm có!
Tôi còn làm quen với anh Vân. Anh Vân ngồi giữa hai anh bạn
mà tôi cũng mến lắm: một bên là Côn, con một người thợ chữa xe máy, mặc cái áo
chữa lại của cha, dài đến đầu gối, mặt xanh nhợt như người ngã nước, hai mắt buồn
rầu ngơ ngác, chẳng dám nhìn ai lâu; một bên là anh Sỹ, đầu húi trọc, cánh tay
bị liệt, đeo lên ngực. Anh lành như con gái và học chăm rất mực. Người ta nói
cha anh sang Tân-Thế-Giới đã lâu, làm gì không biết; còn mẹ anh bán đậu phọng
rang. Nhưng bà ta sợ con xấu hổ, không dám bén mảng đến cửa trường bao giờ. Hai
anh hiền lành ngồi cạnh nhau thật là tương đắc!
Giới thiệu các bạn khác, tôi quên anh bạn ngồi ngay bên trái.
Tên anh là Tác, một nhân-vật kỳ khôi, mình tròn, cổ rụt vào đến tận vai, lúc
nào cũng lầu bầu học bài trong miệng, chẳng trò chuyện với ai. Coi bộ anh đần độn,
nhưng tôi chưa từng thấy ai chăm chú đến như anh. Trong khi thầy giảng bài, mắt
anh nhìn thẳng, vầng trán cau lại, hai môi mím chặt lấy nhau. Liệu hồn bạn nào
lúc đó hỏi anh cái gì! Miệng không trả lời, nhưng chân anh ở dưới thế nào cũng
đạp ngầm cho mấy cái nên thân.
Phía bên kia, ngồi cuối lớp, là anh Pha, mặt mũi vênh váo,
lúc nào cũng sừng sộ như muốn cà khịa với ai. Tôi thú thật cứ trông thấy anh ta
là hãi, giờ ra chơi chẳng dám đến gần.
Con người thông minh và ngoan nết hơn cả là anh Sinh, người
suốt bốn năm, bao giờ cũng ngồi đầu lớp. Anh được bầu làm đội-trưởng đội
Quang-Trung, kiêm thêm chức trưởng ban Tương-Tế Học-Sinh của toàn trường. Ông
Hiệu-Trưởng mến anh lắm và thường gọi đùa anh là «viên ngọc quí của nhà trường
», làm anh thẹn đỏ ửng cả mặt.
Trong số những bạn ấy, không biết sao tôi đem lòng quí mến
anh Côn, con người thợ sửa xe đạp mà tôi đã nói ở trên. Tôi ở gần nhà anh nên
biết anh phải đòn luôn và thầy anh dữ đòn đã có tiếng. Khốn nạn, vì thế anh trở
nên rút rát, đến nỗi chưa chạm phải người ta mà đã ấp úng sẵn câu xin lỗi.
Nhưng thật ra, trong số từng ấy bạn, cũ và mới, theo ý tôi,
anh Tôn mới là người hơn hết bọn chúng tôi. Cái đó tại sao ? Tôi không rõ. Tôi
chỉ biết rằng đã linh cảm thấy thế mà thôi.
7. Vì Bạn
Ngày 26 tháng 9
Chúng tôi quí anh Tôn, coi anh như người anh Cả trong trường,
cũng không phải vô lý. Thực tế, sáng nay khi thầy giáo còn ở văn phòng ông Hiệu-Trưởng
chưa lên, thì ba bốn anh, nhân dịp vắng thầy, chọc ghẹo anh Sỹ, anh bạn bé nhỏ,
có cánh tay liệt và bà mẹ bán đậu phọng rang.
Kẻ thì lấy vỏ hạt dưa ném vào mặt anh. Có kẻ hung tợn hơn, cầm
thước gõ côm cốp vào đầu. Kẻ thì bĩu mỏ bĩu môi, gọi là «thằng què, thằng cụt»,
thôi thì đủ tình, đủ tội.
Sỹ sợ hãi ngồi nép mình vào đầu ghế, cặp mắt sợ sệt, hết nhìn
người nọ đến người kia, như van lơn, như cầu khẩn, những mong các bạn để cho được
yên thân.
Nhưng cái bọn tai ác kia đâu có biết thương người yếu đuối!
Thấy anh nhút nhát, chúng lại càng làm già cho đến lúc anh không chịu nổi nữa,
hai mắt đỏ ngầu rướm lệ.
Bỗng nhiên, anh Pha-anh chàng có bộ mặt sừng sỏ-đứng hẳn lên
trên ghế, khèo hai cánh tay lại như người cắp thúng, miệng cất tiếng rao: «Ai
mua đậu phọng ra nào !».
Trước điệu-bộ ấy mọi người cười ồ lên. Anh Sỹ tái mặt đi,
toàn thân run lên và tức giận. Rồi vớ lấy lọ mực trên bàn, anh thẳng tay ném mạnh.
Nhưng anh chàng Pha nhanh mắt tránh được; mà lọ mực cũng không ném ra ngoài vì
nó trúng ngay giữa ngực thầy giáo, lúc ấy vừa bước vào cửa lớp.
Mọi người đều sợ hãi, nem nép về ghế ngồi, im thin thít. Lớp
học vừa đây ồn ào, bỗng yên lặng như tờ, không một tiếng động.
Thầy giáo giận tái mét mặt, kéo ghế ngồi vào bàn, cất tiếng hỏi:
- Ai ném? Ai?
Không một người lên tiếng. Thầy giáo lại càng giận:
- Ai ném nói ngay !
Ở cuối lớp, anh bạn di-cư mạnh dạn đứng lên:
- Thưa thầy, con chót dại…
Thầy trừng mắt nhìn anh, trong khi chúng tôi nhìn nhau, hết sức
ngạc nhiên. Nhưng đã hiểu, thầy bớt giận, lắc đầu thong thả nói:
- Không phải anh, ta biết!
Ngưng lại một giây, thầy tiếp:
- Ai ném cứ can đảm đứng lên thú đi. Ta tha không phạt…
Sỹ lúc ấy mới lập cập đứng lên, giọng đầy nước mắt :
- Thưa thầy… chính … chính con ạ… Các anh ấy chòng con, đánh
con… Con chót lỡ tay…
Thầy giáo nhìn cánh tay đau của anh khẽ thở dài:
- Thôi con ngồi xuống. Còn những anh nào chòng ghẹo anh ấy
hãy mạnh dạn đứng lên nào!
Ba bốn anh rụt rè đứng dậy, mặt xám như gà cắt tiết, chẳng
dám ngửng lên.
- Các anh xúm nhau vào bắt nạt một người cô thế, không trêu
ghẹo gì các anh. Các anh chế riễu một người bạn tàn tật, đánh đập người bạn yếu
đuối… như thế có phải loài người không? Đêm nằm vắt tay lên trán nghĩ lại xem
nào! Có xứng đáng là con dân nước Việt không? Thật là hèn nhát! Có học-trò như
các anh, ta lấy làm xấu hổ. Tổ-quốc có những đứa con như các anh, Tổ-quốc cũng
nhục lây… Hừ! hỏi còn trông cậy gì được nữa!
Nói rứt lời, thầy bước xuống bục, đi xuống cười lớp, anh Tôn
thấy thầy tiến về phía mình, sợ hãi, cúi đầu.
Thầy lại gần, lấy tay nâng cằm anh lên, nhìn thẳng vào mặt
anh mà bảo:
- Thầy vui lòng có những hoc-trò như con !
Anh Tôn lúc bấy giờ mới yên tâm, nghiêng đầu về phía thầy, lắp
bắp những gì không rõ. Lập tức, thầy quay về phía bốn kẻ tội-nhân, lên tiếng:
- Thôi ngồi xuống! Nể anh Tôn ta tha cho… Bận sau còn thế cứ
chết đòn.
Lúc ra về, bàn tán về anh Tôn, thì anh Sinh thủng thẳng nói:
- Có như vậy mới xứng đáng với tấm lòng cao thượng của thầy.
8. Kiêu Ngạo
Ngày 1 tháng 10
Kiêu ngạo nhất lớp tôi là anh Bảo, vừa mới ở trường Lê-Lợi đổi
sang. Anh con nhà lịch-sự giàu có. Nghe đâu cha anh la một y-sĩ nổi tiếng về đức-hạnh.
Bởi giàu có, lại được cha mẹ nuông chiều, nên đi học mà anh ăn mặc sang lắm: giầy
da, đồng hồ vàng, quần áo bảnh bao. Đầu tóc chải bóng mượt, bắt chước người lớn.
Cũng do đó mà anh tự-kiêu, tự-đắc, tưởng trên đời chỉ có mình
anh. Anh Côn đi qua, chạm vào người anh một chút, mà anh vội lấy mùi-xoa ra phủi,
như sợ lây vi-trùng độc. Có lẽ đó là do tính người, vì anh Lưu cũng con nhà
sang trọng mà có khinh người thế đâu !
Như anh Bảo thì chẳng còn ai chịu nổi nữa! Anh chỉ muốn ngồi
một mình một ghế, sợ ngồi chung, người ta rây bẩn vào người.
Lúc đi thì anh ưỡn ngực ra, vênh mặt lên, chẳng thèm nhìn ai.
Ai anh cũng gọi là thằng; nói với ai cũng mày tao chi tớ, coi người bằng nửa
con mắt. Hơi một tí là anh bỉ người ta, hoặc mang bố ra dọa.
Trong lớp anh chẳng thân với ai; chẳng ai thân với anh thì
đúng hơn. Lúc anh đến cũng như lúc anh về, cứ cũi lũi mà đi, tưởng như mình có
xe hơi thì ai cũng nể, ai cũng sợ !
Thực ra chẳng ai muốn hỏi anh. Cả đến khi anh không thuộc bài
cũng vậy, không ai nhắc, mà có quên sách cũng chẳng ai cho mượn.
Thế mà anh còn ra bộ khinh-bỉ mọi người, khinh anh Sinh vì
anh học giỏi nhất lớp, khinh anh Tôn, vì anh được chúng bạn mến yêu, nghĩa là
anh ghen với họ vì thấy họ hơn mình. Chỉ có thế!
Còn anh Sinh tuy vậy mà khá. Khi có người nói đến tai rằng
anh Bảo nói xấu anh, thì anh điềm nhiên gạt đi:
- Không, tôi biết! Anh ấy nói đùa đấy mà !
Sáng hôm nay lúc anh Ninh xếp hàng ra chơi, lúng túng thế nào
dẫm ngay phải chân anh bảo, anh cũng vào thưa thầy. Anh Ninh cứ tình thực trình
với thầy rằng chót lỡ phải.
Thầy bèn bảo anh:
- Con đến là hay nhiễu sự ! Bạn bè chơi với nhau phải tha thứ
cho nhau mới phải chứ !
Bảo xấu hổ, lúc xuống sân bám ngay lấy tôi cho đỡ ngượng. Nể
anh, tôi miễn cưỡng đi theo. Loanh quanh một lát, anh kéo tôi ra ghế, lúc ấy đã
có anh Lãm đang chăm chú ngồi xem quyển chuyện Lỗ-bình-Sơn. Thì ra anh rủ tôi
ra đấy để khoe đôi giày mới đóng.
Giơ một chân lên, anh nói :
- Trông «tớ» đi đôi giầy kiểu «uy-ních» này có được không ?
Anh cố ý để cho anh Lãm ngồi bên nom thấy. Nhưng Lãm còn mải
đọc, chẳng để ý. Bảo lại sắn tay áo rõ cao, để lộ chiếc đồng-hồ vàng lẩm bẩm:
- Sáng nay giá không có cái đồng hồ vàng này thì tớ đi chậm mất
năm phút… Đồng hồ «chiến» thế này mà hôm nọ chú mèo suýt làm vỡ của mình, có
«oán» không chứ !
Bảo vừa nói vừa nhìn sang bên cạnh, nhưng vô ích, anh Lãm vẫn
ngồi điềm nhiên đọc sách, chẳng thèm liếc mắt. Lần này thì xem Bảo ta bực mình
lắm rồi! Anh rút kính râm ra, soi lên phía mặt trời. Tôi hỏi:
- Kính anh «mác» gì thế ?
- Trông kính này mà cậu không biết mác «zét» à ? Cậu xoàng
quá ! Có dấu hiệu ở mắt kính này!
Tôi nhìn theo tay anh trỏ, nhưng chẳng trông thấy gì cả. Được
dịp ấy, anh quay ngay sang bên cạnh, dí cái kính vào tận mũi anh Lãm:
- Này nhìn hộ xem này ! Có phải có chữ Z.O. ở đây không ?
Anh Lãm giật mình, sửng sốt, bỏ sách xuống. Giữa lúc ấy có tiếng
chuông vào học. Mọi người bỏ cả cuộc chơi, tất cả chạy đến cửa lớp xếp hàng.
Anh Bảo tức quá, tưởng phát điên lên được, vừa đi vừa lầu nhầu
trong miệng :
- Hừ ! Cái đồ nhà quê ấy thì còn biết cái gì nữa !
Vào học được một lát, thầy giáo đưa ra một tờ giấy để học-sinh
chúng tôi lần lượt kê khai tên tuổi, cùng nghề nghiệp, địa chỉ bố mẹ.
Người này, rồi người khác, tờ giấy được chuyển đến tay Bảo,
ngồi cuối bàn ba. Anh trề môi ra nhiếc đọc nghề nghiệp của cha mẹ các bạn. Có lẽ
anh thấy toàn những thợ thuyền, buôn bán mà anh khinh chăng ?
Rồi anh trịnh trọng rút bút máy ra, nắn nót viết:
Bùi Hữu Hữu, Y-Sĩ….
Viết xong anh đắc chí xoa tay đọc lại, ra dáng thú vị lắm, rồi
chẳng thèm đưa, quăng mạnh xuống bàn dưới cho anh Lãm.
Lúc anh Lãm đang viết, anh khẽ quay lại, ý chừng chờ xem anh
Lãm thấy nghề nghiệp của cha anh mà giật mình chăng ?
Nhưng chính anh đỏ mặt giật mình, vì anh vừa thấy Lãm đặt bút
xuống bàn, dòng chữ hãy còn rành rành, chưa ráo mực: Đào-Thế-Thế - Giám Đốc
Nha Y Tế
Anh toát mồ hôi, ngồi đờ ra, cắm mặt xuống bàn.
Đợi hoc-sinh khai xong, thầy thu lấy bản danh sách rồi bắt đầu
cho thi vẽ.
Các bạn đã bắt đầu vẽ mà tôi vẫn thấy anh loay hoay mở cặp, lục
hết ngăn nọ đến ngăn kia, rồi hết thục tay vào trong ô kéo, lại thò tay vào túi
áo: thì ra qnh quên mất bút.
Mọi người đã vẽ xong gần nửa, chẳng ai để ý đến anh. Anh cứ
ngồi ngay ra. Anh biết có hỏi mượn cũng chẳng ai cho, vả lại anh đã chót
tuyên-bố không thèm nhờ ai. Thế mới chết !
Anh phát khóc đến nơi !
Mặt anh lúc tái, lúc tía, mồ hôi rỏ giọt.
Ngồi bàn dưới, anh Lãm vẫn nghiêng đầu cặm cụi nắn nót từng
nét. Bất chợt anh ngẩng đầu nhìn lên. Lập tức anh cúi xuống ngăn bàn, mở hộp
bút ra, rồi nhổm người, với tay lên bàn trên:
- Bảo ơi! Bút đây! Vẽ nhanh lên!
Giờ tan hoc, anh Ninh xếp hàng qua mặt anh, lúng túng đánh
rơi quyển vở xuống dất. Anh Ninh chưa kịp cúi xuống thì đã thấy anh Bảo nhặt
lên, bỏ vào cặp cho anh. Chúng tôi nhìn nhau, ngạc nhiên hết sức.
Lúc đi đường, anh Sinh bảo chúng tôi :
- Đấy, các anh cứ thường chê anh Bảo là xấu! Theo tôi, không
phải ai cũng hoàn toàn xấu mãi, phải không các anh ?
Nói xong anh cù tôi một cái, mà nói:
- Đã phục Sinh chưa ?
Rối anh nhoẻn miệng cười, rẽ sang phố khác…
9. Cô Giáo Cũ
Ngày 5 tháng 10
Như lời hứa, cô giáo cũ lớp Năm hôm nay đến chơi. Dễ đến một
năm cô không lại chơi, nên vừa gặp, ai cũng tay bắt mặt mừng.
Cô vẫn thế, không khác chút nào, vẫn cái dáng người thon mảnh
ẩn trong bộ áo giản dị, xẫm mầu. Mái tóc cô bắt đầu đốm trắng từ năm ngoái. Nước
da xanh thêm một chút, còn bệnh ho quái ác vẫn deo dẳng chưa thôi.
Thấy cô ho luôn, mẹ tôi ái ngại, nắm tay cô:
- Cô mệt đấy ! Cô phải chịu khó tẩm bổ, thuốc men vào chứ !
Cô mỉm nụ cười buồn :
- Được đến đâu hay đến đó mà !
- Cô thì lúc nào cũng nói thế được. Nghề dạy học vất vả lắm
cô ạ. Đối với hoc-trò, cô đã hy-sinh nhiều quá rồi, đến lúc cô phải nghĩ đến sức
khỏe của cô mới được…
Mẹ tôi nói đúng. Cô giáo chịu khó thật, ai cũng phải công nhận.
Đi ngoài đường đã nghe thấy tiếng cô vang trong lớp. Nhưng lũ trò nào có biết
thương cô ! Chúng lơ đễnh nhiều quá, khiến cô cứ phải nói luôn mồm, đi luôn
chân, chẳng lúc nào được nghỉ.
Cô hứa đến chơi, mà quả nhiên thật, vì cô không quên học-trò
cũ bao giờ. Cô nhớ tên từng đứa một, có đứa nhớ cả ngày sinh, tháng đẻ.
Như một người mẹ hiền, cô chăm nom săn sóc học-trò chẳng khác
con đẻ, vui khi chúng cười, buồn khi chúng khóc. Tôi chưa thấy một người nào dịu
dàng, tận-tụy hơn cô, cho nên thôi học đã mấy năm rồi, mà rồi còn nhớ mãi. Cả
những anh học-trò cũ đã lớn, tuy học lên trường trung-học mà thỉnh thoảng vẫn
còn ghé thăm cô với một lòng biết ơn tha thiết.
Hôm ấy, nhân ngày thứ năm, cô đưa hoc-trò đi thăm sở-thú. Đó
là lệ thường của cô: cứ ngày đó, dù bận, cô cũng đưa chúng đi chơi, chỗ này chỗ
nọ, để cho chúng có dịp trông thấy tận mắt những điều bổ ích.
Cuộc đi chơi bữa nay không xa, nhưng lúc trở về cô cũng hơi
thấy mệt trong người, nhưng không quên tạt đến thăm mẹ tôi như lời đã hứa. Khốn
nạn, trông cô gầy yếu mà tôi thương quá ! Thế mà, động nói đến việc trường, việc
học, là mắt cô sáng lên, miệng nói thao thao không biết mỏi.
Ngồi chơi một lát, cô ngỏ ý muốn xem lại tấm hình mà cách đây
hai năm, khi tôi bị ốm, cô đến thăm rồi chụp cho. Tôi cũng nhân dịp ấy đem ra mấy
tập sách cũ để cùng cô ôn lại những kỷ-niệm đã qua.
Rồi cô đứng dậy ra về, vì còn vội đến thăm một học-sinh nghỉ
đã lâu vì bệnh đậu mùa. Vả lại cô cũng còn lắm việc nhà: chồng sách phải chấm,
áo len cho cháu đan dở chưa xong, rồi lại còn giờ dạy tối tại một nhà tư nữa.
Cô xoa đầu tôi:
- Dũng còn nhớ cô giáo nữa không ? Giờ Dũng nhớn rồi, không
khiến cô cầm tay tập viết nữa nhỉ!
Xuống đến chân thang, cô quay lại nắm tay tôi :
- Đừng quên cô, Dũng nhé!
Nhìn cô đi khuất, lòng tôi se lại. Cô ơi! Cô nói chi điều ấy
cho tủi lòng con! Dù xa, dù gần có bao giờ con quên được cô! Rồi đây khi con
khôn lớn, có lưu lạc phương nào, con cũng sẽ trở về nơi cũ thăm cô, người đầu
tiên đã khai sáng khối óc còn tăm tối của con, người đã suốt một năm trời dòng
dã, dạy bảo, khuyên răn, tập cho con đọc, tô cho con viết, uốn nắn con, khác
nào chăm bón một cây non hoang dại.
Con quên làm sao được những nỗi khó nhọc vì con, những phút tận
tụy của cô bên chúng con, để mong dạy dỗ cho chúng con nên người khá giả.
Cô quả là người mẹ hiền, đã sống cho chúng con, sống vì chúng
con.
Không! Con sẽ nhớ cô cho đến phút cuối cùng và công ơn ấy con
xin ghi lòng khắc dạ.
10. Một Ván Bi
Ngày 14 tháng 10
Giờ chơi buổi sáng hôm qua, sân trường bày ra quang cảnh náo
nhiệt, vui vẻ: các anh bé đánh vòng, đánh bi, chơi quay, chơi đáo, các anh lớn
người thì dựa cột xem sách, người túm năm, tụm ba bàn chuyện thi cử học hành.
Trên hè cao, các thầy thủng thỉnh đi đi lại lại, trông ra sân, âu yếm nhìn đàn
con thơ dại nô đùa.
Đang lúc chạy ngẩy vui vẻ bỗng sau trường có tiếng huyên náo,
người xúm lại vòng trong, vòng ngoài. Một vài bọn hiếu kỳ vội bỏ cuộc chơi chạy
lại xem. Thì ra anh Phi, anh bạn có óc con buôn, và anh Vân, chả biết đánh bi
được thua ra sao, đâm ra cãi lộn.
Lúc tôi len vào đến nơi, thấy hai anh quần áo sốc sếch, mồ
hôi nhễ nhại, đỏ mặt tía tai. Anh Phi gân cổ lên:
- Thế mà cũng đòi chơi ! Bận sau thì đừng hòng…
Anh Vẫn không chịu kém:
- Ai ăn gian? ai ăn gian? đây không them…
Người đứng xung quanh, người bảo Phi phải, người cho Vân được.
Anh Pha xấu bụng lại cố hẩy thêm vào cho hai anh cãi nhau, đánh nhau cho mà
xem.
Anh Phi giơ hai tay như phân bua:
- Phải! không thèm! Đấy, anh em xem hộ… rõ cái đồ…
Anh Vân mặt đỏ gay như con gà chọi, hung hổ xấn vào:
- Đồ gì? Đồ gì? Có giỏi ra đây!
Mọi người sợ sảy ra sô sát, vội vã can hai anh ra, trong khi
những anh bé reo ầm lên như vỡ chợ.
Thầy giáo nghe tiếng huyên báo, vội chạy ra. Thấy thầy đến,
không ai bảo ai, mọi người xem lảng đi hết, còn trơ lại hai anh, phùng mang trợn
mắt nhìn nhau, như chưa hả cơn tức giận.
Trước vẻ nghiêm khắc của thầy, hai anh sợ hãi, rối rít thưa
thưa, bẩm bẩm. Thầy không nghe ai cả, bắt cả hai anh đứng quay mặt vào tường. Học-sinh
các lớp lại được dịp «ê, ê» ầm ỹ, cho đến lúc thầy phải quay lại, quắc mắt lên
họ mới chịu thôi.
Anh Vân và Phi lúc ấy trông thật thảm hại! Mặt anh nào anh nấy
xám ngoét vì sợ hãi, vì hổ thẹn, cứ cúi gằm xuống như hai kẻ tội nhân.
Anh Tôn gọi tôi ra một chỗ, chép miệng mà bảo rằng:
- Rõ thật là xấu hổ ! Hai anh bây giờ có hối hận thì cũng đã
muộn rồi… Anh em bạn học, cùng thầy, cùng trường phải nhường nhịn thương yêu
nhau như anh em một nhà mới phải chứ, «gà cùng một mẹ đá nhau làm gì»
Tôi còn đang suy nghĩ về câu anh nói, thì chuông vào học đã bắt
đầu.
11. Thư Xin Lỗi
Ngày 15 tháng 10
Vừa ở trường ra được mấy bước, thấy anh Phi lật đật chạy theo
tôi, vừa thở, vừa nói:
- Dũng ạ, nhờ Dũng tí nhé!... nhờ Dũng đưa hộ cái thư này cho
Vân nhé !... Đây là cái thư tôi xin lỗi… nhưng tôi ngượng không dám đưa… Dũng
xem hộ viết thế này có được không ? Hộ tí nhé !
Tôi mỉm cười bảo anh:
- Ai bảo cãi nhau cho lắm vào rồi lại viết thư cho tốn giấy mực
!
Anh cười gượng:
- Thế mới là «thân nhau lắm, cắn nhau đau» chứ!
Tôi cầm lấy thư. Anh đi rồi tôi còn trêu anh.
- Này! Mai đãi tớ cái kem đấy nhé!
Anh gật đầu, rẽ sang phố khác. Tôi vừa đi vừa xem thư anh :
«VÂN»
«Sáng nay, chắc Vân giận tôi lắm đấy nhỉ? Riêng tôi về nhà
nhìn lại chiếc áo nhầu nát, đứt khuy, tôi lại hối rằng đã quá nóng.»
«Vân thế nào không biết, chứ từ lúc ở trường ra, tôi băn
khoăn nghĩ ngợi mãi về chuyện ấy. Từ xưa tới nay có cuộc đi chơi nào chúng ta
không chơi cùng nhau? Mà có bao giờ xẩy ra giận dỗi, bất hòa đâu. Học cùng học,
chơi cùng chơi, khác nào anh em ruột thịt? Vậy mà sáng nay chỉ vì một chút cỏn
con, một ván bi không rõ được thua, mà chúng ta cãi cọ nhau, suýt sô sát nhau
là đằng khác».
«Tôi nghĩ lại mà hối quá Vân ạ! Lúc đó chắc trông chúng ta khả
ố lắm đấy nhỉ ! Đứa nào đứa ấy trợn mắt, phùng má, giơ tay, giơ chân, giằng giằng,
co co, chẳng khác gì hai kẻ say rượu, điên cuồng. Rồi mày tao chi tớ, văng tục,
văng bẩn, không còn ra thể thống gì nữa. Ấy cũng chỉ vì tại chúng ta nhiều tự
ái, chẳng chịu nhường nhau»
«Tự ái như thế thật là không đúng chỗ, có phải không Vân? Học
hành hơn kém, ganh nhau cho bằng anh bằng em, đó mới là tự ái chứ! Tự ái vì mấy
hòn bi, thật là quá đáng!»
«Nhớ lại những lúc chúng ta thân thiết với nhau mà tôi tự
khinh tôi, tự trách tôi. Vẫn biết rằng câu chuyện này đã rồi, còn làm sao mà gỡ
lại được nữa! Nhưng tôi thiết tưởng lòng hối hận có thể chuộc được lỗi xưa một
phần, Vân nhỉ!»
«Tôi mong Vân nghĩ đến tình bạn của chúng ta, quên lỗi vừa
qua để chúng ta nối lại sợi dây thân ái, và thư này, khi đến tay Vân, thì Vân
đã quên hết rồi»
«Đó cũng là bài học hay cho chúng ta, để từ đây chúng ta sẽ
thân nhau hơn, quý nhau hơn. Có thể thầy giáo, cha mẹ chúng ta biết chuyện mới
được hả lòng, và sau này ra đời, chúng ta không đến nỗi trông thấy nhau mà phải
quay đi»
«Vân ơi! Anh tha lỗi cho Phi nhé! Vân đừng giận Phi nữa nhé!
Đừng giận người bạn đã tự biết mình trái và đang bị hối hận dày vò. Mong rằng
tình bè bạn thiêng liêng của chúng ta rồi đây sẽ bền chặt mãi mãi, chẳng bao giờ
phai lạt»
«Phi chờ Vân sáng mai đến rủ đi học như mọi khi, nhớ nhé, Vân
nhé! Chúc Vân vui luôn»
«Bạn Vân chờ Vân hết giận»
«PHI»
12. Cảnh Nghèo
Ngày 19 tháng 10
Mới có từ đầu tháng mà anh Sỹ để đến 10 lần bị ăn «trứng thối».
Mà tôi cũng chẳng thấy ai to gan như anh! Bữa trước thầy đã dặn đi dặn lại, hôm
nay phải trình bản đồ “Việt Nam sông ngòi” để thầy chấm.
Cả lớp ai cũng có. Riêng mình anh không. Chẳng những bản đồ
anh không có, mà bài anh cũng chẳng thuộc được quá hai câu. Anh “ư, a ư ơ” được
mấy tiếng, rồi đứng đực ra như tượng gỗ mặt đỏ bừng lên như gấc chín, nước mắt ứa
ra dòng dòng.
Thầy đập bàn:
- Anh không biết xấu hổ, còn khóc hay sao? Dễ một tháng nay, ta
để ý xem ra anh chán nản sự học, không bài nào anh học, không bài nào anh làm.
Ta hết lời khuyên bảo, anh chẳng thèm nghe, anh khinh nhờn ta quá lắm!...
Anh Sỹ cứ gằm mặt xuống mà thút thít.
Thầy đang cơn giận, hầm hầm nói tiếp:
- Không biết xấu! Không biết nhục! Đi học mà không chịu học
thì còn cắp sách đến trường làm gì cho tốn cơm cha mẹ!
Đến đây, anh Sỹ bật khóc thành tiếng, phải đưa vạt áo lên miệng
cắn, mà vẫn cứ nức nở không thôi. Còn thầy thì thở hổn hển, rút mùi-xoa trong
túi ra lau mồ hôi lấm tấm trên trán, rồi gập mạnh sách vào, dằn từng tiếng:
- Hừ! lười biếng!... hư thân!... học không học!... làm không
làm!... Ngữ ấy rồi sau ăn cậy, sống nhờ, chứ còn trông mong gì được nữa! Thế mà
ta cứ ngỡ anh khá…
Chúng tôi lấm lét nhìn nhau, ngồi im chẳng ai dám động đậy. Một
lát sau, thầy quay lại nhìn anh, khẽ lắc đầu, giọng chán chường, mệt nhọc:
- Ta hết lòng răn dạy anh, nhưng xem ra anh không cần học, ta
không biết làm thế nào bây giờ?... Ta làm nghề dạy học chỉ mong có cái vui thấy
các anh chăm chỉ, vậy mà…
Anh Sỹ sụt sịt nói:
- Xin… thầy… thầy tha cho con… lần nầy…
- Ta đã tha cho anh nhiều lần. Rồi ngày mai, rồi ngày kia,
anh vẫn chứng nào tật ấy, làm gương xấu cho anh em, làm khổ tâm cho ta, làm nhục
lây cho trường, cho lớp. Sỹ ơi! Nếu con không thương ta thì con cũng thương
cha, thương mẹ con mà sửa đổi đi mới phải… Người ta mỗi ngày một khá, một hay,
còn con, mỗi ngày một hư, một đốn. Mà trước kia con có thế đâu!
Anh Sỹ, nhích lại gần bàn thầy, nghẹn ngào nói qua nước mắt:
- Bận sau… con…con xin chừa…
Thầy lại chợt nổi nóng lên:
- Đã nhiều lần anh nói với ta câu ấy, khiến ta quen tai quá rồi,
nghe mà thêm bực. Thôi! Anh về chỗ, kẻo anh đứng đấy ta trông thấy mà đau lòng
xót ruột…
Anh Sỹ lập cập cầm lấy sách, nước mắt, nước mũi chan hòa, lủi
thủi về chỗ. Thầy nhìn theo chép miệng thở dài.
- Chẳng may có học-trò thế ấy, ta cũng đành mang cái tiếng với
đời.
Chúng tôi ai cũng nửa thương, nửa giận. Thương vì nỗi thấy
anh hiền lành, giận vì nỗi anh không chịu học, lời thầy khuyên, anh dường như bỏ
ngoài tai. Từ ít lâu nay, anh bỗng đổi tính, đổi nết. Trước kia anh chăm chỉ
bao nhiêu, thì bây giờ lười bấy nhiêu. Đến nỗi, cứ thấy gọi đến tên anh là
chúng tôi đã bấm nhau, chờ xem anh ăn «trứng thối».
Mới đầu còn thấy hay hay, nhưng rồi sau thấy anh vẫn chứng nào
tật ấy, chúng tôi đâm ra có ác cảm, bảo nhau tẩy chay anh là dằng khác.
Chẳng mấy chốc giờ học đã hết. Chúng tôi thu gọn sách vở, ra
xếp hàng ngoài hiên. Anh Sỹ một mình đứng ở đàng cuối, vì chẳng ai chịu đứng với
anh. Mặt anh tái mét. Nước mắt chưa ráo, anh cứ cúi gầm xuống không dám ngẩng
lên. Tôi trông anh mà ái ngại.
Chờ cho mấy lớp dưới ra trước, thầy vẫy tay ra hiệu cho chúng
tôi đi, rồi bước vào văn-phòng ông Hiệu-Trưởng.
Vừa ra đến cổng trường, bỗng có tiếng đàn bà chu chéo đàng
sau:
- Thằng trời đánh thánh vật kia, về mà xem nồi cá! Mày bỏ mày
đi học để cá của tao cháy vụn thành than! Mày hại tao! Mày giết tao, mày có biết
không?
Chúng tôi ngảnh lại thấy một người đàn bà to lớn, bộ lông mày
chổi sể, đôi mắt sắc như dao, đang nhẩy chồm lên mà sỉa sói vào mặt anh Sỹ:
- Rồi tao về tao bảo mẹ mày! Tao có nhờ mày không đâu! Chẳng
qua mẹ mày nợ tao, cho mày sang làm trừ nợ. Tưởng mày đỡ đần tao, quét dọn, cơm
nước cho tao, ai ngờ mày thiết việc học của mày cơ! Mày thiết làm ông trạng cơ,
để đến nỗi tam tứ phen cơm sống, cá khê… Tao cần mày làm, chứ tao có cần mày học
đâu. Mặt mũi thế kia có đáng cắp sách đến trường không, hử? hử?...
Rồi bà ta cứ chồm lên, túm lấy ngực anh mà lôi như con nhái
bén. Khốn nạn thân anh! Anh cứ run lên cầm cập, mặt tái mét, chẳng còn hạt máu.
Anh rên rỉ:
- Bà tha cho cháu… Cháu chót lỡ… Cháu van bà…
Nhưng bà ta không hề cảm động, hai hàm răng nghiến chặt vào
nhau ken két, rít lên những tiếng ghê người:
- Tha gì? Lạy gì? Thôi ở nhà đóng vai đứa ở mà trừ nợ cho
xong, còn sĩ-diện cắp sách đi học làm gì, không biết nhục!
Rồi bà ta túm lấy tóc anh định tát. Nhưng một người sấn vào,
gỡ tay bà ra. Đó là thầy giáo. Cặp mắt sót sa thương cảm, thầy cúi xuống bảo
anh:
- Nín đi con! Yên chí chớ hãi… Từ ngày mai con lại có đủ thời-giờ
để học bài như chúng bạn…
Rồi thầy nghiêm khắc quay lại bảo bà kia:
- Còn bà bớt nóng, theo tôi về nhà, rồi công nợ thế nào, đâu
có đó, phân minh…
Bà ta cứ há hốc mồm ra, chẳng nói được câu nào. Rồi trước cái
vẻ nghiêm nghị của thầy giáo, bà ta cúi mặt xuống, lùi lũi theo…
Chúng tôi đã hiểu đầu đuôi, nhìn nhau cảm động. Anh Tôn, anh
Tý xúm vào, đưa anh Sỹ về nhà…
Lúc đi đường, mẹ tôi ngậm ngùi bảo:
- Con có trông thấy anh Sỹ đấy không? Nghèo mà thiết học. Còn
con, nhờ trời cái ăn, cái mặc sẵn sàng, chỉ có một việc học thôi, mà lắm lúc chẳng
chịu học cho, vẫn lấy sự học làm khổ. Dũng con ơi! Con theo gương anh Sỹ đấy mà
chịu thương, chịu khó, học hành cho ba mợ vui lòng…
Nghe mẹ nói, tôi cúi đầu ngẫm nghĩ, vừa thương bạn, vừa tự
nhũ thầm phải cố gắng hơn lên.
13. Làm Người Phải Học
Ngày 22 tháng 10
Ba tôi được mẹ tôi thuật lại câu chuyện hôm qua, nên sáng nay
thấy trong nhật-ký của tôi những dòng chữ sau đây:
Dũng ơi, «con lấy sự học làm khổ». Mẹ con nói vậy chẳng ngoa
chút nào. Thật thế, chẳng mấy khi Ba thấy con đi học với cái dáng điệu tung
tăng, nụ cười hớn hở.
Con thử tưởng tượng xem, nếu một ngày kia con ở nhà, trong
khi các bạn con đi học cả, thì cái ngày ấy vô vị đến thế nào! Nếu có vui thì
cũng chỉ được ngày đầu. Rồi chỉ một tuần sau, Ba chắc con lại đòi đi học ngay đấy.
Là vì, với tuổi con, chỉ có đi học là vui thôi…
Dũng ạ! Con hãy nhìn ra chung quanh mà xem! Trẻ nhỏ ngày nay
cắp sách đến trường, ông già bà cả buổi tối theo lớp Bình-dân. Thợ thuyền, những
ngày chủ-nhật, binh lính, những lúc nghỉ ngơi, ai nấy đều mang sách học thêm.
Cả đến những trẻ câm, trẻ mù, tàn tật thế ấy cũng không chịu
để thời giờ vô ích mà đều gia công, gắng sức học hành, cho đến biết đôc, biết
viết mới thôi. Nào có ai chịu dột nát đâu hà con?
Tiếc rằng con sinh sau, ít tuổi, không biết rằng thời ông bà
ta ngày xưa, các nhà nho đã treo gương hiếu học đến thế nào!
Có những trò nghèo, hàng ngày vào rừng kiếm củi đành treo
sách vào đầu đòn gánh, vừa đi, vừa học. Lại còn chuyện ông Đào duy Từ, ngồi học
trên mình trâu mà rồi sau cũng được nổi tiếng danh-sĩ một thời.
Vậy mà các cụ ta ngày xưa, đâu được diễm-phúc như các con bây
giờ, có trường sở rộng mát, có đường đi lối lại phong quang, có xe hơi, xe máy
đưa đón tận trường!
Các cụ xưa đi bộ năm, bẩy cây số mớ đến nhà thầy, mang theo
cơm nắm, muối rang. Sách thì đựng vào trong ống tre đeo lủng lẳng trước ngực,
làm gì có cặp da lợn, da bò. Ăn mặc thì thì quần nâu, áo vải, sang trọng lắm mới
được đôi dép da trâu, còn thì chỉ guốc mộc, đi đất quanh năm.
Ấy trong cái hoàn cảnh thiếu thốn như vậy mà các cụ vẫn chịu
khó học hành, óc chứa hàng trăm ngàn pho sách. Gần đến kỳ thi, có cụ buộc cả
tóc lên xà nhà để khỏi ngủ gật, có cụ bắt đom đóm đựng vào chai thủy tinh làm
đèn, vì nỗi không dầu.
Có biết bao nhiêu hàn sĩ, chỉ nhờ có học mà mà rồi sau nên
danh, nên phận, mười tám đôi mươi, đã tiến-sĩ, trạng-nguyên, để lại tiếng thơm
muôn đời: Chu văn An, ngàn năm treo gương tiết-liệt, Mạc đĩnh Chi sang Tàu làm
rạng rỡ nước non nhà… và biết bao nam nữ danh nhân tài tử, nhiều không kể xiết,
đã vì sự học tô điểm cho rừng văn hóa nước nhà, làm chói lòa sử cũ.
Xem như ông nội con, nào phải ai đâu xa! Nhà nghèo, suốt đời
đi học không được manh áo lành. Lên đến trung-học rồi mà vẫn hàng ngày kéo lê
đôi guốc gỗ, với cái áo vải thâm bạc vai. Về nhà lại phải cắp rá ra chợ mua rau
đậu về làm cơm. Sách thì chẳng có lấy một quyển, quanh năm đi mượn, đi chép; thế
mà người cũng chịu thương, chịu khó, nên đỗ ra rất sớm. Có được tấm bằng rồi,
người đành gạt nước mắt từ giã nhà trường, từ chối cả việc được cử đi du học để
còn ra đời kiếm kế sinh nhai. Có thế mới nuôi được cha đây và các chú con ăn học,
không đến nỗi phải thất học, lam lũ lầm than. So sánh với các con bây giờ thật
là một trời một vực, vậy mà con không biết sướng hay sao?
Dũng con ơi! đã làm người thì phải học. Mà không phải chỉ có
mình con. Buổi sáng, khi con bước chân ra, thì cũng trong giờ ấy, riêng một
thành phố này có đến hàng nghìn, vạn đứa trẻ như con, cắp sách đến trường.
Lại còn biết bao nhiêu trẻ khác, khắp mặt thế gian, trên đất
nước khác nhau, trong những bộ quần áo khác nhau và nói những thứ tiếng khác
nhau, cũng đều nô-nức kéo nhau đến lớp.
Con hãy tưởng tượng đến sự hoạt động vĩ đại của đám đông
hoc-sinh ấy, thuộc hàng ngàn dân tộc khác nhau, và con hãy tự bảo rằng :
- Nếu sự hoạt-động kia có một ngày chẳng may ngừng lại thì tất
cả nhân loại sẽ quay trở về vòng man dã, có khi bị tiêu diệt chẳng còn. Sự hoạt
động ấy chính là sự tiến bộ đã làm cho loài người đứng đầu muôn loại, thắng cả
thiên nhiên và đem lại ấm no, hạnh-phúc cho toàn dân.
Dũng ơi! Cố gắng lên con! Con cũng là một tên lính nhỏ trong
cái đạo quân khổng lồ kia đấy. Nhưng dù là lính nhỏ, con cũng đừng là lính hèn.
Có thế con mới là con của Ba, Có thế con mới xứng đáng là mầm
non đất Việt.
Ba của con chỉ mong con cố học.
14. Thằng Bé Đánh Giầy
Ngày 24 tháng 10
Sau khi chuyển giúp anh Phi cái thơ cho anh Vân, thấy hai anh
đã hòa với nhau, tôi cũng vui lây.
Để giữ lời hứa và để cám ơn tôi, lúc ra cổng trường hai anh
nhất định mua kem mời tôi. Ba chúng tôi vừa đi, vừa ăn, chuyện trò như pháo
ran. Anh Vân rủ tôi sang bên trường nữ học để đón cô em gái. Đến nơi thì thì vừa
gặp buổi học tan. Các cô gái nhỏ, cặp sách dưới tay, tóc xén ngang vai, áo màu
sặc sỡ, tung tăng đi như đàn bướm lượn.
Bỗng tôi nhìn sang bên kia đường thấy có một đứa trẻ gục đầu
vào tường, hai tay ôm lấy mặt mà khóc nức, khóc nở. Loắt choắt trong manh áo
cũ, vá chằng vá đụp, hai vai nó rung lên sau những tiếng nấc.
Hai ba cô nữ-sinh vừa đi tới, dừng chân lại hỏi. Nhưng nó chẳng
trả lời, chỉ cứ thút thít khóc hoài.
- Sao vậy em? Sao em khóc thế?
Hỏi đến ba bốn câu, nó mới ngẩng đầu lên, cặp mắt đỏ hoa còn
ngấn lệ. Thì ra em nhỏ đó, làm nghề đánh giầy, từ sáng được gần hai chục bạc,
vô ý đánh rơi mất cả. Khốn nạn thằng bé, ky cóp cả ngày được món tiền nhỏ, định
mang về cho mẹ, lại thành công cốc.
Phần tiếc của, phần lo mẹ rầy, nó sợ chẳng dám về nhà, cứ đứng
đấy mà tí tỉ khóc.
Giây lát, bọn nữ-sinh đi sau đã tới, xúm quanh lấy nó, cô nọ
nhìn cô kia. Bỗng một cô lớn tuổi nhất bọn, mặc áo dài xanh-thấy gọi tên là
Như-Lan móc túi lấy ra hai đồng nói:
- Các chị ạ, tôi có hai đồng đây! Chúng ta chung nhau vào vậy.
Giúp em làm phúc, tội nghiệp!...
Cả bọn hưởng ứng ngay. Cô nào cũng nắn túi, móc cặp, chả mấy
chốc đã được đống tiền kha khá.
Như-Lan đếm vừa được 15 đồng:
- Còn thiếu, các chị ạ! Ta cố gắng bớt tiêu đi thì có đủ…
Một cô nói :
- A! Các chị lớp Nhất ra kia rồi! Thế nào cũng đủ đấy…
Quả nhiên các cô lớn đến thì số tiền cũng tăng lên được ngót
ba chục. Như-Lan xếp tiền lại đưa cho nó. Nó đứng ngây ra như phỗng, chẳng dám
cầm. Cô bèn cúi xuống, mở nắp hộp của nó ra, xếp xuống dưới đáy. Mấy em bé cũng
cố len để vứt thêm vào hộ cho nó vài viên kẹo, mấy tấm ảnh “tác-dăng”. Em Huyền
tôi sờ túi còn dăm vòng cao-su, ném vào nốt.
Giữa lúc tíu tít ấy, có tiếng nói:
- Chị em ơi! Bà Đốc ra…
Thế là đám nữ-sinh, tản nát mỗi người một phía, như đàn chim
vỡ tổ. Còn lại một mình em nhỏ đánh giầy. Nó như người mê ngủ, đứng sững nhìn
theo bầy “tiên non” đang khuất đi các ngả.
Nước mắt nó lúc nãy đã khô, giờ lại trào ra đẫm má.
15. Chọn Bạn Mà Chơi
Ngày 28 tháng 10
Ngày lễ vừa qua, chúng tôi được nghỉ có hai ngày. Vậy mà
không được gặp anh bạn di-cư, tôi đã lấy làm sốt ruột. Càng biết anh bao nhiêu,
tôi càng mến anh bấy nhiêu, mà xem ra anh cũng không đến nỗi vô tình với tôi.
Không phải riêng tôi quý anh. Tất cả các bạn khác cũng vậy, đối
với anh đều có cảm tình nồng nhiệt. Trừ mấy anh đầu bò đầu bướu là không kể, vì
họ bị anh luôn luôn thẳng tay phê-bình.
Mỗi lần họ bắt nạt ai, đều thấy anh đứng ra can thiệp và cực-lực
phản đối, thành thử họ phải kiêng dè.
Thầy anh Tôn làm thợ máy ở sở Hỏa-xa. Hiệp-định Giơ-ne cắt
đôi nước Việt đã làm ông rỏ nhiều nước mắt. Và tuy chỉ là công-nhân vô-sản, ông
không nghe người ta, nhất định đem gia đình vào Nam, và ở đây, ông lại được tiếp
nhận vào làm sở cũ. Vì chiến tranh, sự học của anh luôn luôn gián đoạn, nên học
chậm. Bởi thế trong lớp tôi, anh là người nhiều tuổi hơn cả, quá tuổi là đằng
khác và cũng sức-lực hơn hết. Chả thế mà cái ghế lim dài nặng, anh chỉ một tay
nhấc bổng như chơi.
Tuy vậy anh lành như hòn đất, và tốt với tất cả mọi người. Ai
cần thứ gì, anh cũng giúp ngay: chép hộ bài, mua hộ sách,… Đồ dùng của anh, ai
mượn cũng được, không trả cũng thôi. Có lần tôi thấy anh sắp mua quà ăn sáng, lại
nhịn để đưa tiền cho một chú bé lớp Năm mua bút viết.
Trong giờ học, không bao giờ thấy anh nói chuyện hay đùa nghịch.
Trên cái ghế thấp quá đối với anh, anh ngồi thu hình như bụt mọc, cái lưng dài
khom xuống, đầu thụt vào tận vai. Đôi khi tôi quay lại, thế nào cũng bắt gặp
đôi mắt anh long lanh nhìn tọi như muốn nói:
- Anh em mình thân nhau, Dũng nhỉ!
Chưa ai dám chế nhạo anh bao giờ. Cứ trông cái thân hình lực
lưỡng với quả phật thủ khổng-lồ cùa anh là ai cũng phải kiêng dè. Anh lớn quá,
nên quần áo của anh cứ là căng nứt ra, cơ hồ không đủ sức che đậy những bắp thịt
rắn chắc bên trong. Đôi giầy «xăng-đá» của anh mới lớn làm sao chứ! Giá có đá
ai tưởng đến vỡ mông người ta ra mất !
Anh có một con dao con của người bạn tặng anh lúc di-cư. Anh
cất đi cẩn thận lắm. Thỉnh thoảng đem ra lau chùi ngắm nghía, coi như vật báu.
Có hôm mang gọt bút chì, lỡ cắt phải tay, máu ra lênh láng. Thế mà anh vẫn cứ
điềm nhiên như không, chẳng suýt soa nửa tiếng, e cha mẹ anh hoảng sợ.
Anh tha hồ cho các bạn nói đùa, chẳng bao giờ giận. Nhưng nếu
bảo anh «nói dối» thì không được, nhất là khi anh kể chuyện miền Bắc cho nghe.
Mắt anh quắc lên, nẩy ra lửa, tay anh đập xuống mặt ghế thình-thịch, như sắp đấm
vỡ đến nơi.
Về nhà, anh thường giúp cha mẹ anh những công việc: xách nước,
giặt dịa. Tuy làm việc khó nhọc như vậy, anh chẳng hề thán nửa lời, lại còn lấy
thế làm vui. Anh bảo:
- Chúng tôi di-cư, phải chịu khó mới được chứ! Không thể sống
bám, sống hèn được!
Thầy giáo thấy thế lại càng thương anh lắm. Mỗi lần đi qua,
thầy lại véo má anh. Còn tôi, ngày nào không gặp được anh, tôi thấy như thiếu
xót cái gì.
Người anh cục-mịch, giọng anh khàn-khàn, nhưng trong giọng
nói, dáng người của anh, người ta nhận thấy cả một tấm lòng quảng-đại, vị-tha.
16. Bài Học Lý Thú
Ngày 3 tháng 11
Tôi dám đánh cuộc rằng chả bao giờ anh Tôn mở miệng nói những
câu như anh Bích.
Anh Bích tự đắc là phải, vì anh vốn con nhà sang trọng. Cha
anh làm Chánh-án ở tòa Thượng-Thẩm, hàng ngày đưa anh đến trường bằng xe hơi
trước khi đến sở. Ông ăn vận lịch-sự, dáng dấp trang-nghiêm, khiến ai trông thấy
cũng phải kính nể.
Buổi sáng hôm qua, anh Bích không hiểu vì đâu, cà-khịa với
anh Bá, anh bạn bé nhất lớp-con một bà bán rau. Sau một hồi tranh luận, anh
Bích đuối lý, phát khùng, chỉ ngay vào mặt anh Bá mà bảo:
- Hừ, không thèm nói với cái đồ ăn-cắp, con thằng mõ!
Trước mặt mọi người, Bá xấu-hổ quá, mặt đỏ nhừ, không biết trả
lời sao, chỉ giàn giụa nước mắt, chạy ra chỗ khác. Buổi trưa về, anh đem chuyện
thuật lại với cha, rồi nhứt định đòi ở nhà, không đi học nữa.
Bởi vậy, buổi học chiều, cha anh phải nghỉ hàng, đưa anh lên
thưa thầy giáo. Vừa lúc ấy, ông Chánh-án theo lệ thường, dẫn con vào học, chợt
nghe nói đến mình, vội tiến vào cửa lớp.
Thầy giáo trông thấy, nói:
- Kìa may có ông. Cha của trò Bá đây vừa đến thưa tôi rằng
cháu Bích bảo nó là «đồ ăn cắp, con thằng mõ».
Ông Chánh-án ngượng quá, đỏ mặt lên. Ông nhíu cặp lông mày,
quay lại hỏi con:
- Con có nói anh Bá thế không?
Bích đứng giữa lớp, cúi mặt xuống, không trả lời một câu. Ông
Chánh-án bèn đẩy con đến trước mặt anh Bá, mà bảo:
- Xin lỗi anh Bá ngay!
Cha anh Bá thấy vậy, đứng lùi sang một bên, ấp úng nói:
- Bẩm… thưa Ngài… thôi ạ!... cháu, cháu nó không dám ạ…
Ông Chánh-án gạt phắt đi, trừng mắt bào con:
- Xin lỗi ngay đi ! Nói thế này «Tôi xin lỗi đã chót phạm đến
Thày anh, người mà Ba tôi muốn được hân hạnh làm quen».
Anh chàng Bích chẳng dám cãi lời, như cái máy, lắp bắp nhắc lại
từng câu cha bảo.
Đợi con nói xong, ông Chánh-án bấy giờ mới chìa tay ra, thân
mật bắt tay cha anh Bá mà bảo: «Cháu còn dại lắm, có lớn cũng chẳng có khôn,
Ông cũng đừng chấp».
Rồi quay lại nói với thầy giáo:
- Trăm sự nhờ ông rèn cập cho, chúng tôi cảm ơn ông nhiều lắm.
Nếu không có điều gì bất-tiện, xin ông cho hai trẻ được ngồi cạnh nhau.
Chờ thầy giáo xếp chỗ xong, ông Chánh-án lại xin lỗi một lần
nữa, rồi mới đi. Trong khi cha anh Bá còn tần ngần đứng lại âu yếm ngắm hai anh
bạn đã hết giận, đang ngồi sát bên nhau.
Chờ ông ta ra khỏi rồi, thầy giáo chậm rãi nói:
- Bài học lý thú này dành chung cho tất cả các con để các con
nhớ rằng: chúng ta đến đây học chữ, chứ không phải để phân biệt sang, hèn…
Rồi thầy quay sang anh Bích, dịu dàng bảo:
- Con hãy chơi bời thân mật với các bạn đi nào! Trường học
không phân biệt ai cả. Ở đây có con nhà lao-động, con nhà buôn, con nhà giàu,
con công chức… Tất cả cùng nhau đến đây học hành, coi nhau như anh em một nhà,
thân yêu nhau như ruột thịt, tay chân.
Tại sao con không yêu chúng bạn như chúng bạn yêu con? Anh em
chơi bời thế có vui vẻ không? Ra đời gặp nhau còn tay bắt mặt mừng, chào hỏi
nhau chứ! Con nghe ta nói có phải không?
Anh Bích cúi đầu sẽ nói:
- Thưa phải ạ!
Nhưng bỗng thấy anh tủm tỉm cười: thì ra anh Tư Húi vừa quay
xuống làm mắt lác trêu anh.
17. Cô Giáo Của Em Tôi
Ngày 7 tháng 11
Em tôi mệt, nghỉ học mới có 2 hôm, mà cô giáo em đã đến thăm.
Anh Bá trước cũng có học cô. Nhắc đến anh, cô vừa cười vừa
thuật lại chuyện bà mẹ anh có lần mang đặt lên bàn cả một rổ xà-lách đầy để biếu
cô, chỉ vì tháng ấy anh được lên bảng danh dự. Rồi vui chuyện, cô lại còn kể có
em mang đến tặng cô cả một cái lọ đựng cá vàng, mà cô còn nuôi được sống đến
nay…
Cô giáo kể chuyện có duyên, ai nghe cũng không chán. Em Huyền
tôi thấy nói cô giáo đến, ngồi nhỏm dậy uống ực một hơi hết cốc thuốc đầy. Chả
bù với mọi khi, cô ả còn ưỡn ẹo mãi, chẳng chịu uống cho.
Dậy lớp mẫu giáo như cô thật là vất vả! Một lũ lau nhau, động
một tí thì nhè mồm ra. Suốt buổi «ê, a» vài chữ rồi thưa với gửi suốt ngày, nào
đổ mực, nào quên bút, quên sách; chưa dỗ xong đứa nọ đã đến đứa kia, đứa đòi đi
giải, đứa đòi uống nước, thôi thì bận bịu chẳng khác gì con mọn.
Mỗi chị vú chỉ phải coi sóc có một đứa, chứ còn cô trông nom
cả một bầy hàng bốn năm chục trẻ, hò hét luôn mồm, dạy dỗ, uốn nắn thế nào cho
biết đọc, biết viết, cho ngoan-ngoãn, nết na.
Còn lũ trẻ! Ngoan cũng có, mà hư cũng nhiều. Cứ mở cặp chúng
ra khám là đủ thứ: sỏi, kẹo, bi, rồi cúc áo, nút chai, chẳng thiếu thức gì… Có
đứa vác cả ve sầu vào lớp để bất thình lình ve kêu ầm lên. Có đứa nghịch tinh
đút châu-chấu vào lọ mực để nó bay lên, vẩy mực vung cả lên tường, lên áo…
Thế đã xong tội đâu! Cô còn thay mẹ chúng làm đủ mọi việc: mặc
áo, cài khuy, lau mũi, trông cho chúng học, coi cho chúng chơi, nhìn cho chúng
lấy mũ, áo, kẻo lầm… chẳng còn thiếu việc gì không đến tay cô.
Vậy mà thỉnh thoảng còn có bà mẹ đến phàn nàn rằng con mất
bút, con dây mực, hoặc con học chậm. Thậm chí còn có bà đến trách rằng con bà học
khá thế mà không được lên bảng Danh-dự, hoặc không nhổ cái đanh ở góc bàn đi,
làm con bà thủng cả đũng quần.
Một đôi khi, không thể nhẫn-nại được nữa, cô có rầy la lũ trẻ,
để rồi nhìn chúng khóc mà hối hận. Có đứa cô dọa mách ông Đốc đuổi ra khỏi trường,
nhưng thấy nó sụt sịt, cô lại phải mất công vỗ về cho nín. Đôi khi cô còn trách
cả những bậc phụ-huynh nghiêm khắc, thường khi bắt chúng nhịn cơm.
Ngắm cô giáo xinh tươi, đôi mắt dịu hiền, miệng như hoa nở, mẹ
tôi bảo:
- Học-trò mến cô là phải…
Cô lơ đãng nhìn ra xa, chép miệng ngậm ngùi:
- Ấy thế mà có đứa lên đến lớp trên là quên cô giáo, gặp chẳng
thèm ngả mũ nữa. Các em đó học lên cao tưởng chào cô giáo lớp dưới là xấu hổ.
Riêng tôi, tôi cũng chẳng để ý; chỉ biết rằng gần chúng suốt một năm trời, chăm
nom, dạy dỗ chúng, đến khi chúng lên lớp khác, không được trông thấy chúng hàng
ngày, tưởng buồn đến héo ruột, héo gan. Có một vài đứa, tôi nghĩ thầm: «Ừ! Thằng
bé này coi bộ nhớ đến ta mãi đây!» Nhưng năm sau, học lớp khác rồi, nó trông thấy
tôi như gặp người lạ.
Nói rồi cô quay sang em tôi, hôn chụt vào má, mà bảo:
- Huyền của cô không thế nhỉ! Huyền nhớ cô giáo mãi phải
không ?
18. Lòng Cha
Ngày 11 tháng 11
«Dũng ơi! Sao con lại mặt sưng mày sỉa với cha như hôm qua thế
nhỉ?
Sở dĩ Ba cấm con xem tiểu-thuyết nhảm vì nó rất hại cho trí
óc còn non nớt của con, chẳng khác gì một liều thuốc độc.
Con có biết rằng mẹ thấy con cau có khi bị Ba mắng mỏ, mà mẹ
chết trong lòng không? Con hãy nghĩ đến một ngày kia, lúc cha con hấp hối trên
giường bệnh, gọi con vào mà bảo:
- Dũng ở lại, Ba đi đây !
Hỡi ơi! Lời vĩnh-biệt cuối cùng của người cha sắp lìa bỏ cõi
đời, con có can-đảm bình tĩnh nghe không, hay sẽ làm con tan nát cõi lòng mà bật
ra tiếng khóc?
Thế rồi, suốt đời con, cho đến khi con nhắm mắt, lời nói ấy sẽ
theo rõi con hoài, ám ảnh con mãi mãi, làm cho con khổ sở, tự mắng mình đã có
lúc bạc bẽo với cha.
Con chỉ biết cha con nghiêm khắc, đôi khi mắng phạt con, rồi
tủi thân, con khóc ; nhưng con không biết rằng, những lúc thấy con đau khóc, Ba
con phải ngảnh mặt đi mà gạt thầm giọt lệ.
Con ơi! Hãy nhớ lại những năm sống vất vưởng ở ngoài hậu
phương, một mình cha vất vả lo sinh kế cho cả gia-đình để mẹ con ta được no ấm.
Chắc con chưa quên những lúc trước làn súng giặc, cõng con trên lưng, Ba con lội
bùn, vượt ruộng, đi hàng chục cây số. Như thế vì ai! Có phải vì con không? Nếu
không có cha con thì mẹ con ta sẽ phải khốn đốn thế nào rồi?
Con đâu có biết những lúc Ba ốm đau sầu não, mà trông thấy
con vẫm phải gắng gượng làm vui! Mà nếu Ba có lo, có sợ, ấy cũng chỉ vì nghĩ rằng,
nếu chẳng may chết đi, thì để lại các con côi cút, bơ vơ, không nơi nương tựa.
Đã biết bao lần, ý tưởng đen tối ấy quay lộn trong đầu, kiến
Ba con có những đêm thức giấc mà thở ngắn, thở dài. Mẹ còn nhớ, có một đêm nằm
trong bệnh viện Bạch-Mai, cha mơ thấy con đau nặng, thế là Ba tung chăn ngồi
lên khóc nấc. Ấy chỉ mới tưởng tượng thấy con ốm mệt, mà cha con đã kinh sợ thế
rồi, đủ biết cha thương con đến thế nào !
Những lúc phiền lòng, những cơn đau đớn hay những khi thất vọng
trong công việc hàng ngày, cha con có các con để làm nguồn an-ủi, và nếu các
con hư hỏng, ấy là làm cho cha con chán đời, không thiết sống.
Đây là những lời Ba viết cho các con, để đề tựa một cuốn sách
mà Mẹ muốn chép ra đây cho con suy nghĩ :
Các con,
Nhà ta, đã bao đời nay sống một cuộc đời thanh bạch. Nên đến
cha cũng không còn có gì để lại cho các con.
Mà những người đau ốm như cha thì chẳng hy-vọng sống được
trên đời mấy nỗi. Như vậy các con sẽ phải bơ-vơ, không người dìu dắt. Vậy cha
phải để lại cho các con cái gì đây ?
Không phải là nhà văn, cha chỉ có thể mượn sách nước ngoài,
viết quyển sách này cho chị em con đọc. Cuốn sách này để lại, thì dù không còn
cha nữa, các con vẫn hưởng được lời cha muốn nói.
Trong lúc viết, luôn luôn cha nghĩ đến các con, nên văn dù
không hay, mà thực đã viết ra với cả một tấm lòng.
Nếu sau này lớn lên, chị em con hiểu được ý nguyện của cha
qua những dòng chữ viết trong đây, biết thương Mẹ, yêu nhau, biết giữ gìn danh
dự của nhà vả trở nên những người hữu-ích, ấy là thỏa lòng cha mong ước.
Cầu cho các con nhiều nghị-lực để chóng thành công !
Ba của các con
Ấy đó, con đã hiểu lòng Ba chưa? Con ngoan ngoãn bao nhiêu
thì liều thuốc bổ cho cha công hiệu bấy nhiêu, để cho Ba con đủ sức chống lại với
những nỗi thất-vọng, ưu-phiền.
Con ơi! Hãy thương cha, đừng làm cho cha con phải âu-sầu phiền
tủi. Cha con đã chẳng đau ốm lắm rồi sao? Nếu con chẳng nghe lời cha khuyên, mẹ
dậy, cứ đọc sách nhảm nhí, cứ bướng-bỉnh hư lười, ấy là con sẽ giết cha.
Nếu mất cha, thì gia đình ta sẽ tan nát, mẹ cay đắng, lầm
than, các con cũng phải bơ-vơ thiếu thốn. Nếu mất cha rồi, các con mới biết
thương cha, thì ôi thôi! Muộn quá mất rồi, biết đời thủa nào con quên cho được
?
Dũng ơi, hãy vào tìm Ba con đi, ôm lấy cổ cha con mà xin Người
tha thứ, để chuộc tội lấy một phần trong muôn một.
19. Gương Hiếu Học
Ngày 26 tháng 11
Cha tôi đã nguôi giận, tha thứ cho tôi cũng như bao lần khác.
Nhưng thấy tôi vẫn còn đứng ngồi áy náy không vui, mẹ rôi cho phép tôi đến chơi
nhà bạn.
Tôi còn thẫn thờ ngoài phố, chưa biết đi đâu, bỗng nhiên có
tiếng gọi. Tôi ngảnh lại. Anh Tý vẫn cái mũ nồi cũ chụp trên đầu, giơ tay vẫy
tôi mà cười. Mồ hôi, mồ kê nhễ nhại, anh ta đang lễ mễ vác những bó củi từ trên
xe bò xuống, để xếp thành đống ở góc nhà.
Gặp anh, tôi hoan hỷ tiến lại:
- Tý đấy à! Làm việc thú nhỉ !
Anh nhoẻn miệng cười, giơ tay đỡ bó củi của người đánh xe đứng
trên chuyển xuống:
- Thú lắm chứ! Tý vừa làm vừa học cơ mà !...
Nghe anh tôi phát phì cười. Nhưng Tý không nói đùa, anh vừa xếp
củi, vừa nhẩm lại bài Việt sử: Ông Lê-Lợi người anh hùng áo vải đất
Lam-Sơn…
Anh chạy ra xe, nhẩm tiếp: Thấy gặc Minh tàn sát dân ta
khổ sở…
Anh lại ôm củi trở vào hàng… Ông đứng lên kéo cờ khởi
nghĩa, quyết ra tay thu phục sơn-hà, dựng nền độc lập…
Như cái máy, chạy đi, chạy lại, chỉ mười phút sau, xếp củi
xong thì bài học đến câu cuối cùng.
Anh nghiêm nét mặt, xoa tay:
- Hôm nay mẹ Tý ốm, thầy Tý mắc đi lấy hàng, Tý phải trông
nom hàng họ, cơm nước… vừa làm vừa học, không biết có xong được không? À có phải
bài toán «đáp số 12 lít» phải không ? Tý mới dáp thôi, chứ chưa chép vào sách…
Lại còn bài Văn-Phạm nữa, cha chả là khó!
Rồi anh quay bảo người đánh xe:
- Thầy tôi dặn đến mai tính tiền trả ông. Mai mời ông đến
nhé!
Chiếc xe đi khỏi, anh nắm tay tôi:
- Vào đây đi, Dũng đi!
Tôi vui vẻ theo Tý vào trong nhà. Gian ngoài khá rộng, mỗi
góc xếp một đống củi cao. Cạnh lối đi có một cái cân bàn.
- Gớm, hôm nay bận quá Dũng ạ. Tối tăm cả mặt mũi. Không lúc
nào Tý ngồi yên được một chốc để làm cho xong bài. Học cũng tứng câu một, làm
cũng từng mẩu một, ấy thế mà rồi cũng xong đấy! Tý còn đang lo ngày mai thi vẽ,
cái tay khuân mãi củi, cứng nhắc thế này này… có chết không hả Dũng, chỉ lo «đội
sổ» thì nguy!
Vừa nói anh vừa cầm chổi vun mấy đống rác vào một góc. Thấy
anh nói làm bài, học bài mà tôi nhìn quanh quẩn chẳng thấy có cái bàn nào. Tôi
ngạc nhiên hỏi:
- Thế không có bàn, Tý làm việc ở đâu?
- Đây, Dũng vào đây mà xem.
Thì ra bàn kê sau cái tủ. Mặt bàn còn la liệt những sách cùng
vở. Tý ngồi vào bàn, tay cầm bút, miệng nói:
- Bàn của Tý đây. Có sang không? Ấy cứ làm từng đoạn, hễ nghĩ
được câu nào, chờ lúc rỗi thì mới lại viết…
Rồi anh lại lẩm bẩm đọc, tay hí hoáy viết:
- «Bổn phận chúng ta ở nhà phải giúp đỡ cha mẹ… gì nữa nhỉ
?... À, phải yêu mến và vâng lời cha mẹ…
Chợt có tiếng người gọi cửa:
- Có ai bán hàng đây không?
Tý vội đặt bút xuống, ngó ra. Đó là một bà đến mua củi. Cân kẹo
xong, Tý nhận tiền đếm bỏ vào ngăn kéo:
- Khổ quá, thế này mai cũng chẳng xong…
Rồi Tý lại ngồi vào bàn, viết tiếp : Ở trường chúng ta
phải chăm chỉ học hành…
Nhưng viết chưa xong câu, Tý đã đứng lên. Siêu thuốc của bà mẹ
đặt ở góc nhà đang bị trào; bọt thuốc trong ấm trào ra, rớt xuống than hồng
cháy xèo xèo.
- Có lẽ thuốc của mẹ Tý đã được. Để Tý mang vào cho mẹ Tý uống… Ta
còn phải lễ phép với thầy, tử tế với bạn, phải thêm câu ấy mới đủ ý, Dũng nhỉ ?
Rót thuốc ra cốc, Tý mở cửa đưa tôi vào ngăn trong.
- Thưa mẹ, thuốc đã được rồi đây ạ.
Mẹ Tý chống tay ngồi dậy. Anh giới thiệu tôi :
- Mẹ ạ, đây là Dũng, bạn cùng lớp với con.
Bà mẹ Tý, dựa lưng vào tường, nhìn tôi mệt nhọc nói:
- Cậu đến chơi với em đấy ư? Rót nước mời cậu sơi chưa con?
Tý nói «đã» rồi ngồi xuống bên giường, lấy gối đặt vào lưng
cho mẹ dựa, tay cầm quạt phe phẩy. Chờ mẹ uống thuốc xong, Tý cầm cốc đứng lên:
- Mẹ nghe trong mình hôm nay thế nào? Có đỡ sốt không? Đến 7
giờ tối, mẹ lại uống một nước nữa. Mai con đi cân thuốc sớm cho mẹ. Lúc nãy họ
xe củi đến, con đã xếp gọn đâu đấy cả rồi. Chừng 5 giờ con múc cháo mẹ sơi. Chốc
nữa hang bún vịt đi qua con sẽ nhớ trả họ 3 đồng còn thiếu lại hôm qua. Mẹ cứ
yên tâm nằm nghỉ mẹ nhé, mặc con.
Bà mẹ trìu mến nhìn Tý, chép miệng nói:
- Mẹ chẳng nghỉ thì mẹ làm gì được? Con mẹ ngoan quá!... Mẹ ốm
chưa dậy được, để con vất vả, mất cả sự học, mẹ chẳng đành lòng. Nằm mãi sốt ruột
quá đi mất!
Tý đứng lên, chỉ cho tôi xem bức ảnh của cha mặc binh phục,
đeo lon hạ-sĩ với chiếc anh-dũng-bội-tinh ở trước ngực sau những chiến công lập
được trong cuộc tiễu trừ phiến loạn. Hai cha con giống nhau như đúc, cũng cái
trán dô, con mắt sáng, cái cầm vuông, không lẫn được.
Chúng tôi trở ra cửa hàng. Bỗng Tý phát vào vai tôi:
- Còn thiếu Dũng ạ, phải nói thêm: sau này nhớn lên,
giúp ích cho nhà, cho nước. Dũng nghe thế đã được chưa?
Nói xong, chẳng chờ tôi trả lời, Tý ngồi vào bàn, hý hoáy viết:
- Chỉ Dũng là khoái, đã thừa thì giờ để học, lại thừa thì giờ
để chơi!
Viết xong, Tý gấp vở vào:
- Thôi còn để đến tối, Tý làm nốt.
Nói rồi anh cầm mảnh ván mỏng, ngắm nghía một lát, rồi lấy
cưa cắt ra làm hai, vừa cười vừa nói:
- Tý tập thể-thao đấy Dũng ạ! Vận động thế này chỉ một loáng
là “kiến bò bụng”, chốc ăn cơm ngon ra phết. Còn mấy tấm, Tý ráng làm cho xong,
trước khi thầy Tý về. Tay chân cứng queo thế nầy chả trách chữ xấu, thầy giáo mắng
là phải.
Tý chép miệng:
- Chà! Quý hồ mẹ Tý chóng khỏi là mừng rồi. Còn bài Văn-Phạm
sáng mai Tý dậy sớm học vậy. Tý nghiệm sáng sớm học bài chóng thuộc! Dũng cứ về
thử mà xem, chóng lắm cơ!... À mà kìa, họ đã xe than đến, để Tý thu xếp cái của
này cho xong đã. Thôi Dũng đi chơi nhé! Đi chơi cho vui nhé! Để bận khác ta nói
chuyện lâu. Thôi chào Dũng “con người sung sướng”!
Anh mỉm cười, chạy ra xe than. Tôi còn đứng lại một lúc nữa
ngắm anh làm việc, nhanh thoăn thoắt, nụ cười luôn luôn nở trên môi.
Tý bảo tôi là “người sung sướng”! Nhưng không, chính Tý mới
thật sung sướng hơn tôi. Tý sung sướng vì Tý biết dùng thì giờ, có ích cho nhà,
có hiếu với mẹ.
Tý gấp một trăm lần Dũng. Dũng chẳng đời nào bén gót Tý đâu!
20. Ông Hiệu-Trưởng Trường Tôi
Ngày 19 tháng 11
Anh Tý sáng hôm nay hẳn lấy làm hài lòng được ông Hiệu-Trưởng
gọi xuống bàn giấy khen vì sự cố gắng của anh. Xếp hạng thứ 40 dạo đầu năm,
tháng này anh đã lên thứ sáu, ai cũng phải ngợi khen.
Trường tôi có tất cả 18 thầy giáo, kể cả một thầy giáo mới
còn trẻ lắm. Còn ông Hiệu-Trưởng chúng tôi người cao lớn, đầu hói, vẻ người
nghiêm nghị, lúc nào cũng đeo “nơ” hay “cà-vạt” chỉnh tề.
Ông đặc biệt có bộ ria hoa-kỳ lơ thơ điểm trắng, cặp mắt lanh
lợi sau đôi mắt kính gọng vàng, và giọng nói oang oang như cái lệnh vỡ. Luôn luôn
ông hò hét, đe phạt học-sinh, có khi dọa bỏ tù chúng nữa; nhưng chẳng thấy ông
phạt ai bao giờ, và trông thấy lũ nhỏ sợ xanh mắt lại thì ông khoái chí cười thầm.
Thoáng trông thì tưởng ông dữ lắm! Nhưng chỉ gần ông một lát
là biết ông đầy lòng thương trẻ. Khi có đứa vì lầm lỗi phải đưa vào buồng ông.
Trông thấy nó mặt mày tái mét thì ông không nỡ mắng bao giờ. Ông xoa đầu hay cầm
tay mà hỏi. Ông cắt nghĩa cho chúng nghe, thế nào là phải, thế nào là trái, điều
nào nên làm, điều nào nên tránh. Giọng ông ngọt ngào, nhưng thấm thía, khiến có
đứa lặng nghe ông nói, rồi nức nở xin chừa.
Ở văn phòng ông ra, coi bộ chúng sầu não chẳng khác gì đã phải
đòn, người ta có cảm tưởng rằng chúng đã ăn năn hối hận.
Đáng phục thay, ông Hiệu-Trưởng của chúng tôi!
Ở trường, bao giờ ông cũng là người đến sớm nhất, và về muộn
nhất! Lúc vào học thì ông đứng trên hè cao, tay chắp sau lưng, nhìn đàn học-sinh
lũ lượt kéo vào lớp. Buổi tan học, các thầy giáo về rồi, ông còn đi quanh trường,
chỉ sợ có đứa mải chơi quên về, hay mang nhau ra đấy làm nơi đấu võ.
Cứ thấy thoáng bóng ông ở góc phố ra là y như người ta thấy một
lũ trẻ chạy toán loạn như có ma đuổi, vất lại cả bi, cả cặp, cả mũ. Ngón tay của
ông giơ lên dọa chúng từ phía xa, nhưng vẻ mặt từ bi, cặp mắt nhìn chúng buồn rầu,
biểu lộ cả một tấm lòng trời biển bên trong.
Ba tôi bảo không thấy ông cười bao giờ từ ngày ông được tin
con trai ông, một sĩ quan trẻ tuổi trong quân đội Cộng-Hòa đã vinh-dự bỏ mình ở
ngoài mặt trận. Hèn nào mà có lần tôi bắt gặp ông, mắt đò hoe, chăm chắm nhìn
vào tấm ảnh một người thanh-niên tuấn tú đặt ngay trên bàn giấy.
Khi được tin đau đớn áy, ông thẫn thờ chán nản muốn xin từ chức
ngay. Hôm cha tôi vào thăm ông, thấy đơn xin nghỉ để trên mặt bàn, cha tôi
khuyên ông hết điều và tỏ lòng mến tiếc ông, cũng như bao vị phụ huynh khác.
Vừa khi ấy, chợt một người bước vào, tay dắt con đến xin học.
Trông thấy cậu bé, ông giựt mình đứng lên, hết nhìn vào mặt nó lại nhìn vào tấm
ảnh trên bàn: hai khuôn mặt giống nhau như đúc!
Ông ngồi xuống, vẻ mặt đăm chiêu. Cha tôi nhân dịp nói:
- Thôi cụ nghe chúng tôi! Đừng xin về nữa! Cụ có về mối buồn
sẽ chẳng khuây nào, à sợ còn tăng thêm nhiều nữa. Cụ mất một người con thật,
nhưng ở đây, cụ còn có bao nhiêu con khác….
Ông Hiệu-Trưởng khẽ thở dài, ngây người ra một phút, rồi cầm
đơn xé làm hai mảnh…
21. Vì Nước
Ngày 23 tháng 11
Con trai ông Hiệu-Trưởng chúng tôi, trong một trận tấn công
vào đồn địch, đã ngã trong danh-dự. Vinh thay cái chết của người thanh-niên yêu
nước!
Bởi thế người cha đau khổ ấy có muốn nhớ con chỉ còn cách là
ngày ngày lượn qua cổng trại, ngắm binh-sĩ ra vào. Nhất là những ngày quốc tế,
có diễu binh, thì dù bận thế nào, dù xa đến đâu, người ta cũng thấy ông có mặt.
Bữa chiếu qua, một đoàn chiến-sĩ vừa đi tảo thanh đâu về, qua
cửa trường, kéo theo sau một đoàn trẻ nhỏ. Bọn chúng tôi đủ mặt, đứng lố nhố
trên hè nhìn theo: anh Tôn cái đầu to lớn lắc lư, miệng nhồm nhoàm ngoạm bánh,
anh Bích quần lành áo tốt đứng cạnh anh. Còn lúng túng trong cái áo quá khổ, có
cả anh Tư Húi, anh Vân, anh Sỹ đầu trọc tếu, anh Pha bộ mặt gân gỗ… Tất cả
chúng tôi đứng trố mắt ra nhìn.
Bỗng có tiếng cười khanh khách: thì ra anh Pha nhạo một người
lính chân bị thương, đang đi khập khiễng. Nhưng tiếng cười bỗng ngưng bặt. Một
bàn tay đặt lên vai làm anh câm miệng: ông Hiệu-Trưởng đã đứng sau lưng anh ta
lúc nào không biết, nét mặt nghiêm nghị và lạnh lùng như sắt đá:
- Này con! Con có biết rằng chế nhạo một người lính như thế
là hèn nhát không? Mà lại là người lính bị thương đi trong hàng ngũ, thì lại
càng hèn lắm nữa.
Anh Pha đỏ bừng mặt lên, lung túng toan tìm câu chống đỡ thì
ông lại trỏ những người lính xếp hàng tư, nhễ nhại mồ hôi, áo quần tơi tả, đang
đi hùng mạnh trên đường, dịu giọng nói tiếp:
- Các con ạ! Các con phải kính trọng những người lính kia mới
được. Phải mến yêu họ vì họ đem tính mạng để chống với quân xâm-lăng tàn ác, bảo
vệ chúng ta. Giờ đây, nếu các con được êm đềm sống dưới mái gia-đình ở một góc
trời Nam đất Việt này là công ở những người chiến sĩ anh hùng ấy. Không có họ,
các con đâu có diễm-phúc yên ổn ngồi đây mà học tập với thầy, vui đùa với bạn.
Hy sinh vì chính nghĩa, đấu tranh cho xứ sở, họ ngày đêm sống
kinh hoàng ngoài mặt trận, kề bên cái chết sau lưng. Hỏi còn có gì đánh giá được
không? Mà hy sinh như thế vì ai? Vì chúng ta. Hy sinh để đem lại tự do, cơm áo
cho các con, cho tất cả chúng ta; các con có biết không? Sẵn sàng chết để bảo-vệ
cái sống cho giống nòi, còn gì thiêng-liêng hơn những hành-động cao cả ấy!
Họa xâm-lăng đe dọa xứ sở trong khi dân-tộc Việt Nam mới trưởng
thành, vậy cần phải có những con người dũng-cảm ấy để chận đứng mọi mưu mô xâm
lược, đồng thời mưu hạnh phúc cho toàn dân. Các con sao lại đem lòng rẻ rung những
bậc anh hùng như vậy?
Những chiến sĩ ấy cũng chỉ hơn các con chừng năm bẩy tuổi, đã
từng đi học, hoặc còn đang đi học như các con, giầu có, nghèo có, thuộc mọi tầng
lớp trong xã hội, ở tất cả các miền kéo đến, cùng mang nặng tấm lòng yêu nước
như nhau.
Lớp người này gục xuống, lớp người khác tiến lên, số người
tuy thay đổi, nhưng chính nghĩa không đổi thay… Tất cả phụng-sự dưới một lá cờ,
cho một lý-tưởng cao-siêu. Trước đây, và còn mãi nữa, bao nhiêu máu đã đổ để
nhuộm thắm sắc cờ…
Bỗng anh Tôn reo lên: Cờ đây rồi!
Quả thật lúc ấy ngọn quốc kỳ đã tới, phất phới tung bay để lộ
ra một hàng bội-tinh long lánh.
- Nào các con, hãy cùng ta đứng nghiêm chào quốc kỳ!
Viên sỹ quan cầm cờ liếc sang bên cạnh, nhìn chúng tôi sẽ gật
đầu. Bỗng có tiếng nói đằng sau:
- Hoan hô tinh thần yêu nước của các em!
Chúng tôi ngảnh lại. Đó là một cụ già, ngực đính mẩu
huy-chương. Cụ mỉm cười:
- Là cựu chiến binh, già rất cảm động trước cử chỉ đẹp ấy của
các con! Kẻ nào còn bé đã biết trọng quốc-kỳ, nhớn lên sẽ biết hy-sinh cho xứ sở!
Chúng tôi còn đứng lặng nhìn nhau thì ông Hiệu-Trưởng đã nói
tiếp:
- Trọng quốc-kỳ chưa đủ. Thấy một người lính đi qua, các con
phải kính cẩn nhường bước và tự bảo rằng: “Đây là một anh-hùng, sẵn sàng chết để
bảo-vệ chúng ta”.
22. Che Chở Bạn
Ngày 28 tháng 11
Anh Ninh hôm qua cũng có mặt lúc đoàn binh sĩ diễu qua. Trở
vào trường, anh cứ suýt soa phàn nàn vì nỗi tàn tật, chẳng được diễm phúc như
ai, khoác bộ binh phục trên vai, để đáp đền nợ nước.
Ấy cũng vì gày còm, ốm yêu mà anh học hành chậm tiến, tuy
chăm chỉ vào bực nhất lớp. Thương con tàn tật, má anh ngày nào cũng đến đón
anh, sợ lũ hoc-trò ma quái chòng ghẹo.
Mấy ngày đầu năm, một vài anh ác tâm, thường va vào cái bướu
sau lưng của anh; nhưng biết thân phận, anh cứ im thin thít, lùi lũi bước đi,
chẳng nói nửa lời, mà cũng chẳng dám than phiền cùng mẹ, sợ mẹ buồn lòng. Chúng
bạn chòng ghẹo anh bao nhiêu anh chỉ ấm ức khóc thầm bấy nhiêu.
Có lần anh Tôn bắt gặp anh đang dấu mặt đi lau nước mắt. Anh
tức lắm, đe các bạn:
- Từ rày bác nào còn giở cái trò “bắt nạt gà nhà” với anh
Ninh thì đừng có trách! Ra cổng trường, thằng Tôn này sẽ cho biết tay. Dù có
cha mẹ các anh ở đấy ta cũng bất cần. Thử xem có bố mẹ nào bênh con như thế
không?
Từ đó, dưới sự che chở của anh Tôn, anh được yên thân ở trường,
chẳng ai dám đả động tới anh, mà anh cũng yên lòng chơi bời với chúng bạn.
Có một hôm, thầy giáo mắc đi họp, cho về sớm một giờ. Má anh
Ninh vì thế chậm đón anh. Anh Tôn phải đưa về đến tận vườn hoa Đề-Thám, bấy giờ
mới chịu chia tay.
Có lẽ không được yên tâm, tôi cùng anh đã đi được một quãng
xa, lại thấy anh rủ tôi quay lại. Vừa lúc ấy một lũ trẻ đang vây tròn lấy anh
Ninh mà trêu ghẹo. Đứa thì giằng cặp, đứa thì xoa hai tay vào cái bướu của anh
mà hát “Bà còng đi chợ trời mưa! Ha!...ha!... chúng bay ơi!”
Thế rồi tụi trẻ vỗ tay reo ầm ỹ. Anh Ninh chẳng biết làm thế
nào, cứ đứng ôm mặt khóc hu hu, mặc tình cho chúng hành hạ.
Nhưng anh Tôn đã phi như ngựa tế đến. Anh vừa chạy, vừa gọi
to lên:
- Đừng hãi! Tôn đây rồi!
Giữa lúc ấy, một đứa đang nhại anh Ninh:
- Hu! Hu! Khổ thân em bé quá nhỉ! Ra đây anh dỗ bé nào!
Anh Tôn hét lên:
- Này các chú! Bỏ cái kiểu bắt nạt nhau thế đi!
Cậy đông, một đứa lớn nhất trong bọn, cơ chừng là đầu đảng,
vênh mặt lên:
- Gọi ai là chú thế? Việc gì đến cái nhà anh nào ?
Mấy đứa khác châu châu lại :
- Thế mới là chõ mõm!
- Rọ sinh sự, sự sinh chửa!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét