Thứ Bảy, 25 tháng 9, 2021

Nhà sư vướng lụy 2

Nhà sư vướng lụy 2

CHƯƠNG MƯỜI BỐN

Ngày hôm sau, chị tôi đến, chị không nói gì nhiều, chỉ khuyên bảo rằng:

- Em tùy lúc tùy nơi, phải nghe lời mẹ. Phàm sự gì cũng vậy, không nên buông thả theo cái tính hăng hái nhất thời. Thì từ đó em hiểu được rất nhiều về nhân tình thế cố. Còn về sự vụ em bảo rằng suốt đời em không lấy vợ, em cho đó là cao viễn, nhưng thật ra đó chỉ là cái ý nghĩ tầm phào của một đứa trẻ con, đủ khiến cho người ta cười chết ngất đi được. Tam Lang, em từ rày về sau nên ghi nhớ cái lời chị nói đó, đừng để mình là một trò đùa cho thiên hạ. Em nghe rõ chưa?

- Em nghe rõ rồi.

Chị hỏi:

- Em nghĩ thế nào?

Tôi đáp:

- Em nghĩ rằng rất mực phải vâng lời chị luôn luôn.

Chị nói:

- Thế thì tốt.

Tôi vâng vâng dạ dạ, rồi cáo lui. Từ đó trở đi, lòng tôi phiền muộn vạn trạng. Định tỉnh thần hồn, chiếp bất cử tọa. Suốt ngày tôi bần thần không yên, bơ phờ đi, bờ phờ đứng, bơ phờ ngồi nằm. Chỉ lo ngay ngáy sợ mẹ già nêu trở lại câu chuyện kia.

Mẹ tôi mỗi phen gặp tôi, thì hân hoan khôn tả, tợ hồ như chẳng hề hay biết gì hết cả về nỗi lòng tôi bời bời vạn chủng rối beng.

Một ngày kia, tôi  ngồi trong phòng cầm bút hoạ bừa một trận, để phát tiết ra ngoài cái mối sầu vấn vít tim gan. Họa cảnh trạng ba đào cuồng nộ đánh tơi bời bọt bèo vào đá. Song lại họa cảnh biển xa lai láng lăn tăn triều sóng rì rào dàn trải. Rồi tôi vẽ thêm một con sa âu nghiêng cánh rơi lạc xuống đám khói sóng lạnh lung rồi mất hút vào hư không.

Chợt nghe tiếng gõ cửa, rồi tiếng em gái tôi xô cửa hỏi:

- A Huynh sao chẳng ra ngoài du ngoạn?

Tôi quay lại nhìn, chợt thấy Tĩnh Tử mặt phấn lưa thưa, nga mi đạm tảo, đang cầm tay em gái tôi, đứng bên khung cửa.

Thấy tôi quay lại, Tĩnh Tử nghiêng thân chào một cái.

Tôi nói:

- Mời a tỷ bước vào phòng ngồi nghỉ chân tý chút, tôi vẽ chơi tiêu khiển xong rồi, chẳng còn việc chi.

Em tôi liền nắm tay Tĩnh Tử, kéo ép nàng bước vào, tới đứng bên tôi. Tĩnh Tử đưa mắt đăm đăm nhìn bức họa trên bàn. Rồi mỉm cười nhìn tôi.

- Tam Lang thứ lỗi đường đột cho. Xưa Đồng Nguyên họa Giang Nam sơn; Lý Đường họa Trung Châu sơn; Lý Tư Huấn họa Hải Ngoại sơn; Mễ Nguyễn Huy họa Nam Từ sơn; Hoàng Tử Cửu họa Hải Ngu sơn; Triệu Ngô Hưng họa Nhu Điều sơn; Bi Giang họa Bi Bôi sơn; nay anh Tam Lang của em há chẳng họa Nhai sơn đó ru?

(Formerly Tung-yuan painted
Chiangnan Mountain; Li
Tang, Chungchow Mountain;
Li Szu-hsun, Hawai Mountain
Mi Yuan-hui,Nanhsu Mountain;
Ma-yuan and Ha-kuei,
Ch'ient'ang Mountain;Wang
Tzu-ko,Haiyu Mountain;
Chu Wu-hing, Chat'iao Mountain;
Bi-Giang, Bê-bôi Mountain;
At present is not my
Saburo painting Mount Yai ?)

Một phen người ta nhìn vào bức vẽ, một phen khiến người ta tâm hồn tiêu nhiên lòa xòa như gửi thân trong cõi miền của sử xanh cổ lục.

(Nhứt hồ sử nhân kiến tắc tiêu nhiên như trí thân thanh cổ chi vực). Thật quả là cảnh xiu thư thái tâm hồn và trong suốt mắt xanh vậy. (Đâu có như những loại vẽ vời tùm lum như rác bẩn của thằng Bùi).

Nói xong, nàng giao trả lại bức học cho tôi. Tôi cầm lấy nói:

- Tại hạ bỏ lâu ngày cây bút họa, nay cao hứng vẽ bừa ra như thế, chẳng ngờ được a tỷ quá khen, khiến cho người cảm thấy hổ thẹn.

Tĩnh Tử lại mỉm cười mà rằng:

- Tam Lang, em nói lời kia không có ý khách sáo gì hết. Thiết tưởng các họa sĩ ngày nay vẽ tranh chỉ đáng kể ở chỗ hình thể giồng sự vật là được, và mua được sự đáp ứng của chợ hội. Còn thật ra họ đâu đạt tới cõi tối cao lý thú của hội họa. Lại cũng có kẻ bị quẩn bách bởi tẩu hỏa nhập ma, vớ bừa vớ bãi vào bút họa mà mở cuộc cưỡng bức, làm trò cười cho bọn phụ nữ chúng em, há đáng chi mô mà mắt xanh my lục chiếu cố tới!!! Người đời xưa nói rằng họa thủy có thể suốt đêm dài phát thanh âm thánh thót, như sương nguyệt nguyên tiêu. Em nay nhìn bức họa của Tam Lang, quả thật chứng minh rằng lời nói của người xưa không phải là ngoa ngữ. Bức họa kia của Tam Lang, so với các tay danh thủ cận đại, quả thật có sự cách biệt giữa hột minh châu và hòn sỏi hoặc tấm ngói mảnh gạch vụn. Há cần phải chờ tới em thốt lắm lời?

Tôi lặng nghe lời nói như ru kia. Trong lòng suy gẫm:

- Thế gian sao còn có một tâm hồn đĩnh tuệ du dương đến như thế?

Tôi bước ra phía sau nàng mà đăm đăm nhìn hình hài nàng trong cơn bồi hồi ấy. Hỡi ôi! Tóc mây một món buông lòa xòa, cổ ngọc ẩn hiện như vân thạch mù sương, vai tròn lưng ong như kinh hồn cổ lục ... Thì lòng tôi ngơ ngẩn một trận tự nhủ mà rằng:

- Chân chính là một hình ảnh khoáng kiếp nan phùng vậy (suốt kiếp cổ kim khó gặp).

Chợt Tĩnh Tử quay mắt lại nhìn, có vẻ bẽn lẽn:

- Bức họa này của Tam Lang có thể tặng người ta được chăng? Tam Lang đừng nghĩ người ta yêu cầu là lời khách sáo cho hợp lễ thôi đâu. Em nhìn phong cảnh ấy thương mang cổ dật, lòng em yêu chuộng rất mực mà thôi. Nay mở lời xin như thế ắt Tam Lang nguyên lượng cho em...

Hỡi ôi! mỗi tiếng người ngọc như mỗi bủa rộng chiêm bao... Thật quả có như là:

"Thưa gái ạ, nếu gái về xứ sở
Của vinh quang về lịch sử khuynh thành
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ
Sẽ bao trùm dòng Dương Tử Giang xanh"

Tôi bèn đáp mà rằng:

- Há dám! Há dám! Bức họa kia há đâu đáng một chút chiếu cố ôn tồn ý nghĩ xanh mắt lục cô nương? Tại hạ ý nghĩ rằng a tỷ như đã tinh thông hội họa, thì rất mong a tỷ đừng hẹp lượng mà ban cho lời chỉ bảo, làm lương sư giáo hóa cho tại hạ một bình sinh, há chẳng là hay ho tốt lành lắm lắm?

Tĩnh Tử bối rối cúi mặt xuống mơ màng, đưa bàn tay ngọc sửa lại mái tóc mai ủ rũ, kéo lại dải la đới chỉnh tề ngăn nắp, rồi chậm rãi mà rằng:

- Phi nhiên dã! Chẳng thế được. Ngày trước em chỉ ngẫu hứng học tập qua loa, nhiên nhất vô sở thành( chẳng thành tựu được chút xíu nào cả). Nay trong chiếc rương chỉ còn có giữa lại một tấm họa "diệp hoa hải yến" mà thôi.

Tôi nói:

- Dám hỏi sao gọi là diệp hoa hải yến? (Thỉnh vấn vân hà diệp hoa hải yến?)

Tĩnh Tử đáp:

- Vườn ao nhà em, mỗi mùa hoa lá sen nở phồn thịnh, thì mỗi mỗi hàng đêm suốt cõi chim yến tía bay về vô số, làm tổ tại giữa đám lá hoa sen, như mở một trận ôn tồn yêu đương thiêm thiếp phù động liên tồn suốt xứ sở đất đai. Cho đến khi hoa tàn, lá tạ, chim yến tía vẫn dùng dằng chưa chịu bay đi. Em cảm thấy cái tính tình đó của yến tía trùng dương, nên mệnh danh gọi là: "diệp hoa hải yến" rồi khởi sự vẽ cảnh tượng ấy ra. Tam Lang, nay để em đi tìm lấy ra xem, chỉ e lại làm trò cười cho linh hồn tài hoa đại phưong lạc lạc...

Tôi khom thân cung kính mà rằng:

- Xin a tỷ lẹ chân đi và nhanh chân trở lại, tại hạ rất mong được nhìn gấp. Tĩnh Tử không đợi tôi nói dứt lời, đã đi bộ cúc cung nhi khứ. Tay phất nhẹ tà áo, mùi thơm xuân sắc bốc lừng tỏa lòa xòa ra bốn mặt.

Tôi giữ em gái lại, hỏi mà rằng:

- Sao chẳng nghe tiếng mẹ và chị đâu cả? Mẹ và chị đi đâu rồi chăng?

Em gái đáp:

- Nhiên, A tỷ rủ a mẫu, a di đi dạo hết cả rồi. Bảo rằng, đi Diệp Sơn (Hayama) để ngắm cảnh những cây thiên quán tùng (những cây tùng tuổi tác ngàn năm).Và cũng có  thêm việc khác nữa, thuận đường ghé bái yết Thiển Đảo thần xã. Đã dặn dò cô bếp chờ cơm trưa bữa nay lúc mười hai giờ rưỡi. Và dặn em nói lại với a huynh điều ấy.

Tôi hỏi:

- Sao em không cùng đi?

Em đáp:

- Chẳng. Chị Tĩnh Tử chẳng đi, nên em cũng chẳng muốn đi.

Tôi nhìn thấy em tôi cầm trong tay một quyển sách. Bèn hỏi:

- Sách gì đó?

Em đáp:

- Đó là bộ bách thư của Ba Nhĩ Ni (Panini).

Tôi nói:

- Đó là Phạn văn điển. Em học tập sách đó sao?

Em đáp:

- Chị Tĩnh Tử mỗi ngày bày vẽ em đọc. Ban đầu học thất khó. Rồi lần lân quen thuộc rồi thấy thích lần lần. Câu văn nghe thật nhịp nhàng. Thật là không như Pháp ngữ, Anh ngữ. Không thể nào nêu ra  ngang hàng nhau được.

Tôi nói:

- Thế thì té ra chị Tĩnh Tử đã nhiều ngày nghiên cứu tiếng Sankrit.

Em nói:

- Chị Tĩnh Tử thường ngày thích nói về đạo Phật, vì lẽ đó nên chị đọc Phạn văn. Hoặc là Phạn văn hấp dẫn chị thì cũng có lý. Chị thường bảo em: "Phật giáo tuy xích thanh luận" ( không luận về âm thanh, vứt bỏ thanh luận) nhưng mà Da Du nói về ngữ pháp: viết tướng, viết nhanh, viết phân biệt, viết chính trí, viết chân như, mọi thứ đó rất gần Ba Nhĩ Ni học phái. Tuy ra đời sau Lăng Nghiêm, y tư nhĩ căn viên thông, hữu thanh luận tuyên minh chi ngữ. Thị Phật giáo diệc thu thanh luận, đặc hình thức tương dị nhĩ (chỉ duy hình thức là khác nhau thôi).

Nghe em gái nói ríu rít ra như thế, tôi nghiêm chỉnh nét mặt lại mà rằng:

- Thiện tai!Thiện tai! Tĩnh Tử quả là siêu phàm nhập thánh. Em hãy chăm chỉ theo chị học tập, đừng xao lãng nhé!

Em hỏi:

- Còn a huynh bày vẽ em học gì?

Tôi đáp:

- Để anh chép tặng em một bài thơ dịch của thi sĩ Tây Phương.

Thế là tôi chép bài thơ của Nerval tặng cho em gái.

Ngày đông đẹp, lắm phen chiều chủ nhật
Tuyết phủ bờ nhuốm ánh nhạt tà huy
Cùng em gái nắm tay đi ngoạn cảnh
Mẹ bảo: - Về cho kịp bữa ăn chiều
Và khi đã nơi điện đài Túy Lúy
Ngắm và nhìn những lộng lẫy xiêm nghê
Em gái lạnh đòi về thôi anh nhé
Vì sương mai sắp phủ khắp sơn khê
Đành quay gót tiếc  thương ngày quá đẹp
Quá vội vàng đi mất không em
Về tới ngõ tự ngoài khung cửa hẹp
Bỗng nghe mùi phưng phức thịt gà chiên
(Gerard de Nerval)

LA COUSINE

L'hiver a ses plaisir; et souvent, le dimanche,
Quand un peu de soleil jaunit la tere blanche
Avec une cuosine on sort se promener...
- Et ne vous faites pas attendre pour diner,
Dit la mere. Et quand on a bien, aux Tuileries
Vu vous les arbres noirs les toilettes fleuries
La jeune fille a froid... et vous fait observer
Que le brouillard du soir commence à se lever.
Et l'on revient, parlant du beau jour qu'on regrette
Qui s'est passé si vite... et de flame discrete:
Et l'on sent en reentrant avec grand appétit,
Du bas de l'escalier,-le dindon qui rôtit.

Chép xong tôi bày cho em đọc. Nó mừng quá, hỏi ríu rít;

- Anh còn bài dịch nào?

Tôi đáp:

- Một bài không đủ sao?

Em đáp:

- Đủ. Nhưng còn thiếu?

Tôi hỏi:

- Tại sao còn thiếu?

Em đáp:

- Thiếu một bài cho chị Tĩnh Tử.

Tôi nói:

- A!!!

Em bảo:

- Chép nhanh vào luôn thể trong trang này một bài cho chị Tĩnh Tử.

Tôi bèn chép bài thơ Tháng Năm của Appollinaire:

Dạo thuyền xuân sắc tháng năm
Giai nhân đầu núi xa xăm ngóng về
Thuyền trôi cách biệt hai bề
Ai xui liễu khóc đầm đìa bờ hoang
Vườn cây ngưng cóng hành hàng
Cánh hoa thắm rụng như làn môi ai
Ven sông đường đỏ dặm dài
Bước chân du nhạc hình hài hoang liêu
Một con gấu một con tườu
Một con chó chạy sau lừa kéo xe
Từ đâu tiếng dịch vọng về
Rập rình quân nhạc đã lê thê chìm
Tháng Năm về điểm sơn xuyên
Trên tàn phế dựng muôn nghìn thảo hoa
Cành miên liễu, gió la đà
Rì rào lau trúc nụ ngà khỏa thân
(Appollinaire)

MAI

Le mai le joli mai en barque sur le Rhin
Des dames regardaient du haut de la montagne
Vous êtes si jolies mais la barque s'éloigne
Qui done a fait pleurer les saules riverains
Or des vergers fleuris se figeaient en arrière
Les pétales tombés des cerisiers de mai
Sont les ongles de celle que j'ai tant aimée
Les pétales flétris sont comme ses paupières
Sur le chemin du bord du fleuve lentement
Un ours un singe un chien mené par des tziganes
Suivaient une roulette trainee par des tziganes
Tandis que s'éloignait dans les vignes rhénanes
Sur un fifre lointain un air de regiment
Le mai de joli mai a paré les ruines
De lierre de vigne vierge et de rosiers
Le vent du Rhin secoue sur le bord les osiers
Et les roseaux Jaseurs et les fleurs nues des vignes.

Chép xong em gái tôi đọc qua một bận, nó sung sướng bảo:

- Bài này cũng hay. Nhưng bài này anh chép nét chữ đẹp hơn bài kia. Tại sao như thế?

Tôi đáp:

- Tại vì lúc đầu chép bài kia cho em, thì bàn tay nó chưa nhuần cây viết. Tới bài sau, thì cả mấy ngón đều duỗi ra thư thới hơn trước. Vả lại, chị Tĩnh Tử học giỏi hơn em.. Nếu chép thơ cho chị mà không cố gắng viết chữ thật đẹp, ắt sẽ bị chị Tĩnh Tử xem thường.

CHƯƠNG MƯỜI LĂM

Nói chuyện với em gái đến đó, lòng tôi tự nhủ: "Tĩnh Tử tệ cốt thiên sinh, một thời không hai (vô lưỡng vô song) há chẳng khiến đời kính sợ? Tiếc sao, tiếc sao, ta phải đành ngậm ngùi xa lánh, không thể nào để thu hút về bờ cõi bất tuyệt thiên hương kia. Làm sao! Làm sao ta dám lân la phụng thị tài bồi chầy ngày bên làn thu ba kỳ ảo nọ!" (Kiyoko's brilliant mentality comes straight from heaven. There is no other like her. How can she but inspire one with awe and repect?It is regrettable that I cannot always bask in the radiance of her eyes.")

Vâng. Ngọn thu ba huyền diệu dâng lên dị thường như thế, ta phải đành nuốt hận mà cao chạy xa bay. Để bảo rằng tồn trì lưu tự thân thể. Vẫn biết rằng làn sóng nọ ôn tồn ấm áp vô song. Nhưng cũng chính vì thế mà nó giết chết hồn ta trong từng cơn o bồng o bế.

Đang giữa lúc liên miên tư lự, thì Tĩnh Tử đã lòa xòa tròn xoe trở lại. Bước vào như xô ùa về cả trời mộng càn khôn. Tay cầm một tấm lụa họa, nàng đứng thẳng trước nhãn quan tôi, phiêu phiêu như liên tồn chẩm ma tiên tử na cá vạn chủng phong tình bài động liễu yêu. Tôi đứng thẳng lên. Máu me run như cầy sấy, xương xẩu rục rịch như giẽ giun, nhưng phải làm ra vẻ thản nhiên túc mục, tâm bình khí hòa thong dong bước tới chậm rãi, cầm tấm lụa mà xem xét.

Bên bờ mép ao sen, xum xuê thùy dương lòa xòa bê tỷ trúc, đấy là phong cảnh bên nhà dì tôi, một vị nữ lang phiêu nhiên đứng lòa xòa tại đó bên bóng trúc liễu mơ màng, phong thái an nhiên, màu áo lụa xanh lơ bích la tụ đái, dở chiều như tỉnh, dở chiều như mê, nửa giống như nữ lang ở tiền diện, nữa giống như gái Ngô của vong hồn vãng sự. Tà xiêm phất phất gió đàn. Hương gây cấn dậy mùi đàn giẽ giun. Thân cầy sấy mộng điên cuồng. Lạc đường thêm lỗi hẹn nguồn sơ nguyên...

Thưa gái ạ, nếu gái về xứ sở
Của Dư Vang về lịch sử khuynh thành
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ
Sẽ bao trùm hồn sông Lõa sông Xên

Nữ lang ấy búi tóc đuôi phụng theo phong thể "phi thiên" (tiên nữ bay trong gió) thời nhà Hán. Nàng đăm chiêu đưa mắt nhìn phong cảnh diệp hoa tỷ yến, mà cũng như dường đang tự ngắm bóng hình mình trong màu sắc trang y, lõa xõa tiêu nhiên hữu xuất trần chi tư. Phiêu phiêu hữu lăng vân chi khái.

Tôi than một tiếng mà rằng:

- Người đâu mà đẹp thế. Há chăng ru là Chân Chân nương tử mộng lý tầm sưu?

Tĩnh Tử nghe tôi nói thế, đưa mắt nhìn tôi, rồi nhìn em tôi, mỉm cười nói:

- Có thật đáng được Tam Lang khen ngợi vậy chăng? Và Tam Lang có thật là biết nhận ra người lúc nhìn qua ngoại mạo? Có thật nhận rõ bên trong, linh hồn còn chứa chất những gì? Người trong tấm họa có vẻ linh hoạt khiến lòng người xúc động, nhưng nàng không biết nói, thì Tam Lang căn cứ vào đâu mà nhận xét được tâm tư nàng mang những tình tự ra sao?

Tôi không đáp vào lời chất vấn đó. Nhưng thầm nhủ: "Người trong tấm họa không biết nói. Nhưng người vẽ tấm họa đã đem dung nhan mình và ngôn ngữ mình mà truyền vào cho giai nhân trong họa, chừng đó há chưa đủ hay sao? - I wishes the simper-ing misses or the intellectual girl could meet Diotima Kiyoko's eyes. How the affectations of the young women would fall from them, and the intellectuals, recognize a wisdom not in book. Would young intellectual women not recognize something they had lost irreparably in the quiet chastity of Beatrix-Dio-tima-Kiyoko's eyes? Tôi ước mong những cô nàng ỏn ẻn cười giả tạo,những gái trí thức mang kính trắng đong đưa, có cơ hội một phen nhìn thấy hai con mắt bình lặng của Diotima Kiyoko một lần. Thì từ đó, bao nhiêu giả tạo lai rai ắt sẽ rụng rơi đi hết, và những cô nàng trí thức ắt sẽ có dịp nhận thấy ra một phong tuệ anh hoa ở ngoài vòng sách vở. Một màu lan nam diện tuyệt nhiên chẳng có liên can chi tới học đường. Phải chi mà các cô nàng! Há rằng chi phải? Hỡi các nương tử cô nương? Há đâu rằng các cô nương sẽ chẳng bao giờ nhận nhìn rằng mình đã đánh mất một cái gì, đánh mất một cái khôn hàn vĩnh viễn, lúc các cô nàng nhìn vào vẻ thuần nhiên thơ dại trong hai con mắt Beatrix Diotima Cô Em Mọi Nhỏ Kiyoko?

Tĩnh Tử nhìn tôi. Như chờ đợi lời đáp. Tôi sực nhớ rằng mình mãi suy nghĩ đâu đâu trong khi nàng còn chưa bỏ rơi câu chất vấn. Tôi bèn cất tiếng mà rằng:

- Hoa bút tú dật tuyệt luân, cố thị tiên phẩm. Tôi sinh bình từng nhìn qua nhiều bức đơn thanh của nhiều họa sĩ, thì toàn nhiên là không kịp bức này. Hỡi ôi! Y bát cựu truyền đã rụng rơi đâuhết cả. Tại hạ còn biết ăn nói ra sao nữa bây giờ! Nay cứ theo cái nté vẽ phiêu nhiên hành vân lưu thủy này của cô nương, quả thật là duy nhất một mình tài hoa kiết kiết độc tạo anh hoa phát tiết duy nhất một lần. Khiến tại hạ chỉ biết than một tiếng ngậm ngùi cho bù cơn bối rối và dừng hết mọi trận chiêm bao. A tỷ đáng là bậc thầy của tại hạ, thật là phước hạnh lắm ru!

Tĩnh Tử lúc bấy giờ e lệ ngại ngùng không mở môi đáp được; phủ tủ tu du, ủy uyển ngôn viết:

- Tam Lang sao lại nói quá lời khen tặng tôi như thế? Khiến cho niềm riêng lóng cóng không biết còn chỗ đất đai nào để bình tĩnh tự dung. Chỉ mong Tam Lang  đem bức họa hôm này vui lòng ban cấp cho, thì tôi sẽ coi đó là một mẫu mực riêng biệt, và cũng là một kỷ niệm để ghi tạc trăm năm. Nhân vì cái ý huống, tình cảnh biểu hiện trong họa kia, lại tương hợp với thân thế tôi. Tâm tình Tam Lang, há chăng cũng  y nhiên như thế?

Tôi đáp:

- Tại hạ lâu nay chẳng chú ý tới việc tập họa, bởi vì năng khiếu chẳng có bao nhiêu, tài ba đã tận. A tỷ trái lại, đúng là rất mực tài điệu hơn người, nên khiến tại hạ chiêm ngưỡng rất mực "bắc diện hồng trang" há đâu phải là lời thốt buông tuồng sàm sỡ?

Tĩnh Tử sượng sùng e lệ không đáp. Tôi cũng không lời. Nhưng hai tay tôi nâng bức họa hiến tặng nuồng. Và ngẫu nhiên mà thốt:

- Kính tặng cô nương vui lòng mỉm cười nhận cho một chút gọi là! Gọi là tỏ bày chút lòng  của tiểu đệ kính một cô nương. Há dám bảo đây là họa hội hội họa gì ráo ráo!

Tĩnh Tử hãn nhiên mà rằng:

- Tam Lang nói như thế, càng cho thấy rõ cái tài hoa sâu kín của người tao nhã vậy. Bức họa càng quý giá bội phần.

Nói xong nàng vén xiêm, chỉnh đốn quỳ một chân xuống, trang trọng đón chút quà mọn như đón tặng vật trời ban. Ón tồn thuần hậu mà rằng:

- Kính tạ Tam Lang! Tam Lang từ nay đừng dùng  tiếng "cô nương cô nưỡng cô nuồng" mà gọi tôi. Nghe có vẻ ra cái làm sao ấy. Chẳng thân thiết tý nào.

- Kính thưa cô nương. Tại hạ đồng ý là: tiếng cô nương nghe ra không có vẻ thân mật. Nhưng còn tiếng "cô nuồng" thì quả thật là thân thiết bịch bồ.

Tĩnh Tử hỏi:

- Hà dĩ kiến đắc?

Tôi đáp:

- Nhân vì tiếng "cô nuồng" có chứa chất âm thanh "uông uông uồng uồng" ngụ trong tính tình nên lời tuyệt diệu.

Tĩnh Tử hỏi:

- Tuyệt diệu như răng?

Tôi nói:

- Như rằng uồng uồng chuồn chuồn thèm thuồng và ở truồng vân vân.

Tĩnh Tử phì cười:

- Tam Lang chớ giỡn như thế. Em không bằng lòng.

Tôi nói:

- Dạ vâng.

Nuồng bảo:

- Dạ vâng cái chi. Tam Lang hãy dùng tiếng ừ vậy.

Tôi đáp:

- Nhiên.

Nuồng nói:

- Phải. Nhiên. Giờ đây em đã nhận tặng vật của anh, sớm hôm nhìn ngắm, em sẽ không quên con người đã ban cho.

Đêm ấy, trăng lưỡi liềm đã mọc. Mặt biển phía Tây, thủy ba phẳng lặng. Tôi cầm cây gậy bước ra cửa, lần bước thong thả mà đi. Gặp một ngư ông, tôi dừng chân cùng ông trò chuyện. Đến khi ngư ông thu thập cần câu, tôi cũng quay thân về nhà. Lúc bấy giờ đêm lặng, gió lạnh.Tôi nhìn ra bốn mặt. Trừ bãi biển quanh co mấp mô cồn cát và trừ vầng trăng mới mày xanh in ngần kia, chẳng còn thấy gì nữa hết. Doanh hoàn vũ trụ thu thể lại thành man mác một màu.

Lúc tôi còn cách nhà khoảng một trượng, chợt mắt thấy một bóng người ngồi yên bên một tảng đá cheo leo lạc loài bên bờ biển, mà nhìn ra mặt biển khơi. Tôi nhận rõ dáng dấp thon thon kia chính là Tĩnh Tử. Liền bước tới hỏi:

- Có phải a tỷ ngồi đó chăng?

Tĩnh Tử nghe tiếng tôi gọi, thì mừng rỡ vô cùng. Quay đầu lại vội vã, hẳn nhiên mà rằng:

- Tam Lang! Sao về muộn thế? Không sợ gió biển lạnh lẽo hay sao? Em ngồi đây chờ đợi anh đã lâu, lúc ra biển Tam Lang có mặc thêm áo vào thân thể hay không? Trời chiều hôm, khí hậu không như ban ngày, Tam Lang ắt hẳn không chịu nổi đâu. Chẳng nên lang thang như thế người nhà lo âu. Tam Lang hãy giữ gìn thân thể, cái rét chiều hôm đâu phải chuyện chơi.

Tôi đáp:

- Cảm tạ a tỷ lưu tâm chiếu cố. Trời lạnh lẽo, đêm tịch mịch, a tỷ ra ngồi đây, tư lự chuyện gì? Em gái tại hạ vì sao không cùng đi với a tỷ?

Tĩnh Tử nhỏ nhẹ lời mà rằng:

- Thân hèn cỏ nội hoa cồn, có chi đáng tiếc, để Tam Lang bận lòng. Em vừa ở nhà ra đây. A mẫu, lệnh tỷ, lệnh muội và di mẫu, cùng họp tụ ở nhà bếp gọt dưa, chẻ mướp. Chỉ một mình em rỗi rảnh ra đây, phụng bồi Tam Lang, Tam Lang về gặp nhau đây, lòng em thư thái lắm.

Tôi cảm tạ nàng mà rằng:

- Thâm cảm a tỷ hậu ý kiến đãi! Quý phất khắc đương? Vọng a tỷ thứ hồi, vô mạo dạ dĩ trữ ngã!... Rất mực cảm kích ý nồng của a tỷ đối với tại hạ. Xấu hổ vì mình cảm thấy chẳng đáng được nhận tấm lòng của thiên hương. Mong a tỷ quay về nhà, đừng xông sương đêm  giá lạnh mà chờ tại hạ ra như thế. Tấm lòng ân đức của a tỷ, tại hạ cảm thấy rất mực rằng mình chẳng đáng đón nhận một tý ty giọt nhỏ liên tồn dục trích nào đâu.

Tĩnh Tử ra chiều bực tức mà rằng:

- Tại sao anh ăn nói có vẻ lẩn quẩn kỳ quái như thế?

- Kỳ quái như thế nào?

- Anh làm ra vẻ... tục gọi là kẻ nhiều mặc cảm.

- Hỡi ôi: Có lẽ đúng và cũng có lẽ không. Xin cô nương thử nghĩ...

- Thử nghĩ cái chi?

- Thử đặt mình vào địa vị một kẻ lạc loài từ thuở sơ sinh, quen sống ở giữa lầm than địa ngục, rằng quen mất nết đi rồi... Thì từ đó về sau.

- Về sau như thế nào?

- Nếu bất thình lình cô nương hạ tứ ném châu gieo vàng, chan rưới mưa móc liên tồn thiên hương tràn lan ra cho nó, nghĩa là dùng một cái xô ùa nó xoay tít từ Địa ngục lên tột đỉnh tột vời Thiên đường, thì làm sao có thể...

- Có thể cái chi?

- Có thể nó sống nổi trong cát sát na kỳ ảo đùng một cái nối tiếp hai thái cực một vực một trời? Người xưa  có nói: "Sự gì cũng phải từ từ. Đốn tre đẵn gỗ, mò cua bắt chuồn chuồn cũng vậy. Hà huống...

- Hà huống cái chi?

- Hà huống sự vụ ban hạnh phước hồng ân lai láng liên tồn cỏ tơ xum xuê tươi tốt. Cái khung cửa kia vốn dĩ là đã hẹp, thì cứ mở ra cũng phải mở từ từ, há đâu đùng một cái mở toang cả hai cánh ra một lúc bất thình lình cho được.

Nói xong, tôi ngậm ngùi dấn bước, toan băng qua cửa vào nhà. Nhưng Tĩnh Tử vội vã chạy theo gọi giật lại:

- Tam Lang  cho phép em hỏi anh vài điều.

- Cô nương sao khách khứa như thế! Có việc gì cứ hỏi. Tiểu đệ không có sự gì không hết lòng giải thích  cho a tỷ rõ ràng.

Tĩnh Tử ngần ngừ một chút, rồi thấp giọng ôn tồn mà rằng:

- Tam Lang , từ ngày biết nhau, em thấy Tam Lang có vẻ mang chứa một mối sầu gì khó tả. Đó là bởi cái cớ gì? Tam Lang buồn, thì khiến người ta cũng buồn theo. Nay em mong manh giải thích cho một chút.

Lúc bấy giờ lòng tôi đã rõ. Hung triệu đang lảng vảng quanh mình. Tôi đứng im không nói.

Tĩnh Tử hỏi tiếp điều hai:

- Tam Lang có biết duyên do bởi đâu mà hôm nay a mẫu yêu cầu a di cùng lệnh tỷ đi lễ Đạm Đáo Minh Thần? Em tưởng rằng Tam Lang tất nhiên chưa rõ lẽ điều đó.

Nghe nàng hỏi thế, tôi trố mắt nhìn ra, không biết đáp lại như thế nào cả. Cuối cùng mà rằng:

- Quả đúng như a tỷ nói. Tiểu đệ  chưa rõ lắm.

Tĩnh Tử thấp giọng, lời nói hổn hển ngậm ngùi không nghe rõ tiếng, đại khái dường như nàng nói thế này:

- Tam Lang nghĩ lại xem, ấy chẳng qua chỉ vì chàng và em đây mà thôi vậy.

CHƯƠNG MƯỜI SÁU

Ngực tôi bỗng chấn động hãi nhiên, tôi hiểu điều cốt yếu trong lời nói hổn hển kia. Tôi bàng hoàng gay cấn, quày thân bước tẽ sang bên. Rồi cố lấy giọng chậm rãi, làm bộ thản nhên, đưa tay chỉ mặt biển mà rằng:

- A tỷ nhìn ra ngoài kia, cái bóng đen gì như thế ở giữa lòng biển mù khơi. Dường như đó là chiếc ghe ngư phủ lạc loài ở trong sương. Phải chăng? Phải chăng? Nhiên da? Phủ da?

Tĩnh Tử cúi đầu không đáp, nàng bước tới sát bên ngực phổi tôi, đưa hai làn mắt xanh nhìn vào mặt tôi một cái. Tôi đứng dưới màu trăng minh mông, ngưng thần nhìn kỹ hai má nàng, ngó tỉ mỉ vào hai môi miệng nàng. Ói phù dung như diện, liễu như mi. Một khuôn mặt huyền ảo. Như vầng nguyệt nguyên tiêu với làn tóc mây lòa xòa xung quanh xúm xít lại. Lúc nấy giờ cảnh vật bốn bề lặng lẽ, vạn vật cô liêu... Lòng tôi mất hết khả năng tự trấn định. Tôi ngẩng mặt ngó lên trời. Trời tràn lan ô vân hắc vụ. Chỉ lấp lánh vài đóa gnôi sao lạc lõng phiêu phiêu hốt hốt nhấp nhô chút tàn phai ánh sáng... " In every land I saw, wherever light illumineth, Beauty and Anguish walking hand in hand the downward slope to death... "

- Khắp nơi nơi xứ sở đất đai người? Nơi ánh sáng lập lòe nơi u tối? Tôi chỉ thấy riêng một niềm vòi või? Lạnh căm căm hồ hải mộng tan rời. Ói kiều diễm và hoang mang khắc khoải. Nắm tay nhau bước xuống dốc xuôi đời. Về cõi chết âm u ồ vô hạn... Còn gì đâu sau những phút chung ngồi?

Tôi bất giác tự nhủ: "Hỡi ôi! Đây phải chẳng thế gian của con người. Vùng đất đai này không còn bờ thanh lục nguyệt. Đêm nay vì duyên do nào, ta lạc lõng về chốn non nước bi thương này".

Tôi đang nghĩ bần thần ra như  thế, chợt có một vật gì như một mảng bông tơ nõn xứ Ngô dịu mềm ấm áp đặt thiêm thiếp lên bàn tay tôi. Té ra đó là bàn tay Tĩnh Tử đặt lên, nắm lấy tay tôi, kéo tôi lại, kéo tôi lại ngồi lên một tảng đá lạnh không khô. Tôi đành ngồi sát bên nàng không cách gì thoát thân. Lâu lắm, Tĩnh Tử mới lên tiếng nói, bằng giọng réo rắt trong veo, nhưng như sầu như oán:

- Em xin hỏi anh Tam Lang, dì đã nói với anh về chuyện chúng ta chưa?

- Tôi lúc bấy giờ tâm thần hoảng hốt, tay chân như muốn run lên lẩy bẩy, hai hàm răng suýt lật bật cằm cập. Tôi cúi gầm đầu xuống, không dám ngó nàng. Trong lòng tự nhủ:lưới tình bủa vây, có chấp cánh cũng không dễ mà bay đường trời.

Chỉ nghe Tĩnh Tử liên tiếp hỏi dồn dập:

- Tam Lang! Quả thật a di đã nói lời gì? Tam Lang chẳng lẹ không hiểu gì hết cả về thế tình hay sao? Hay là Tam Lang trong lòng rõ hết, mà không chịu nói ra lời? Vì lẽ chi em phiền não thế này? Vì lẽ chi anh chẳng đoái hoài chút gì cả? Em cứ thấy anh ủ rũ ưu tư hoài, nhưng không dám hỏi han làm rầy anh. Anh chẳng thấy nhìn gì hết cả hay sao? Hay Tam Lang trong lòng rõ hết, mà không chịu nói ra lời? Vì lẽ chi em phiền não thế này? Vì lẽ chi anh chẳng đoái hoài chút gì cả? Em cứ thấy anh ủ rũ ưu tư hoài, nhưng không dám hỏi han làm rầy anh. Anh chẳng thấy nhìn gì hết cả hay sao?

Tôi cố gắng sức chế ngự mối kinh hoàng, lắp bắp mà rằng:

- A nương chẳng có nói gì hết. Dẫu có nói, tôi cũng mơ hồ không hiểu và không còn nhớ gì.

Tôi vừa  thốt lời đó ra, chợt cảm thấy Tĩnh Tử gân mạch lẩy bẩy đảo điên, bàn tay nàng rời rã buông xuôi . Tôi biết nàng kinh ngạc dị thường vì lời nói của tôi. Tôi đương tìm sự khác nói lãng đi chợt một trận gió não nùng từ ngoài biển thổi lại, thổi tới ghềnh đá núi, băng ngàn mà đi. Tôi đứng im lìm Tĩnh Tử hoảng nhiên nhìn bốn phía, nàng thò tay vào trong mình mẩy, rút ra một tấm khăn đem ấn vào giữa lòng bàn tay tôi như ấn một vật ôn tồn huyền bí. Rồi lên tiếng bảo:

- Tam Lang, trong chiếc khăn tay này có thêu thùa lê hoa tiên ở một góc, em thuở còn nhỏ  học thêu với mẹ và làm nên vật đó. Em xin tặng anh, gọi là báo đền chút ít bức kiệt tác hôm nay. Anh hãy nhận cho. Vật mọn chẳng đáng kể là bao. Nhưng Tam Lang sẽ thấu hiểu lòng em.

Tôi nghe nàng nói như thế, không còn biết tính sao. Tự nhủ: Từ chối không nhận thì lòng không nỡ. Nhận lấy thì ắt sẽ lâm vào tình cảnh thấy vật nhớ người. Làm sao tôi có thể đáp ứng được tâm nguyện mẫu thân và hoài vọng Tĩnh Tử? Tôi lẩn quản tư lự chẳng biết làm thế nào Tĩnh Tử còn muốn nói nhiều tôi chỉ nghe thấy tiếng gió lạnh thổi tràn, heo hút khắp nước non, sóng biển gầm thét đập vào đá ghềnh, thê thảm bi hùng như ba quân tan tác, hào lũy tan hoang.

Tĩnh Tử cầm  chiếc khăn gấp lại tỉ mỉ, nhét vào túi áo nơi ngực tôi, rồi nắm lấy cánh tay tôi, nàng ôn tồn áp má nàng vào đó. Thổn thức như muốn khóc:

- Tam Lang! Nhận lấy vật ấy đi và đừng buốn nữa. Em cầu nguyện Trời Xanh và Thượng Đế Như Lai che chở anh khỏi tai ương. Bây giờ chúng ta hãy cùng về nhà gặp mẹ.

Tôi ngẩn ngơ đứng ù lỳ không nói, chỉ cảm thấy phổi tim máu me đập dữ dội, như muốn nhảy vọt ra ngoài. Tĩnh Tử kiều diễm dị thường ân cần nắm tay tôi dắt đi như đắt một con chó con, và chậm rãi bước. Về tới phòng gác, cảm thấy có phần sáng sủa của trí óc chút ít ra, nhưng tình tự máu tim vẫn bồi hồi phân loạn rời rạc như nhà mà không còn tìm ra đâu lối vào cửa quỷ.

Đêm đó tôi mới  giác ngộ ra rằng nếu không thoát ly linh hồn ra khỏi thân thể, đem tấm hình hài máu me hoàn lại cho phụ mẫu, thì ngoài ra, không còn cách gì thoát ra khỏi được cái cửa ải eo óc của tình yêu tình lụy, mà ly khai những cạm bẫy rối rắm bủa vây bốn mặt ba bề.

Tình chấn động suốt vùng cây suối liễu
Mà bỗng dưng nay chẳng kiếm ra dòng
Lời lẩn quẩn theo vần lôi thôi nhuốm
Màu gẫm suy cái chết của thân mình
Đành thế vậy miễn là em chịu muốn
Anh rời bờ lìa cõi thế điêu linh

CHƯƠNG MƯỜI BẲY

Tân toan hái củ cuốc cày
Mồ hôi máu lệ nhuộm đầy tay thôi
Nghèo xơ xác luống trông vời
Tháng năm hồ diện nước vơi lại đầy.

Ngày hôm sau, buổi sáng trời xanh vô cùng. Nhưng khí hậu rất lạnh lẽo. Thâm đông quý tiết thật là đến chỗ gay cấn. Mẹ tôi dậy sớm bảo người bếp sắp đặt bánh trái ra và đồ ăn thức uống, mọi người tề tựu trong phòng, tiếng nói vui tươi nhộn nhịp nghe như chạy tàn. Hôm nay người chị tôi sắp quay về nhà chồng. Tĩnh  Tử lúc bấy giờ búi tóc theo thời xưa đời Ngụy " hiểu hà trang" (khói mây buổi sáng) Một món tóc lòa xòa lệch nghiêng xuống vai bên phải. Lối búi tóc đó tuyệt nhiên không có gì giống thời trang lúc bấy giờ. Nàng e lệ nghiêng thân chào tôi, trông càng kiều diễm thêm ra. Tôi lại bên lò bếp ngồi xuống, lòng cứ bồi hồi không yên nhân vì trong đêm trước nói chuyện với nàng bên bãi biển, tôi chưa nói rõ ràng cái gì ra cái gì cả với Tĩnh Tử.

Lát sau chị tôi từ biệt mọi người, thì Tĩnh Tử nắm tay em tôi đưa chị tôi ra cửa. Tôi bước theo sau. Ra tới đường, mẹ tôi đứng một bên bảo tôi hãy đưa chân chị tôi. Tĩnh Tử nghe thì vẻ mặt lộ vui mừng, nàng liền chạy cầm mũ sách can đen lại cho tôi.

Tôi nói:

-  Cám ơn a tỷ ân cần chiếu cố.

Chúng tôi cùng đi tới nhà ga. Tới khi còi tàu huýt, tôi từ biệt chị. Trên đường về chỉ còn tôi và Tĩnh Tử và em gái tôi mà thôi. Tĩnh Tử chậm rãi bước đi, xa xa trông thấy những người nông dân cày cấy, nàng đưa tay chỉ cho tôi nhìn, thuận miệng nàng ngâm:

"Thái lăng tân khổ phế lê sừ
Huyết  chỉ lưu chu quỷ chất khô
Vô lực mãi điền liêu chủng thủy
Cận lai hồ diện diệc thu tô"
(Hái củ tân toan lưỡi cuốc cày
Mồ hôi máu lệ nhuốm đầy tay
Không tiền mua ruộng đành cấy mướn
Hồ diện đến ngày lại mướn thuê... )

Tam Lang! Đó có phải là thơ của Phạm Thạch Hồ (Fan Sek-hu) hay không? Tại đời Tống dĩ nhiên.Thế mà cho đến ngày nay trong nước ta tiền thuế ruộng cũng nặng nề quá mức. Em nghĩ tới những người nhà quê mà thương  cảm vô cùng.

Tĩnh Tử nói xong thì thở dài, bỗng chốc mặt mày nàng ửng đỏ. Nhìn tôi nói:

-  Tam Lang có thấy nhọc mệt chăng? Mấy ngày nay trong mình có thường không? Sáng nay em nghe mẹ em cho biết rằng ba bữa nữa, mẹ em sẽ dẫn em gái anh cùng em về Sương Căn. Chẳng rõ lúc bấy giờ anh Tam Lang có bằng lòng cùng chúng em đặt lại gót giày dép lên đường?

Nghe nàng nói như thế, bao ý niệm bỗng theo nhau tới, tôi không kịp đáp ngay. Quay nhìn nàng, mặt nàng  che ở phía sau tấm  dù, nàng đưa mắt nhìn, có vẻ như bẽn lẽn.

Tôi nói:

- Nếu mẹ tôi đi, ắt tôi cũng theo mẹ đi.

Nói xong, thì quay nhìn nàng một lần nữa, thấy mày mặt nàng đượm vẻ buồn rầu. Phút chốc bỗng thấy Tĩnh Tử òa khóc nói:

- Sáng nay vào phòng ăn, em nhìn thấy anh Tam Lang vẻ mặt sầu não? Chẳng lẽ trong mình anh có đau ốm gì? Còn nếu anh Tam Lang có điều chi thương cảm, xin anh đừng ngại nói ra cho em rõ, anh đừng xem em như người ngoài.

Tôi trầm ngâm ù lỳ không đáp.

Tĩnh Tử lại ôn tồn hỏi tiếp:

- Anh giận em đấy ư? Sao chẳng thèm đáp lời em hỏi:

Tôi dừng bước cất cao giọng nói:

- Lòng tôi bồi hồi, chẳng rõ do nguyên nhân nào.Làm phiền a tỷ chiếu cố hỏi han, tự thấy xấu hổ còn biết nói năng gì! Chỉ mong a tỷ độ lượng thứ cho.

Tôi vừa bước đi vừa suy nghĩ. Bỗng nhiên tim máu giật mình, không chịu đựng nổi, thất thanh la hoảng:

- Hỡi ôi! Lòng tôi đau đớn ân hận thế này, ắt là không  bao giờ nguôi được.

Tĩnh Tử tuy nghe rõ lời tôi, nhưng tuyệt nhiên chưa ngờ ra tâm ý tôi muốn nói gì. Nàng lặng lẽ không thốt lời nào cả. Nhưng từ đó gương mặt nàng nhuốm đầy ảo não trông thật hết sức tiều tụy. Nàng rút tấm khăn hồng thật hết sức tiều tụy. Nàng rút tấm khăn hồng ra lau nước mắt, lầm lũi đi, xiêu xiêu lệch lệch. Nàng vẫn kiếm ra lời an ủi tôi, vừa an ủi tôi nàng vừa tiếp tục khóc mãi, đến nỗi áo nàng ướt đẫm nước mắt.

Tôi kinh hoàng tự nhủ:

- Cả hai đứa chúng tôi cùng thê thảm thế này, ắt là không sống lâu được.

Gần trưa, chúng tôi về tới nhà. Tĩnh Tử và tôi, không đứa nào đến phòng ăn dùng bữa.

CHƯƠNG MƯỜI TÁM

Chị tôi đi, chẳng mấy chốc đã được ba ngày. Lúc bấy giờ, gió tuyết dữ dội, tôi đóng chặt cửa sổ, ngồi im suy nghĩ. Lúc bấy giờ, tâm niệm tôi cùng với tuyết hoa gió bão theo nhau bay tán loạn vào khoảng trời biển mang mang. Tôi tư lự lâu lắm bồi hồi đứng lên lẩm nhẩm.

- Trời Xanh! Trời Xanh! Vì lẽ gì suốt ngày tôi mang cái khối u hoài gậm nhấm mãi máu me, không cách gì xua đuổi cho tiêu tan đi được? Học đạo không thành, cuộc sinh nhai phôi phai tản mác. Thì ngày sau ăn năn ân hận cũng muộn mất rồi.

Tình là cái gì như thế? Tại sao nó liên miên đi sát lụy? Tâm thần con người ta không còn một chút thư thái thanh bình nữa hay sao? Một tình yêu thứ nhất? Một tình yêu thứ hai? Một tình yêu cứ bị buộc ràng có lẽ bởi tình nghĩa cứ xung đột nhau hoài.

Trời Xanh! Trời Xanh! Nếu Trời Xanh hỏi con yêu ai nhất trong đời con, nếu như hoàn toàn giả dối, ắt con sẽ bảo rằng: "Con yêu Phật nhất. Con yêu Tiên nhì". Nếu như con giả dối lưng chừng, ắt con sẽ trả lời rằng: "Con không yêu ai hết cả". Nhưng nếu ngày phán xét cuối cùng,Thượng đế hiền từ nhìn vào đáy mắt con mà nêu câu hỏi: - "Tam Lang! Thuở trần gian con đã yêu ai?" thì ắt con đáp không ngần ngừ một chút: -"Con yêu Tĩnh Tử và con yêu Tuyết Mai"- "Con muốn cưới ai?" - "Con không muốn cưới ai hết cả. Con chỉ muốn lấy nhau mà không buộc phải lấy nhau suốt đời!" - "Vì sao như thế?" -"Vì ăn ở với nhau suốt đời, thì ăn ở với nhau suốt năm suốt tháng. Ăn ở với nhau suốt năm suốt tháng ắt sẽ chán chường nhau, biến nhau thành những kẻ tệ bạc. Thì đâu còn cái nghĩa của tam sinh thạch thượng cựu linh hồn? Con kinh hoàng trước cái mộng vô biên đang lù lù yêu sách những gì mà máu me xương xẩu phù du không thể nào đáp ứng. Con sẽ già, con sẽ chết, con sẽ ngày ngày chứng giám người vợ già, người vợ chết. Con không thể nào quan niệm được sự vụ đồng tịch đồng sàng đồng quan đồng quách? Và con cũng không đủ tàn bạo để mỗi lúc chán chường mỗi chộp lấy con vợ bóp cổ cho nó chết đi rồi quay lưng lại tự mình bóp cổ mình cho chết".- "Nhưng chuyện gì phải quyết liệt từng phen như thế? Cứ ẩn nhẫn chịu đựng, rồi thời gian sẽ gúp con vượt qua mọi buồn đau ảo não. Chiều nay con chán chường, biết đâu sáng mai con sẽ vui thú trở lại. Ngọc sóng xuống, ngọc triều lên, theo lẽ tiêu trưởng danh hư. Con hãy thuận theo, thì thời gian  chính là thang thuốc bổ"- "Nhưng thang thuốc bổ ấy, cuối cùng tiêu diệt mất sinh mệnh con. Thì kể làm chi những phen nó tạm thời xoa dịu?"

Tôi lẩm nhẩm cuộc đối thoại não nùng kia. Cuộc giải đáp không bao giờ có lời đáp viên mãn tự cổ chí kim.

Tôi nghĩ tới Kiyoko Tĩnh Tử... Tôi nghĩ tới...

I thought of Kiyoko magnanimous and high of spirit. She ws also exceedingly good and profound in learning.Yet, judging from her eyes, she held rich promises of love, and was much to be feared. Even if I were a general of Yu or Yen (modern Peking) I could not bear to take up a sharp steel blade to drive this soft, attractive creature to the northern desert sands.

Tôi nghĩ tới Tĩnh Tử bao dung từ bi cao nhã, thông tuệ tuyệt vời. Nhiên dĩ nhãn ba quyết chi, tắc hưu nhi nữ tình trường, thù kham úy bố. Cho dẫu thân phận tôi lúc bấy giờ làm U, Yên lão tướng, cũng chẳng thể nào vung cương đao tuệ kiếm, xua nàng nhi nữ kiều diễm nọ về sa mạc Bắc phưong. Hỡi ôi! Lời thơ nào nói về bình minh Bắc Húc một lần kia như thế?

Bình minh nhất hiện phương mờ
Mai hồng Bắc Húc gieo hờ hhững sương
Hành hàng phụ nữ du dương
Mở phơi phóng nhiệm môi hường phiêu phiêu
Con người đãng khí vân tiêu
Vào cung Tử Diệt đăng kiều  Hóa sinh
Người ôi tơ tưởng bên mình
Mây trời Bắc Húc tơ tình tóc sương
(Appollinaire)

Vốn trước kia, tôi về Nhật Bản cốt để tìm về viếng thăm từ mẫu. Thì như vậy là thuận cái đạo trời và cái lý đất. Một tình lý tôi phải tìm cho ra trên mặt đất hoang liêu. Vì lẽ chi từ đó, tôi vướng vào bao nhiêu thứ tình thứ nghĩa mà sức lực bình sinh không thể nào kham cho hết. Vì lẽ chi một phen giáp mặt nữ lang kiều diễm nọ, tức thời bao nhiêu liên miên tình hoài quyến luyến xô ùa nhau tới vây bọc tôi ngột thở không lối thoát thân? Phụ mình, phụ người, không còn đâu  chỗ đất yên vui. Hỡi ôi! Lụy tình là cái chi như thế! Nan bình vưu oán, lịch cổ giai nhiên. Tôi nay há còn dám bỏ thân về với cái triều đình tan hoang u thảm nọ, tiêu diệt xuân xanh ở giữa cơn sầu trận oán? Phật bảo: "Phật tử ly Phật Tổ thiên lý, đương niệm Phật giới" (Phật tử xa cách Phật mấy ngàn dặm, vẫn phải ghi tạc lời giới huấn của Phật). Tôi nay về sau ắt phải trì giới vi cơ sở, kỳ thứ cơ hồ? Phải vậy chăng ru?

Tôi miên man tư lự như thế, chợt cảm thấy đoạn hoặc chứng nhân, gạt bỏ hết mọi ý niệm hồ đồ do nhan sắc kiều diễm hấp dẫn, thì lòng bỗng thấy thư thái dị thường, quyết tâm quay về tìm sư phụ, để giãi bày mọi niềm ăn năn sám hối. Tôi cũng nghĩ rằng sự đó, quyết nhiên không thể nào bẩm bạch với mẫu thân. Mẹ tôi mà biết được, thì mọi sự hỏng bét hết cả.

Hốt nhiên em gái tôi cầm một lọ hoa thêu bước vào:

- A huynh! Đây là đóa hoa em tự tay dệt theo thế thái "Từ Khê". A huynh coi xem có được chăng?

Tôi không nói lời nào, lặng lẽ nhìn đứa em. Chợt thấy lòng đau như cắt; tôi muốn nói cho em tôi biết là mình đã quyết định rời gia đình ra đi, e sợ rằng nói ra thì công cuộc sẽ hỏng mất.

Đến khi em tôi đi rồi, tôi nén lòng không được, gật đầu xuống bàn mà khóc tầm tã một trận.

Đêm đó lòng tôi vấn vít ngổn ngang như ngàn vạn ánh mây ở trên trời ùa về một lúc. Tôi nghĩ tới gương mặt tiều tụy của Tĩnh Tử ngày hôm đó, Nàng sắp đau ốm rồi. Dường như nàng đã suy gẫm thấu linh hồn hoang liêu sa mạc của  tôi, không còn  đâu đất đai thôn làng để cư lưu được nữa. Ngày nay kể ra chúng  tôi đã quen thân nhau ngần ấy, lễ giáo nghiêm ngặt chẳng có gì gì cản trở, tại sao tôi không thử đánh bạo tới phòng nàng một phen tối hậu, đem hết cuộc đời mình ra kể lại đầu đuôi ngành ngọn cho nàng nghe, hoạ chăng nàng sẽ tha thứ hết? Nàng cũng là một nhi nữ phi phàm, tình tố thăm thẳm, thì tôi câu nệ gì mà không thử bộc bạch? Chuyện gì phải vội vã hấp tấp bỏ đi, không có lời từ biệt? Không biệt mà ly? Có lẽ nào như thế?

Nghĩ như vậy, tôi liền xốc áo, bước xuống thang gác. Trong lòng vẳng nghe như có âm thanh nào trỗi dậy:

- "Ta hăm hở bước chân phù động, bởi vong tình nên thái thượng vong tâm. Nàng điêu linh thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàn tính mệnh... "

Xuống tới hành lang, chợt nghe âm thanh đàn cầm. Tôi biết đó là tiếng cây "bát vân cẩm" của mẹ tôi, do Tĩnh Tử bấm dây huyền lúc đó. Nàng rất thích gảy khúc đàn lạc Mai Hoa. Gảy tới đoạn " Dạ thiều thiều, du du gió lạnh, đài gương bóng nhạt, một ngọc đèn chong... mắt dầm giọt lệ... " chợt dừng hẳn lại, cung điệu rã rời không ngân lên được nữa. Dường như nước mắt nhuốm ướt dây huyền không phát tư âm đươọc nữa.

Tới khung cửa sổ tôi đứng lại im lìm. Chợt nghe tiếng em gái tôi:

- A tỷ, bức gấm thêu chị dệt sáng nay đã xong chưa?

Tĩnh Tử than một tiếng đáp:

- Chị muốn dệt cho anh Tam Lang một chiếc cà vát, thế mà ngày này qua ngày khác vẫn chưa xong chị thật là đứa vụng tay lười lĩnh quá.

Tôi biết em tôi còn thức, định quay gót. Chợt nghe Tĩnh Tử ảm đạm khóc lóc nói tiếp:

- Em có rõ a huynh vì lẽ chi suốt ngày cứ u sầu ảm đạm như thế không?

Em gái tôi đáp:

- Em cũng chẳng rõ duyên do. Sáng nay lại thấy a huynh ngồi một mình gục đầu lên bàn mà khóc liên miên. Chẳng hiểu vì sao như thế. Em thật lấy làm lạ. Nhưng không dám đem chuyện ấy nói lại với a nương. A tỷ bày cho em một cách gì an ủi a huynh được không

Tĩnh Tử đáp:

- Chẳng có cách gì được cà. Chỉ còn biết chờ ngày chị trở về Sương Căn, em sẽ gắng sức giúp chị, yêu cầu a huynh cùng đi. Chị về nhà ắt sẽ tìm ra cách khiến a huynh hết phiền muộn. A huynh tới nhà chị, em và chị hãy thay phiên nhau trò chuyện suốt ngày giải muộn cho a huynh, chắc là có thể nên được lắm. Em có nhận thấy a huynh mấy ngày rày mặt mày gầy ốm! Thật khiến chị buồn khổ vô cùng.Chị có một điều muốn hỏi em. Em có biết a nương, a di, hoặc a tỷ, có nói lời nào với a huynh chăng?

Em tôi đáp:

- Em chẳng có nghe gì hết.

Tĩnh Tử không nói thêm lời nào. Lâu lắm, than một tiếng:

- Hay là chị có hành vi gì đắc tội với a huynh chăng? Chị tuy không thông minh, há chẳng rõ gì hết cả hay sao...

Nói tới đó, lại thở dài một trận nữa. Rồi nói tiếp:

- Chờ đến sáng mai, chị sẽ yêu cầu anh Tam Lang giải thích...

Rồi thanh âm thổn thức tắt lịm dần, không còn nghe ra tiếng gì nữa... tôi xúc  động vô cùng trước tình cảnh đó. Tình yêu của nàng quá sâu thẳm. Tôi thấy tê buốt khắp linh hồn, nước mắt lại trào ra. Quay về phòng gác, tôi ngã lăn vào giường.

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

Trời vừa chớm rạng đông, nỗi bối rối trong tôi chợt giảm nhẹ đi chút ít. Tôi tự nhủ: mình đã tìm ra chốn an tâm lập mệnh rồi. Rửa mặt xong xuôi, tôi lại bàn cầm bút, tư lự bồi hồi một chặp, rồi viết lá thư này:

Gởi Tĩnh Tử cô nương.

Than ôi, tiểu đệ xin cùng chị vĩnh biệt. Tiểu đệ thật ra là một nhà sư "tam giới câu túc" suốt đời không được cùng phụ nữ chung sống một mái hiên. Thịnh tình của cô nương ân ốc, cao nghĩa can vân, tiểu đệ không phải là thân gỗ đá, há đâu không cảm kích vô cùng.Nhưng em vốn sinh ra đời dưới một ngôi sao bạc mệnh gặp bao nhiêu chuyện đau khổ trên đường đời không làm sao nói hết. Em đâu nỡ đem thân phận nguy khổ phiêu linh của mình làm rầy rà cuộc sống bình sinh của chị? Nay em lên đường tay cầm gậy thiếc bước đi, làm một " viễn đầu đà" lang bạt. Trần trần sát sát, hội diện vô do.

(Today this hand of mine takes the Buddhist staff and I become a far roaming monk. I will wander far and wide; there will be no opportunity for us to meet again... )

Lìa nhà đi vội vã thế này, duy chỉ nhờ chị ở lại, đem lòng độ lượng từ bi tha thứ cho em, thay em ma bẩm báo lại với mẹ, với dì, giải thích tấm lòng em cho mọi người rõ. Chị khuyên ủy mọi người đừng vì em mà phiền muộn, chị sẽ khéo lựa lời khuyên nhủ cho mẹ già chịu gắng ăn uống cho no, đắp chăn cho ấm, như thế là thương con rồi.

Chị rõ chăng? Em đi là phải. Dù sao cuộc sống cũng còn chỗ để đi. Bước tới bước lui. Bước lần tối hậu nào vì sao chị có biết mọi người yêu nhau đều ở trong tình cảnh "đã sinh cùng nước cùng thì, cùng nhau không biệt mà ly đó là... " mọi kẻ yêu nhau đều đã chết ngay tử thuở sơ sinh. Tuy nhiên dù sao, -Why one has to raise up your dead, who perhaps have not died after all... Dù sao mỗi người ta còn có bổn phận làm hồi sinh trở dậy những kẻ chết của mình (và chính cái linh hồn mình đã chết) vì những kẻ chết đó biết chừng đâu chẳng chết thật sự đâu...

Ấu đệ Tam Lang hàm lệ đảnh lễ.

Tam Lang

Viết xong lá thư, tôi thay đổi y phục, vận vào áo quần đi đường. Tôi đem lá thư đặt vào chiếc giỏ bằng rạ khô, mà hôm trước Tĩnh Tử đã đem đựng trái cây tới tặng tôi. Tôi biết rằng sau khi đi thế nào Tĩnh Tử cũng lục soát căn gác và sẽ tìm thấy là thư trong chiếc giỏ ấy. Gói ghém soạn sửa xong xuôi đâu vào đó, tôi ngẩng nhìn đồng hồ: bảy giờ sáng. Chuông đồng hồ gõ "bong bong" như giục giã tôi lên đường. Lúc bấy giờ a mẫu, a di chắc là ở phòng ngủ đang loay hoay xếp đặt y trang phục sức cho em tôi, Tĩnh Tử và người bếp nữ tỳ chắc là đang ở bếp, hẳn nhiên là không lưu ý tới tôi.

Tôi lặng lẽ len lén ra mở cổng thoát đi. Bước đi mấy bước, ngoảnh đầu nhìn lại chợt thấy Tĩnh Tử xăm xăm theo gót... Mái tóc lòa xòa phủ xuống vai, rõ là nàng chưa kịp chải tóc.

Chợt nghe nàng bàng hoàng hổn hển hỏi:

- Tam Lang, đang tinh sương thế này anh đi đâu thế? Tuyết giá còn chưa tan anh chớ xông pha bừa bãi như thế. Điểm tâm đã sẵn, sao anh không chờ tí chút?

Tôi kinh hoàng, giở mũ chào nàng, kính cẩn đáp:

- Mấy ngày gần đây, tôi uễ oải trong người, lười biếng không tới hỏi han a tỷ mỗi sáng, mong a tỷ thứ cho. Bữa nay muốn đi ngắm cảnh Bạch Long Bất Động Tôn Thần cần phải đi trước lúc tuyết tan. Rất mong a tỷ đừng bận lòng vì tiểu đệ.

Tĩnh Tử bước tới trước mặt tôi, ngạc nhiên hỏi:

- Tam Lang vì lẽ chi bất thình lình mặt mày biến đổi tái mét ra như thế? Cảm mạo chăng?

- Không.

- Thế thì tại sao?

- Tiểu đệ không rõ. A tỷ nhận thấy đúng như vậy sao?

- Đúng như vậy. Tam Lang đừng giấu giếm em...

Bỗng dưng lòng tôi trào lên một nỗi gì khôn tả. Trong một sát na thiểm động, linh hồn tôi bỗng chất chứa một tư niệm gì bất khả tư nghị. Tôi la to:

- Những kẻ hoằng đại chết. Chết. Bọn họ chết. Cô nương nhìn lên? Và ấy ai tại đó? ( The high ones die, die. They die. You look up and who's there?)

- Dễ dễ lắm. Ở tại bên anh. Em đánh hơi nghe niềm ai oán... ( Easy ,easy... It is on your side. I smell your grief.)

- Tam Lang nhầm rồi Tam Lang phóng đại sự thật. Tam Lang phải ở lại yêu thương và chết. Yêu thương và chết - Love and die.

- Nhưng tiểu đệ đã chết thừa thãi thái thậm rồi. Song trùng nhị điệp rồi.

- Thế vẫn còn chưa đủ. Còn một lần tối hậu nguy nga...

Chợt nàng mở to hai mắt nhìn tôi. Tôi kinh hoàng không thốt lời nào cả.

Môt chặp... hai chặp... ba chặp... Chợt nàng dịu dàng lim dim hai con mắt lại, chậm rãi đưa hai bàn tay ôn tồn ấm áp đặt lên trán tôi, và bàn tay kia nắm lấy cánh tay tôi, ngậm ngùi nói tiếp:

- Đừng nói gì nữa cả. Viễn vông biện luận chả nghĩa lý gì. Anh đang lên cơn sốt. Cuộc đi này phải đình chỉ. Yêu cầu anh lập tức quay trở vào nhà vào giường nằm yên nghỉ. Chờ em bẩm báo với a mẫu...

Tiếng nói nàng run run thấp giọng, nhưng bao hàm một niềm kiên quyết dị thường.

Tôi thốt lời ấp úng:

- A tỷ thái quá tế tâm chiếu cố. Tiểu đệ chỉ thấy hơi chóng mặt qua loa. Chính vì thế nên có ý ra ngoài rảo rong một cuộc cho khuây tâm trí, hô hấp không khí ban mai. Xin a tỷ để cho tiểu đệ thong dong bách bộ một chặp. Vài giờ sau, tiểu đệ sẽ quay trở về được chăng?

Tĩnh Tử thản nhiên nhìn tôi, đưa tay sửa lại mái tóc, thở ra một cái nhè nhẹ, một chặp cất tiếng liền bảo:

- Được để em theo chân anh cùng đi.

Tôi hốt hoảng vội vã nói:

- Há dám phiền gót ngọc! Tiểu đệ đi một mình cho thư thái. Không có gì phải ngại, a tỷ ạ.

- Tĩnh Tử hơi nhíu hàng long mày, gắng chế ngự dòng nước mắt, ngậm cười mà rằng:

- Không nên như thế. Dầu phải tan xương nát thịt, em cũng quyết đi theo bảo vệ Tam Lang.Huống chỉ một vài giờ đi bộ. Tam Lang đừng có ngoan cố như thế.

Tôi đành bó tay, không tìm ra lời gì để khước từ. Cùng Tĩnh Tử chậm rãi bước đi. Trên đường tuyết rơi xán lạn, tôi ngẩng nhìn khuôn mặt phù dung. Trước  ánh sáng  tuyết pha vào, dung nhan càng diễm lệ tuyệt luân.Linh hồn tôi lại một phen bôn đằng dao động. Tĩnh Tử từ từ đưa bàn tay ngọc nắm chặt bàn tay  tôi, hoặc sờ vào mặt mũi tôi coi xem nhiệt độ máu me xương xẩu tôi như thế nào. Nàng còn định nói gì? Nàng không nói  gì  nữa  cả.{La vérité exprimée sans compromise à toujours des bords déchiquetés).

Có phải nàng đương nghĩ như thế không? Hay là chỉ riêng tôi nghĩ như thế. Sự lặng lẽ của nàng là thuận theo? Hay là tự nhẫn? Vì thuận tong mà tự nhẫn, và tảng lờ như không rõ ý tôi? Hay thật tình nàng không ngờ ra gì hết? Nàng muốn tránh nói tới ý nghĩa cuộc đi kia? - "Chân lý thốt ra không thỏa hiệp, bao giờ cũng có mép rìa tả tơi... ? "

Không biết. Tôi không thể biết.

Chẳng bao lâu, chúng  tôi đã tới bên bãi biển, chỗ vùng cát lõm xuống. Lúc bấy giờ, đương lúc ngọn triều rút xuống. Tĩnh Tử sập hàng lông mi, dường như đang suy gẫm... Tôi thấy nàng mặt mày ảm đảm cùng cực. Tôi thương cảm đưa cánh tay vòng ôm thân nàng, khuyên nàng nên ngồi nghỉ ngơi một chặp. Tĩnh Tử mơ hồ nhìn ra biển rộng không nói lời nào, thuận theo lời tôi, ngồi xuống trên mô đất trắng khô ráo. Lúc bấy giờ tâm hồn tôi đã có phần tỉnh táo, trấn định.Mặt mày không còn nóng  bỏng nữa, nhưng vẫn ngồi im lìm trầm mặc. Tĩnh Tử dường như cũng không còn bi thảm nữa, nhưng vẫn  đưa mắt mơ hồ ảm đạm nhìn mặt biển lấp lánh sóng xanh.

Lâu lắm, lâu lắm. Chợt nàng víu lấy vai tôi buồn bã hỏi:

- Tam Lang , tư lự cái gì triền miên như thế? Tam Lang có vui lòng nghe tôi nói ? đừng cho là đường đột sỗ sàng?

- Chuyện gì thế hả a tỷ?

- Bữa nọ anh tiếp nhận lá thư từ Hương Giang tới, một lá thư nho nhỏ màu hồng, li ti đầy những chữ Anh Cát Lợi và ký tên "Miss Roberts" Lá thư đó của cô gái con nhà nào như thế? Em có thể được phép yêu cầu anh cho rõ sự thật hay không? Em nhận định nét chữ của nàng thật là khả ái khiến người nhìn sinh quyến luyến ngay. Rất mực là trân hoa cách thể... Sao nàng lại dùng cái nét chữ tân kỳ loăng quăng tế nhị từ tả sang hữu mà mê hoặc tâm thần Tam Lang? Khiến Tam Lang mơ mơ màng màng tơ tưởng đâu đâu không biết gì đến sự vật xung quanh mình nữa cả? Em trong lòng quyết nhiên  đoán định rằng ý hẳn Tam Lang thương  cảm cái con người đào hoa bạc mệnh lạ lùng kia. Tam Lang nay có thể vui lòng  vì em mà nói rõ sự thật cho nghe chăng?

Bỗng nhiên nghe nàng nói một việc bất ngờ như thế, với giọng nói vừa thong dong vừa sầu khổ, khiến tôi như từ trên trời rớt xuống, không chuẩn bị gì ra gì được cả để đáp, tôi ngồi lặng thinh như khúc gỗ đăm chiêu, như hòn đá đờ đẫn.

Tĩnh Tử vẫn tiếp tục thanh vận chậm rãi kia:

- Tam Lang, vì lẽ chi ngậm miệng ra như thế? Anh không muốn cho em rõ một  chút nhỏ nào về câu chuyện ấy hay sao?

Tới lúc bấy giờ, tôi mới thủng thẳng đáp:

- Cô ấy người quê quán ở Madrid. Cha của cô ấy chính là ân sư  của tiểu đệ.

Tĩnh Tử nghe tôi nói như thế, thì mắt nàng rung động, thần hồn hoang mang, dường như cực cùng thê thảm tâm sự. Từ từ nói tiếp:

- Thế thì chắc cô ấy là một người kiều diễm tuyệt luân , Tam Lang làm sao có thể quên cho được? Và từ đó...

- Từ đó? A tỷ định nói gì?

- Alors vient le chant des fiancailles du Ciel... Và từ đó trở dậy bài ca hôn phối của Trời Xanh?

Nàng nói một cách nghe như hoan lạc vui tươi mà thật ra chứa chất mối sầu gì khôn tả.

- A tỷ lại rỡn tiểu đệ rồi.

- Sao là rỡn?

Nàng vừa hỏi vừa đưa mắt đăm đăm nhìn tôi,hai đôi anh đào còn khép mở dở chừng, như muốn dò hỏi đáy lòng tôi và xem xét cõi lòng tôi đang hướng tình yêu về phương nào như thế. Tôi nhìn nàng thấy dong nhan tiều tụy, chợt hai mắt nàng rớm hồng. Tôi biết rằng người con gái ấy thiên hoài hoạt bát, lúc bấy giờ sóng tình trùng điệp dâng lên trong mối phập phồng vô hạn. Tôi đứng trước một tình hống quẩn bách dị thường. Không biết ăn nói thế nào cho phải.

Lát sau, lấy vẻ nghiêm trang tôi đáp:

- A tỷ hãy nguyên lượng lòng tiểu đệ. Chất vấn nhiều như thế làm gì? Thật tình tiểu đệ chẳng có mối quyến luyến nào trong lòng  cả. Còn như mấy ngày rày phiền muộn miên man, thì ấy chẳng là phải như a tỷ tưởng. Tiểu đệ đã đi mòn hai gối khắp những ngã đường dọc ngang khốn khổ, ngày nay đã như người ở cõi khác mà về đây , chẳng mơ mòng tơ tưởng gì với cuộc thế mơ hồ này nữa. Đó là điều a tỷ cố nhiên là chưa biết.

Tôi nói  xong, Tĩnh Tử phất tay áo, che mặt khóc

- Nếu thật như vậy thì Tam Lang đã xem em như kẻ qua đường. Làm sao em có thể sớm biết được điều đó?

Một lát sau nàng nói tiếp:

- Ói! Tam Lang! Anh thật ra hướng về nẻo nào? Anh hoàn toàn hướng về người đẹp ấy, nếu không thì làm sao anh nỡ nhẫn tâm coi nhẹ tâm nguyện của hai bậc già nua mẹ và dì?

Nghe nàng nói thế, tôi bồi hồi mãi, càng không nỡ làm tổn thương mối tình của nàng. Ấy thật là: dẫu lìa ngõ ý còn vương tơ tình...

Tôi bèn thu góp lại những tơ vướng víu cũ lên tiếng bảo:

-  Tiểu đệ đâu dám như thế. Mọi điều nói vừa rồi, chẳng qua cũng là rỡn chút ít đấy thôi. A tỷ hà tất phải bận lòng khiến sợ hãi không còn biết ăn nói ra sao? Sự thật là tâm sự tiểu đệ có phần bối rối, nên lời nói sơ suất đấy thôi. A tỷ yêu mến em sâu xa lắm, xin a tỷ hãy thứ cho, thì em đa tạ. A tỷ bằng lòng như thế chứ?

Tĩnh Tử nghe tôi nói thế, nửa như vui nửa như sầu, nghiêng đầu tóc xuống vai tôi, rồi như giữ lại không thốt nữa cái điều đang định nói. Tôi an ủi:

- Bi thương là điều chẳng nên. Tốt nhất là nên quay về vậy.

Tĩnh Tử sầu oán chợt tiêu tan đi nhiều tươi cười đứng lên, cầm tay tôi hôn vào một trận.

- Tam Lang, hãy nhớ thế này. Từ nay bất cứ muốn đi đâu, nên cho em đi cùng đi theo với, thì lòng em vui sướng ngay. Còn như sáng nay anh xăm xăm xông sương gió đi một mình như thế, há chẳng là khiến cho người ta lo ngại cho anh lắm hay sao?

Tôi liền đáp:

- Xin ghi nhớ điều ấy.

Tĩnh Tử lúc bấy giờ cúi mặt xuống nhặt một chiếc vỏ nghêu màu hồng lục lóng lánh, cầm trong tay lăn qua lăn lại mấy lần, rồi đặt xuống trên mặt đất. Bề ngoài trông nàng có vẻ rất hân hoan. Chúng tôi sánh vainhau chậm rãi bước về. Trời bỗng trở màu u ám, như muốn mưa tuyết, mà lại chẳng mưa, trên đường chẳng có người đi, chợt thở ra một tiếng.

Tôi lo ngại hỏi:

- Vì lẽ chi thở ra như thế?

Tĩnh Tử đáp:

- Tam Lang có điều không vừa ý trong lòng, thì em không thể vui được.

Tôi nói:

- Tiểu đệ chỉ mong a tỷ hân hoan thôi. Lúc bấy giờ về đã gần tới căn nhà chơ vơ bên chân núi. Còn cách nhà chỉ vài mươi bước thôi. Tôi dừng chân nói:

- A tỷ về trước đi, an ủi mẹ già. Tiểu đệ lại đằng nhịp cầu gỗ đằng kia lượm nh8ạt một tý vỏ sò đem về tặng a tỷ. Cho phép em vài mươi phút vắng mặt nhé. Chỉ ngại a tỷ mong ngóng. A tỷ bằng lòng hay không?

Tĩnh Tử nói:

- Được lắm.Em bằng lòng về trước, lo cơm sáng cho anh.

Nói xong, cầm lấy tay tôi, nghiêm thân nói:

- Tam Lang, sớm về nhé. Em và em gái anh cùng chờ anh sớm về để cùng ăn điểm tâm. Tối nay chúng ta sẽ cùng ngắm trăng chiếu trên tuyết.

Tôi đưa mắt nhìn bàn tay tuyết bạch băng thanh của nàng, có hiện màu gân xanh lợt lạt, không nỡ bỏ đi ngay, bồi hồi một lúc lâu:

- Kính tạ a tỷ đối đãi ân cần.

Nàng dời chân dáng đi yểu điệu .Nàng lặng lẽ. Nhưng vì lẽ gì trong vắng lặng đìu hiu không khí, rõ ràng tôi nghe tiếng ca ngâm... Giọng của ai? Cùa một nương tử nào trong huyền thuyết? Của Diotima hay là tiểu thư quê quán Tây Ban Nha Madrid? Hẳn là không phải? Nhưng lời ca phảng phất mối sầu nào từ Dante? Beatrice Portinari? Hay Cosima Liszt???

Già suona mattutno, lento, lento.
Ritorno a casa e non veggo la via
Gli occhi lasciai teco e il sentimento!
E ne portai con me la gelosia...

(Đã nghe vang động chông mai
Lễ là kỳ tảo, hội là cưỡng câu
Tôi về nhà cửa sương thâu
Bước đi mà chẳng thấy đâu con đường
Bên chàng thiếp đặt tình thương
Mắt my môi miệng máu hường bình  sinh
Còn  riêng mang mãi bên mình
Niềm ghen tuông với bất bình xa xuôi... )

CHƯƠNG HAI MƯƠI

Tôi đưa mắt nhìn theo Tĩnh Tử. Ngậm ngùi than một tiếng:

- Tơ tình ràng buộc lòng người chặt chẽ quá!

Tôi gắng cưỡng chế sóng tâm tình, vội vã quay gót vòng quanh chân núi. Đang bước đi, chợt gặp người phu kéo xe tay, tôi gọi lại, leo lên xe ngồi, thẳng đường tới nhà ga. Mua vé tàu xong, tàu hỏa chuyển bánh, thôi thế thì thôi...

"Who ran to help me when I fell,
And would some pretty story tell,
Or kiss the place to make to make it well?..."

(Ai người ai kẻ giúp tôi
Lúc tôi té giữa khung đời dở dang
Ai đăm chiêu kể chuyện vàng
Ai hôn chốn cũ cho dàn mộng xinh... ?)

Hai ngày rưỡi sau, tôi tới Trường Trĩ (Nagasaki). rồi xuống tàu thủy sang Trung Hoa. Bấy giờ nhìn lại cảnh mặt biển đã từng chứng giám ngày tôi về Nhật...

Hai đoạn đời! Cách biệt nhau như trời cao và đất thẳm. Tôi đem hết bao nhiêu giấy mực và tặng vật Tĩnh Tử trao cho tôi, tôi đem quăng hết vào lòng biển. Tự nhủ: như thế là hết. Trút sạch làu tàu mọi kỷ niệm đau xót vào trong lòng nước ngàn năm nguôi lãnh...

- I told myself that the sorrows and trouble of my heart had also been swallowed into oblivion by the same waves...

"In over a year and a half,
I've only sung it one,
And I don't suppose I shall sinh it again
For months and months and months"

Đó là thơ của ai tôi không còn nhớ rõ. Nhưng nó về bây giờ giữa lúc tôi quyết liệt quên quên, trên mặt đại dương ngày nọ đã từng nhìn thấy tôi cao hứng dịch thơ Byron. Còn lại gì đâu của ngày nô nức cũ?

"Hơn một năm rưỡi trời tôi đã hát
Chỉ một lần tôi lên giọng cao ca
Và tôi tưởng không bao giờ còn hát
Lại một lần suốt tuế nguyệt dôi da
Bên cành hồng thụ phôi pha
Càn khôn riêng một đời ta hư phù...
Anh hoa phát tiết sa mù
Mùa dâng nhị bội sương phù du tuôn... "

Còn lại gì đâu? Đâu còn gì lại (cại lòn) của ty hào hoang mao nương tử. Dù nương tử ôn tồn thùy mỵ nhe răng cười huyền bí một đêm kia. Dù nương tử ỡm ờ ôi cợt ghẹo! Cái tồn sinh tại hạ mép bên rìa...

Tôi hối tiếc từng cơn yêu đắm đuối
Tôi bàng hoàng sống từng trận nam phương
Hồ phương diện gió phương lan lầm lũi
Biển phong lan triều nam diện lên đường.
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu giao động nỗi đời giao thoa
Hồn trong định mệnh đọc ra
Hỡi ôi dâu biển đầu hoa mơ hồ

- Blame not my rute! For he must sound
Of this and that as liketh me.

Đừng lên án tỳ bà cung bậc
Vì nó ngân huyền mật nọ kia
Như niềm hối tiếc bốc tia
Như hồn hoài vọng mép rìa tồn liên
Tỳ bà hỡi! Triền miên trở giấc
Lần lao công tối hậu một lần
Rồi ra lãng phí vô ngần
Sơ đầu chung cực đây lần sơ khai
Bởi  chưng cung bậc ngân dài
Chớm qua dứt tuyệt an bài đã xong...
Cung tỳ bà hỡi song song
Về sương nhị bội bên dòng tịch nhiên

(My lute, awake! Perform the lasts
Labour that thou and I shal wate,
The end that I have now begun;
For when this song is sung and past,
My lute, be still, for I have done.)

Hỡi giấc ngủ làm tiêu tan phiền não
Đứa con yêu của hắc dạ u nùng
Bồ bịch với tử thần từ muôn thuở
Nảy sanh trong vùng tĩnh tịch thân uyên
Xin giải khứ cho ta niềm uể oải
Và liên tồn thiết lập ánh dương quang
Phục hồi lại lãng quên sầu suốt xứ
Để triều ngày về kịp lúc than van
Những bão tố từng đánh chìm
xuân xanh mộng
Giúp nhãn quan đủ sức khỏe muôn vàn
Niềm khinh thị cuồng kiêu dâng trống rỗng
Chẳng cần chi đêm phi lý điêu tàn

(Care-charmer Sleep, son of the sable Night,
Brother to Death, in silent darkness born;
Relieve my languish, and restore the light
With dark forgetting of my care return,
And let the day be time enough to mourn
The shipwreck of my ill adventured youth;
Let walking eyes suffice to wail their scorn,
Without the torment of the night's untruth.
(Daniel)

Giấc Hy Lạp anh hùng Ulysse hỡi
Hãy về nhanh về gấp ở bên ta
Cùng sở hữu những bờ xanh bến lục
Gây não phiền là giông gió đại dương
Và tại đây ta giải phóng phiêu bồng.
Ngồi chứng kiến những lao công hỳ hục
Suốt bốn mùa trong thăm thẳm trùng dương
Ngày hoan lạc sát na tươi thắm nhuộm
Suốt đêm trường nằm ngủ mộng tinh sương

(Come worth Greek, Ulysses come
Possess these shore with me;
The winds and seas are troublesome,
And here we may be free.
Here may we sit, and view their toil
That travail on the deep
And joy the day in mirth the while,
And spend the night in sleep)

Sau hai ngày trên tàu triền miên cơn cớ phiêu bồng ra như thế,chúng tôi đã cập bờ Thượng Hải. Tôi lên bờ, lập tức giấn bước vào đô thành. Sắm vội một bộ y phục tăng lữ, tịch nhiên hướng về Vũ Lâm. Tôi vốn xưa nay hâm mộ cảnh đẹp Thánh Hồ, bấy giờ thuận đường ghé viếng một trận  cho thỏa tâm nguyện bình sinh. Lúc đến bên bờ Tây Tử Hồ, cảnh vắng lặng bao la khiến tôi mở rộng mắt nhìn suốt buổi, phiêu nhiên hẳn ngoài vòng lao lung khổ nhọc trần hoàn.

Phải rồi. Phải rồi. Thiên nhiên là cõi rộng từ bi, ban cấp cho con người cái kho tàng vô tận. Tôi nghe rõ giọng Thiên Nhiên man mác vỗ về.

- "Lúc ngươi yêu ta, ta cho người toàn thể vừng dương vừng nguyệt và ngàn sao trên trời, để đùa chơi cho thỏa mộng. Ta cho ngươi toàn thể thời gian vĩnh viễn của Thời Thể trong một thiểm động sát na. Ta cho ngươi toàn khối hùng cường núi non giáp trĩ, cổ thụ lâm tuyền trong một vìng tay ghì siết. Ta cho ngươi toàn khối đại hải sông hồ trong một nhịp nhập phồng của hồn ngươi náo nức... "

- When you love me. I gave you the whole sun and stars to play with. I gave you eternity in a single moment, strength of the mountains in one clasp of yours arms, and the volume of all the seas in one impulse of your soul".

Tôi bước lên một chiếc ghe con hình hài giống như quả dưa gang. Hướng về phía Mao Gia Phụ (bến tàu Mao Gia). Tôi khoác áo kiểm điểm hành trang, tìm tới chùa Linh Ẩn. Tức là nơi chốn mà Tống Chi Vấn từng vịnh:

"Lâu quan thương hải nhật
Môn đối Chiết Giang Triều"

(Lầu gác ngóng về phía mặt trời trên biển xanh.
Cửa ngõ đối diện với triều trước Chiết Giang).

Chiết Giang triều nước xuôi dài
Vừng dương ngóng mộng lâu đài biển xanh
Hồng môn đối diện đô thành
Thành đô diện đối trì hành lữ cung
Tiền môn lù hiện liên tùng
Khách đường phục chí tao phùng chỉn e
Buông rơi hành lý trên hè
Sa di chất vấn ai dè khách xa
Từ đâu đất trích tại nhà
Đừng chờ đợi tịch nhiên là ngỗng xưa
Hồn linh giải tỏa không ngừa
Tằng kinh thương hải xin chừa vũ vân...

( I went to the monastery door and thenon to the visitors' reception hall. After I had put my baggage outside the hall to the left side. I went to the right sight and stood as immovable as the proverbial swan -Liberavi animan meam"-I have freed my soul).

Một chặp lâu sau một nhà sư ra hỏi:

- Đại sư từ đâu lại?

Tôi đáp:

- Từ Quảng Châu lại.

Nhà sư nghe nói thì hân hoan mà rằng:

- Quảng Châu là nơi chốn phú dụ lắm.

Tôi không đáp, mò trong túi rút ra xuất thẻ tăng lữ đưa ông ta xem. Nhà sư xem xét xong, liền hân hoan dẫn tôi lên lầu gác phía Nam nghỉ ngơi. Phòng ấy khá rộng, có tới mấy trượng vuông, trong lầu chẳng có đồ vật chi hết cả chỉ có một ít gạch xám chất lại mà thôi.

Đến chiều hôm, bữa ăn chay dùng xong , tôi vội đi nghỉ, dùng những tấm gạch xám làm gối gối đầu, làm niệm gác chân. Giữa đêm thình lình thức giấc, không sao trở ngủ lại được, nghe có những âm thanh gì léo nhéo trong phòng. Lòng tôi kinh nghi, tưởng rằng phòng có ma quỷ cư trú. Lòng tôi sợ mãi không thôi. Tôi run sợ vội quấn tấm chăn trùm kín dầu, không giám mở mắt rục rịch gì hết cả. Mình mẩy mồ hôi ra như tắm. Đêm thâu chầy chầy, lòng tôi khổ sở buồn sợ khôn xiết. Trời vừa chớm tinh sương, tôi nghe tiếng chuông ngân, liền vùng dậy. Hỏi thăm nhà sư gác đêm, mới hay rằng trên lầu có nhiều chuột, đêm chúng kêu nhau nheo nhéo, chứ chẳng phải ma quỷ thần tiên thiên tần gì hết cả. Những khách tiến hương lai vãng, nghỉ lại chùa, vốn thường kinh hoảng ra như thế.

Ăn sáng xong, trụ trì tới chào hỏi tôi mà rằng:

- Sư từ xa đến đây, sớm hôm chả phải lên điện làm gì chỉ ra bên ngoài chùa quét lá khô rụng, chất dồn lại rồi đốt.

Tôi đáp:

- Xin trân trọng thụ giáo.

Quá ngọ, tôi được sai đi cắt cỏ và rửa cỏ tại chân đá Lãnh Tuyền Đình. Sống thong dong như thế năm ngày.Tôi cảm thấy thư thái trong lòng, chẳng còn biết chi tới những ưu hoạn nhân gian, những kinh hãi trần thế. Nghe gió, ngóng trăng, nhìn hoa, gọi lá, vạn niệm gột sạch làu làu. Tuy nhiên đôi lúc vâng, dường như... - "Zwei Seelen wohnen ach! In meiner Brust." (Goethe) Hai linh hồn hỡi ôi! Cùng cư lưu trong hung trung tôi vậy.

Làm thế nào? Làm thế nào! Phải tự mình chối bỏ mất mình đi. Đó là lời ca ngâm trăm năm vĩnh viễn.

Entbren sollst! Du! Sollst entbehren!
Das ist der ewige Gesang
(Goethe)

Meine Ruh'ist hin,
Meine Herz ist schwer

Miền thanh tĩnh trong tâm linh tôi đã mất
Trái tim tôi mang nặng những đau thương
Hồn vĩnh viễn ngậm ngùi như viễn khách
Lạc trong sương hoài niệm một thiên đường
Tình nghĩa cũ giữa đêm trường thống thiết
Lời than van sao mãi mãi như dường
Thanh xuân phơi phới mộng hường
Trong linh hồn dậy mùi hương năm nào
Hỡi ôi dâu biển dậy trào
Tầm sưu túy điệu ty hào rỗng tuênh...

Ich singe, weider Vogel singt,
Der in den Zweigen wohnet...
Ca lừng như mộng thênh thênh

Như chim hót giữa buồn tênh nhánh cành
Lá um tùm lồ lộ trái vàng cam
Vòm phơ phất tự trời xanh bỡ ngỡ
Rừng sim ôi bóng lục trúc đào lam
Miền cõi ấy nơi kia là chốn ấy
Cùng em đi tới viếng buổi khôn hàn
Song trùng đôi núi quan san
Người em yêu dấu còn hoang mang gì.

- Kennst dud as Land, wo die Zitronen bluehn Im dunkeln Laub die Gold-Orangen gluehn Ein sanfter Wind vom blauen Himmel weth Die Myrte still und hoch der Lorbeer steht-Kennst due s wohl?

Dahin! Dahin!

Moech ich mit dir, omein Geliebter, ziehn! (knom you the land where the lemon-trees bloom? In the dark foliage the gold oranges glow; a soft wind hovers from the sky, the myrtle is still snd the laurel stands tall-do you know it well? There, there, I would go, O my be loved with thee!)

Song trùng đôi núi quan san
Người em yếu dấu còn hoang mang gì
Cùng em ước nguyện xin đi
Ngôi nhà cỗ một lầm lỳ nín thinh
Trụ lăng cẩm thạch biên đình
Cảo thơm lần giở sao Tình Yêu phai
Lối mòn sơn đạo lẻ loi
Trong sa mù lạnh bóng lừa tịch liêu
Động Xưa Rồng Cũ Cựu Triều
Lâm tuyền Nham Thạch sương chiều dửng dưng
Miền kia  mộng ước không cùng
Vùng Thanh Cấm Nguyệt ta cùng nhau đi...
( Goethe)

Ich grolle nicht, and wenn das Herz auch bricht
(I do not murmur, even if my heart break)

Thở than nào có ích gì
Dẫu rằng tim máu vạn nghì tan hoang
Bởi đâu sầu khổ muôn vàn
Nghĩa gì như thế? Khôn hàn lao lung
Bởi đâu tim máu khôn cùng
Còn nghe vang dội song trùng sử xanh
Thần Tiên Chuyện Cũ chia ngành
Biển dâu phù động sịch mành sương sa...

- Ich weiss nicht, was sol les bedeuten
Dass ich so trauirig bin;
Ein Maerchen aus alten Zeiten,
Das kommt mir nicth aus dem Sinn.

(I know not why I am so sad
I cannot get out of my head
A fairy-tale of olden times... )
(Heinrich Heine)

Những câu chuyện thần tiên huyền ảo! Ói những ngày tôi cư lưu tại gia đình vị mục sư Tây Ban Nha năm ấy. Mục sư giảng dạy Âu ngữ cho tôi. Tiểu thư đọc Dante, Unamuno cho tôi. Ngày ấy xa xuôi lắm, kể như một thế kỷ trôi qua. Tôi chưa bao nhiêu tuổi, nhưng hình như đã mang hết mọi tuổi tác trần hoàn. Tiểu thư của Tây phương về Châu Á. Kỳ ngộ ngẫu nhiên rằng từ ngẫu nhĩ. Tới bây giờ tại hạ còn tỉ mỉ hoài niệm mỗi lời mỗi tiếng gieo vàng ném ngọc của cô nương.

Nel mezzo del cammin di nostra vita
(In the middle of the road of our life... )

Đứng ở giữa con đường bình sinh cuộc sống. Tại hạ quay đầu về hướng vọng mãi ân tình vô hạn của cô nương. Cô nương bình yên một bình sinh nơi lầu cao gác rộng. Tại hạ xin suốt đời phiêu dạt chân trời mặt biển để cầu nguyện sương tuyết cho cô nương...

Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Dư vang hạnh phúc một thì đã qua
Niềm riêng tại hạ chan hòa
Người ôi ấy kẻ tôi là tại đây...
Trút niềm giũ nỗi sơ khai
Tâm tình hoài vọng bỏ ngoài xa kia...

Lasciate ogni speranza voi ch'entrate!

(All hope abandon, ye who enter here)

Nessun maggior dlore,
Che ricordarsi del tempo felice
Nella miseria

(There is no greater sorrow
Than to recall a time
Of happiness in misery)

Hỡi ôi tại hạ là là
Hỡi ôi ôi hỡi lọ là hỡi ôi
Niềm đau nỗi khổ không lời
Liên miên tuế nguyệt muôn đời dây dưa
Không thay không đổi không chừa
Không hy vọng hão không thừa thãi dâng
Mà riêng tấc cỏ vô ngần
Dấu bèo cam chịu tử phần chịu cam...

(-"Ah me!
Pain, pain ever, for ever!
No change, no pause, no hope!
Yet I endure... ")

Cô nương phấn diện hội đàm
Biệt khai sinh diện ngậm hàm sương thu
Ni cô nuồng thúy lục phù
Chân kinh dưỡng dục thân tù tội thân

Lời đi lệch mất một phần
Hoàng mao a tỷ yên hàn lung sa
Trời mai trời mốt trời qua
Phỉ phong cốt cách mà ra phụ lòng
Hoa trôi nước chảy xuôi dòng
Xót thân chìm nổi đau lòng hợp tan
Lời xưa đã lỗi muôn vàn
Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây
Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây
Đỉnh chung sao nỡ kiếp này cho an
Hùng cơ hiêu cảo đa tàm
Hương giao hùng nhụy hoa đàm lục sim
Ly căn gia tốc diện tiền
Bào hoa bán đỗ ba hiền bốn nhân
Điên tam đảo tứ chuyên cần
Mẫn mai hoàng vũ thị gần thị xa
Mù khơi ma mộc giang hà
Mòn con mắt một người ta nhu mì
Nhị bù thập đắp thiên ty
Thần hoang vu dậy tiên quỳ hai chân

La Treizième revient...
C'est encore là première
Et c'est toujours la seule
Ou c'est le seul moment
Car es-tu reine ô toi la première
Ou la denière?
Ou le dernier amant?...
Es tu roi? Toi le seul
Aimez qui vuos aima du berceau dans la bière
Celle que j'aimais seul m'aime encore tendrement
C'est la mort
Ou la morte
Ó délice! Ó tourment!
La rose qu'elle tient
C'est la Rose Trémière

Em Mười Ba trở lại
Vẫn em thuở ban đầu
Vẫn em người duy nhất
Hoặc duy nhất phút giây
Phải em là Hoàng hậu
Thứ nhất hay cuối cùng
Phải em là Vua Chúa
Người duy nhất
Hay tình nhân chung cục?
Hãy yêu đi kẻ từng yêu người lắm đó
Từ trong nôi trong đáy chiếc quan tài
Kẻ ta yêu một mình
Còn yêu mãi
Em ồ em
Em mãi mãi đó mà
Ấy Tử Thần hoặc Người Em Tử Diệt
Ói não nùng ồ hoan lạc sương rơi
Đóa tường vi nàng nắm giữa tay ngời
Là hồng lục Đường Quỳ rừng tử trúc
Thánh nữ thành đô
Thiên thu trời Ý
Hai bàn tay đầy lửa rực lập lòe
Về Á Đông là lựu đỏ ven khe
Hồng phong nhụy là hoa tâm màu tía
Đóa hồng vàng của Thánh Nữ Gudule
Có tìm ra trong sa mạc đầu nguồn
Chiếc Thập Đá giữa thanh thiên vòi cõi
Hồng tuyết bạch hãy rụng rơi vội vã
Vì lẽ chi người lăng nhục Chư Tiên
Rụng rơi đi ma trắng giữa trời ghiền
Thánh hố thẳm, thánh hơn người lắm đó

Rose blanche, tombe! Vous insultez nos dieux Tombez,fantômes blancs, de votre ciel qui brule:

- La Sainte de l'abime est plus sainte à mes yeux!

- The Thirteeth returns...
She is still the first
And always the only one
Or the only moment:
For are you Queen, ô you!
The First or the Last?
Are you King
You the only or last Lover?
Love who loved you
From the Cradle to the Grave:
She whom I loved alone
Still loves me tenderly:
She is Death-or the Dead Woman
O delight! O tourment!
The Rose she is holding
Is the Hollyhock Flower.
Napolitain saint with your hands
Full of fires,
Rose with the violet heart,
Flower of saint Gudula:
Did you find your cross
In the Desert of the Skies?
White Roses fall!
You insult our Gods:
Fall, white Phantoms, from
Your burning sky:
The Saint of the Abyss
Is more saintly in my eyes!

Hỡi nương tử tiểu ái nữ của mục sư Robert ngày cũ! Nương tử chính là một nòi Nữ Thánh Hố Thẳm của tự như phiêu nhiên nhi lai, phiêu nhiên nhi thứ của Tử Trúc Lâm nào vô sở tong lai diệc vô sở khứ. Ngày xưa, đuổi ra khỏi gia đình tại hạ đã may mắn được chưởng môn phương trượng Tử Trúc Lâm nuôi nấng, giáo hóa mấy năm. Khi phương trượng bất ngờ viên tịch, tại hạ bơ vơ được gia đình cô nương đem về dạy dỗ, bày vẽ học tập sách vở Tây phương ân sâu nghĩa nặng thế nào. Mà riêng dong nhan và tâm hồn nương tử càng âm thầm giáo hóa ôm ấp tuổi thơ của tại hạ. Kể làm sao xiết muôn vàn... Ói nữ lang! Một lần trong liên tồn vạn đạo. Tại hạ không còn lời không còn tiếng  để nói ra huyền nhiệm của hoàng mao lục diện nga my những sát na khôn hàn thuở đó. Những thi ca Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha từ đó, đã phát tiết anh  hoa  ra ngoài , là chỉ duy tứ Tinh Thể của thiên hương quốc sắc nọ mà thôi. Nhưng vì lẽ cho cô nương thùy mị hồn nhiên đoạn trường là thế, cô nương lại giảng giải cho tại hạ quá nhiều về tâm sự Emily Bronte?

Ngày nay. Ngày nay mà bao nhiêu mộng tồn sinh của bình sinh tại hạ đã theo nhau tan rã xuôi chiều, nằm tĩnh mịch nơi cổ tự hoang liêu, hoài niệm cô nương, tại hạ chỉ còn biết ôn lại lời thơ ngày cũ, phiên dịch nó vào trong ngôn ngữ Á Đông này, riêng gửi cho gió vàng về ngọn cỏ lá cây...

Tù Nhân

Tuy nhiên bạo ngược nhà ngươi
Hãy xin rõ nhẽ con người của ta
Cả tua mệnh vận há là
Liên tồn chịu trận năm qua năm về
Há ru trầm nịch não nề
Nể lòng há lẽ ba bề rụng long
Bốn bề rung lộng vời trông
Rộng lưng tuyệt vọng bụi chồng chất than
Chẳng nhe ưu uất khôn hàn
Há rằng sứ giả muôn vàn biệt tăm
Niềm hy vọng nguyệt đêm rằm
Hằng hằng tĩnh dạ hội đàm đáo lai
Hiến dâng tặng vật khôn tày
(Khay tồn) Tự do vĩnh viễn cho ngày phù du
Đến từ trận trận gió tây
Với luồng thiên khí cuối ngày lang thang
Với hoàng hôn bảng lảng vàng
Trời thanh như lục lam dàn nghìn sao
Gió se từng sợi thì thào
Tư lường với lửa ngàn sao lập lòe
Vô ngần tượng triệu vàng hoe
Phất phơ phù động lệ kiều sát nhân
Niềm vui hứng ? Nỗi tần ngần
Liên tồn chết lịm tiên lần tồn lo
Tằng kinh thương hải xuống đò
Đáo lai bỉ ngạn khôn dò bỉ biên
Phiêu bồng dục vọng mãn thiên
Vô duyên lộng xõa với niên kỷ chầy
Cơn vui cuồng dại cuộc này
Giữa niềm khiếp đảm lệ đầy tương lai
Triều dự cảm, sông ngân dài
Đẫm trang hồng hạnh mỏng dày mấy phân
Trời bất tuyệt mộng thanh tân
Trời linh thể ngập bôn đằng sát na
Từ đâu tới những dư ba
Từ vầng nhật sáng hay là bão giông
Từ cơn chiếu diệu lục hồng
Hay từ sấm chớp vân mồng truy oan
Tuy nhiên sơ khởi một làn
Phiêu nhiên tĩnh tịch lại dàn cồn hoa
Vô thanh vô tức khuynh tà
Xuống chênh lếch bóng như là đà gieo
Cuộc tranh chấp vốn hiểm nghèo
Của nô nức với hút heo đoạn trường
Bỗng dưng chấm dứt như dường
Rằng từ ngẫu nhĩ vô thường ra hoa
Thần tiên thuyết thoại hay là
Tiên thần hiền thánh hanh hà thông hang
Thang hồng lồng lộng hai làn
Thanh lan rũ bức một hàng cỏ thơm
Vân niên cốc khẩu khe rờn
Đào tâm sự túy tiếu cuồng ca ngâm
(Sịch mành huyền hỏa cựu lâm
Đăng nhai đáo lĩnh sầm sầm uất sương
Hành ca thị thượng thế thường
Óng trời rớt hột vì thương bà trời
Tấm quần bà ướt chơi vơi
Đầu tiên xiêm trút mồ hôi con tườu
Bất cần xảo toán cơ mưu
Diêm sinh điếm đạm giấc trừu tượng mơ
Phi tiên? tức đạo lững lờ
Phi hiền? tức thánh tiên thờ phượng tiên
Diện tiền bất viễn tồn liên
Tiên đồn thánh lũy phi tuyền tuôn ra)
Âm thầm xoang điệu hòa ca
Máu trong me phổi da ngà máu me
Mé mau kỳ ảo lập lòe
Liên tồn nứt rạn lại lè xè ngân
Há rằng duệ địa toi đâm
Đi đời đất tiếu ngâm ngâm tuyệt trù
Tới bao giờ đến bây giờ
Tan hoang hào lũy mới ngờ cho ra
Bấy giờ bất chợt lập lò
Lóe ra một tí tia vô dạng hình
Cõi Vô Thức, miền U Minh
Huyền vi tịch hạp ôn hinh hai vành
Xòe ra xoạc tới chớp nhanh
Cù cưa đúm đẩy tam bành nhà ma
Ngất ngây chết lịm ngoài da
Thì trong tinh thể lại hòa chan cơn
Vèo bay đôi cánh xanh rờn
Cập bờ cố ý làm dồn rộng thêm
Dám toan khêu dược vang trền
Mép rìa tối hậu truông ghềnh thậm chung
Hỡi ôi nhịp điệu song trùng
Cuộc đừng cơn phập phồng hùng tâm se
Huyền môn tâm pháp khôn dè
Liên tồn khởi sự nhìn nghe liên tồn
Máu tim ráo riết dập dồn
Não cân ngong ngóng một dòng tư suy
Hồn cảm phách? Phách cảm ghi
Máu me khiêm thuận sầu bi xích xiềng
Dẫu sao hảo hợp là miền
Của tương xung của uy quyền âm dương
Thế sao là sổ đoạn trường
Bài ra thế ấy vịnh dường thế kia
Càng khắc khoải càng bốc tia
Liên tồn càng dập, mép rìa càng dâng
Triều ngây ngất, sóng lâng lâng
Ỷ liên thanh ngạn bên lầm than hang
Ban sơ cỏ mọc hai hàng
Ngần sương chiếu diệu huy hoàng tượng hoa
Dẫu rằng hoành đoạt thậm đa
Lửa đen hỏa ngục hay là dương quang
Dẫu như bất tuyệt khôn hàn
Dẫu rằng cơ sự muôn vàn nhà ma...
(Bạch hồng loạn trụy thiên hoa
Kim liên địa dòng mù sa đêm nào
Tinh vi vạn pháp ty hào
Mạn dao chủ vỹ em Tào Tháo ôi
Cửa thiên chấn động liên hồi
Lôi đình hội đạo ly bôi hội thiền
Tam tòa phối hợp như nhiên
Bronte thiết nhứt Nuồng Tiên thiết nhì
Ở truồng lắm lúc lắm khi
Lắm là rất mực ù lỳ lắm nghe)

THE PRISONNER

Still let my tyrants know, I am not do med to wear
Year after year in gloom and desolate despair
A messenger of hope comes every night to me,
And offers for short life,eternal liberty
He comes with Westerm winds,
with evening's wandering airs
With that clear dusk of heaven
that brings the thickest stars:
Winds take a pensive tone,and, stars a tender fire.
And visions rise, and change,
that kill me with desire.
Desire for no thing know, in my mature years
When, if my spirit's sky was full of flashes warm
I knew not when they came,
from  sun or thunderstorm.
But first a hush of peace-asoundless calm descends.
The struggle of distress and fierce impatience ends.
Mute music soothes my breast- unutter'd harmony
That I could never dream till Earth was lost to me
Then dawns the Invisible;
the Unseen its truth reveals;
My outward sence is gone, my inward essence feels;
Its wings are almost free-ist home,
ist harbour foud
Measuring the gulf, it stoops,
and dares the final bound
O dreadful is the check-intense the agony
When the ear begins to hear and
the eye begins to see;
When the pulse begins to throb-
the brain to think again
The soul to feel the flesh,
and  the flesh to feel the chain.
Yet I would lose no sting,
would wish no tourture less;
The more that anguish racks,
the earlier it will bless;
And robed in fires of hell,
or bright with heavenly shine
if it but herald death, the vision in divine
(Emily Bronte)

Bộ sách quý giá cô nương đưa tặng tại hạ ngày tại hạ đáp tàu sang Nhật, nag2y nay tại hạ nằm bên phương trượng chùa chiền,vẫn đem gối đầu năm canh, và bao phen lần giở... ột mùi hương huyền ảo từ đó cứ đi về vây bọc một cung thành mơ mộng suốt bờ cõi chiêm bao.

Thưa Gái ạ! Nếu gái về xứ sở-
Của dư vang về sử lịch khuynh thành
Thì quốc sắc bốc thiên hương rạng rỡ
Sẽ bao trùm hồn sông Lõa sông Xên
- Si vous allies, Mademoiselle, au vrai pays de gloire
Sur les bords de la Seine ou de la verte Loire.
Bell, digne d'orner les antiques manoirs
Vous feriez, à l'abri des ombreuses retraites,
Germer mille sonnets dans le Coeur des poètes
Que vos grands yeux rendraient plus soumis que vos noirs.
(Baudelaire)

CHƯƠNG HAI MƯƠI HAI

Od ekeinos ego. Phônê gar oro, to phat dzomenôn... (Chẳng cần chi kiếm ta nhiều. Ta ngồi đây ngóng tiêu điều hai tai)

HOMER

Chợt một ngày kia, vị giám viện tới bên tôi bảo:

- Mai là ngày Trung Nguyên tiết, tại thành nội, gia đình họ Mạch có tế lễ, vị thủ tòa đã phái lão nạp ứng phó cuộc kia. Ngài cũng  có hỏi "trong số trụ tăng, ai là kẻ khả dĩ chọn làm đồng bạn". Thì lão nạp đáp rằng chính đại sư là người thích hợp nhất. Thủ tòa rất lấy làm mừng rỡ mà  rằng: "Sư trầm tĩnh quả ngôn, tác trang sơn môn phong phạm, năng khởi thập phương tông ngưỡng".Hơn nữa, gia đình họ Mạch vốn là người ở Lĩnh Nam, thì đại sư cùng đi với lão nạp là phải lắm, tiện lợi lắm lắm. Hơn bất cứ kẻ nào khác. Vì vậy nên lão nạp chẳng thể nào chẳng đặng tá trọng ư đại sư...

Tôi  bèn  đáp mà rằng:

- Từ ngày tôi xuất gia tới giờ, vốn chẳng có dịp quen với công cuộc thể lệ đó. Ngoài việc thằp hương niệm tụng tâm kinh đại bi ra, thì tôi chẳng còn khả năng gì nữa cả. E rằng sẽ không ứng phó được chu đáo niềm kỳ vọng của đại sư?

Vị giám viện đáp mà rằng;

- Pháp quy cúng dường, chừng đó đã đủ rồi. Lại có thêm ba người phụng thị, rất mực thông thạo sự việc. Tiểu sư phụ chỉ cần giúp chúng tôi đốt nhang, gõ chuông mõ, thắp đèn lai rai là đủ. Rất mong tiểu sư phụ đừng từ nan, chịu khó giúp cho một chút để thêm phần xán lạn cho cuộc này.

Nghe vị giám viện phân trần rõ ra như thế, tôi bàn nhận lời. Vị giám viện hân hoan cáo biệt.

Tôi bảo Tương Tăng rằng:

- Những sự vụ luộm thuộm kia chẳng ích gì cho chính giáo cả. Trái lại chỉ làm cho thiên hạ nhìn chúng ta cáng nham nhở thêm mà thôi. Những cuộc ứng phó lai rai thế nọ, ngày xưa vốn chẳng hề có nghe. Xưa kia, thuở Bạch Khởi làm tướng nhà Tần, ông ta đã hãm giết bốn mươi vạn sĩ tốt đầu hàng tại Trường Bình. Đến thời Lương Vũ Đế nhà sư Chí Công đại hiền đức, nêu ra sự vụ bi thảm kia, cốt để cảnh giác những kẻ khát máu khao me, và đưa ra những phương sách ôn tồn chế độ. Vũ Đế bèn chiêu tập thiên hạ san trường giang đại hải, suốt bảy ngày bảy đêm liên tồn cỏ tơ nối tiếp. Lúc bấy giờ những cao tăng danh tiếng, cùng đồng thời đề huề nghe lời yêu thỉnh mà đề huề phó ước nhi lai. "Đề huề lưng túi gió trăng. Sau lưng theo một vài thằng lai rai. Họ gì như thể bẻ bai? Trung niên thi sỹ ấy ai đó là?... Cầm bằng cũng thể mà ra? Theo chân Bồ tát mặn mà Như Lai... "

All the famous monks answered his invitation at one time.The accepting of invitations commenced from that time... Ứng phó chi pháp tự tử thỉ... phép tắc ứng phó, khởi đầu từ đó mà ra vậy.

Tôi từng có đọc trong kinh điển,thấy ký chú thuở xưa rằng Đức Phật tại thế, vi pháp thi sinh, dùng pháp mà giáo hóa tứ sinh, nhân gian thiên thượng không có gì mà Ngài chẳng đem ra áp dụng điều đình mà thành thục tự như. Chư đệ tử thì đề huề phân hóa thập phương, khôi hoằng đạo giáo, kịp đến khi Phật diệt độ về sau, ông A Nan cùng chư vị Bồ Tát kết tập tam tàng, lưu thông từ bảo. Cho đến thời Hán Minh Đế, Phật pháp mới nhập chấn đản. Từ đời Đường Tống về sau, thì dần dà rời rã, tiệm nhập kiêu ly. Tiền bạc liên tồn được sử dụng làm miếng ăn thức mặc , và Phật giáo trở thành một món đồ có thể đem bán mua. Hỡi ôi! Kỳ dị thay ôi hỡi! Ta phù! Dị tai! Tự ký vị độ, yên năng độ nhân? Tỷ như hạ tĩnh cứu nhân, nhị câu hãm nịch. (Tự mình mà còn chưa độ được, há đâu có thể độ người? Cũng tỷ như lao xuống giếng cứu người, rốt cuộc cả hai cùng chết đuối-Alas, how were these who had not found the Path themselves able to show others the Path! For instance, it is like going down into a well to rescue another and both drown).

Huống nữa, ban bố cho, ấy là: dự với cùng, mà không có tùm lum cướp giật. May tôi đem Phật pháp ban dự cho người, nếu người đem tiền của ban dự lại cho tôi, thì ấy gọi là buôn đi bán lại, há đâu còn cái nghĩa " ban cho mà chẳng thu về?" Huống nữa, thật ra lại chẳng hề có cho đáng gọi là "dĩ Pháp dự nhân" chút tẻo teo nào cả. Mà chỉ lai rai lếu láo mồi mép kinh kệ mấy mời, để thu hồi tài lợi. Cho dẫu thật có chút công kiến thành chăng nữa, cũng chẳng đủ đền bồi cái lỗi tham lam cầu lợi. Còn như tương sự cẩu thả nham nhở, chỉ mong ngóng bo bo kiếm chác, thì ấy là cướp bóc tài vật của thí chủ. Vậy thì món nợ tinh thần và vật chất đối với các thí chủ, chúng ta làm sao trả được!...  Tội lỗi kia làm sao gột rửa được... !

Tương tăng mà rằng:

- Lời sư thật là thâm sâu chí lý, không bắt bẻ vào đâu được. Tôi không hiểu vì sao Chí Công lại đặt ra phép tắc sám hối, khiến cho cái tệ hại càng tệ hại thêm, vì xui người ta tưởng rằng tội lỗi có thể gột sạch bằng những lời vớ vẩn ăn năn...

Tôi đáp:

- Chí công vốn là Bồ tát hóa thân, vốn có thể đem lời vàng mà làm cho xinh vật thể. Trái lại các nhà tu hành đời Đường bo bo thọ trì tụng niệm Phạn kinh, thật là chẳng chút chi ty hào bổ ích cả. Ngày nay còn  dùng được sự tích gì đâu đối với bọn phàm tăng lố nhố? Vân Thê xiển dương sám pháp, dây dưa tới ngày nay, chỉ tổ làm tai hại cho kẻ chân tu chính dưỡng, lưu độc sa môn, cái họa thật là cùng cực kịch liệt. Còn như môn phái Thiền tông vốn chẳng có sám pháp, nhưng ngày nay lại cũng đua đòi bắt chước giở trò, há đó chẳng là một điều cảnh giới lớn đó chăng? Nhưng anh và tôi đều là những kẻ chính tín chân nguyện, đã quy y Phật, là chỉ cốt xiển dương quảng thiết tứ đế và bát chính đạo mà thôi. Há đâu có thứ nêu ra cùng với những trò nham nhở kia ru?

Tương Tăng nói:

- Tốt thay! Phải thay! Mã Minh Bồ tát bảo: "Chư Bồ tát xá vọng nhất thiết hiển chân thực; chư phàm phu phúc chân nhất thiết hiển hư vọng... (Chư Bồ tát gột bỏ hư, vọng, nhất thiết hiển lộ chân thực; trái lại bọn phàm phu làm điên đảo cái chân thực, và nhất thiết hiển hư vọng).

CHƯƠNG HAI MƯƠI BA

Ngày hôm sau, tôi theo chân vị giám viện tới nhà họ Mạch. Nhưng tôi chưa hỏi rõ tên ông họ Mạch kia là gì và ông ta từ đâu lại. Chỉ biết rằng ông ấy là một vị tể quan mà thôi. Tối đến , pháp sư khai trường. Đó là lần đầu tiên tôi kinh nghiệm cuộc tế đàn như thế.

Lúc bấy giờ đàn ông đàn bà đông đúc xúm xít sát vai nhau ở bốn phía xem lễ. Giám viện lim dim khép hai hàng lông nheo thấp xuống, liên tồn chắp tay, cất cao giọng niệm sang sảng lời " chân ngôn" trong kinh điển, tới câu-"Tưởng cốt nhục dĩ phân ly, đổ âm dung nhu hà tại?" (Tưởng tới kẻ thân yêu đã chia lìa, nhìn ngó đâu cho thấy lại âm dong?) thanh âm thật là ảm đạm. Kịp tới câu- "Ó hô! Đổ quyên kiến lạc đào hoa nguyệt, huyết nhiễm chi đầu hận chính trường";(Hỡi ôi! Con chim đỗ quyên đau lòng kêu thảm thiết hoa đào rơi trăng rụng , máu me ướt nhiễm đầu cành,mối hận miên man dằng dặc)-Kịp tới câu:

- "Tích nhựt phong lưu đô bất kiến, lục dương vân thảo độc lâu hàn" (Vẻ phong lưu ngày xưa chẳng hề còn thấy chút gì cả, mà chỉ còn liễu xanh, cỏ thơm và lầu trơ lạnh)-Lại đến câu: " Tướng quân chiến mã kim hà tại ? dã thảo nhàn hoa mãn địa sầu!" Đâu là chiến mã tướng quân? Cỏ hoa hoang dại sầu lan đất dày... ) - "Tis d'esth' o khôros; tou théôn momidzetai? Athiktos oud'oikêtos. Ai gar émp hoboi théai sph'ékhoussi, Gês te kai Skotou korai... " Bỗng dưng mà cái giọng vàng hiu hắt của nương tử con vị mục sư Robert nọ chợt len lỏi về nơi mọi kỷ niệm lòa xòa thuở xưa nàng ngâm thơ Hy Lạp:

- "Đất nào như thế hỡi người? Hiến cho thần thánh nào vui hay buồn? - Đất này bất khả xâm lăng. Con người không thể về ăn ở đời. Cư lưu hồ dễ được chơi? Riêng là địa hạt của chơi vơi thần. Uy linh khủng khiếp vô ngần. Ấy con của Đất và thần U Âm... "

Hỡi ôi!

Nương tử tươi xinh ngâm thơ Hy Lạp và giám viện già nua đọc kinh tế điện vong hồn... Gẫm ra cho kỹ thì đôi bên cũng buồn rầu ủ rũ như nhau. Niềm riêng tại hạ u sầu. Gẫm câu kỳ ngộ ban đầu đã xa. Cô nương ký ức đậm đà. Tiểu tăng sầu dựng căn nhà nhớ nhung...

Hỡi ôi!

Đang khi tôi triền miên âm thầm mông lung tư lự ra như thế giữa cảnh trạng trang nghiêm im lặng như tờ bốn phía ba xung quanh, thì hốt nhiên nghe thấy trong đám người ngồi xúm xít tựa lưng tường vách trước mặt có nảy ra một âm thanh ri rỉ yểu điệu mà rằng:

- Quả thật đúng là người ấy đó, không còn nghi ngờ gì nữa! Gẫm lại cái thuở bé bỏng thơ dại nô đùa với nhau tưởng như cách biệt hai cõi! Ói bao xiết, thê nhiên vô ngần ra như thế!

Một lát sau, lại nghe giọng một người đàn ông nói tiếp mà rằng:

- Tội thay! Thương thay! Quả thật Tam Lang nhất định đi rồi!

Tôi giật mình đánh thót một cái! Kẻ nào vừa nói tên tôi ra như thế?

Lúc bấy giờ thần hồn tôi hoảng nhiên biến động, tôi chẳng dám đưa mắt nhìn thẳng coi thử là ai.

Lại nghe âm thanh nữ lang ri rỉ mà rằng:

- Trông anh ấy dường như vừa mới khỏi một trận đau ốm nặng! Em biết rõ rằng Tam Lang vốn  xưa kia có một tâm sự ẩn mật không nói được ra lời!

Tôi lim dim con mắt, lặng lẽ suy đoán cái giọng nói kia xem đó là ai mà thanh âm uyển chuyển tròn xoe ra như thế. Đó là em  Hoàng? Em Lục? Em Xích Bích? Em Thanh Nga? Em Cấm Nguyệt? Em Thiền Vu ? Hay là em Thâm U Chi Xứ?

Dư mặc sát kỳ thanh âm cửa chí, thỉ đại ngộ kỳ tức Mạch gia huynh muội, vi ngộ lân lý, hựu vi tổng giác đồng song...

Tôi suy gẫm về cái thanh âm kia lâu lắm, sau đó mới sực rõ rằng ấy chính là hai anh em nhà họ Mạch, vốn xưa kia là bạn láng giềng của tôi (ngày tôi ở nhà nghĩa phụ) hai anh em nhà họ Mạch cũng là bạn học ngày còn bé còn bỏng của tôi vậy. Bé ôi! Ói bé! Bé ôi ôi! Cũng thể mà ra thể lệ rồi. Cung bậc trầm luân thu Xích Bích. Linh hồn Tào Tháo mím hai môi ! Bé ôi! Mạch thị ra đời. Mịch thiên nhiên bạc mạt đời kiếp than. Ta về giũ áo quan san. Mùi hương đất trích cung đàn nhật tâu.

- Look! I am living. On what? Neither Childhood nor future are growing less... Super- numerous existence wells up in my heart...

- Hãy nhìn xem! Ta đang là sống đó. Hà tong xuất? Hà tong do? Hà to dòng? Tòng đâu thế? Tế nị từ? Từ nị tề? Bởi vì đâu mà ba bề sống thế bốn cho vì? Bì cốt một Bột phát ma? Ta thập dạng? tàng ẩn mô? Tô tỷ sam? Tàm thơ ấu? Tẩu hỏa nhập ma là? Cũng cùng không cũng cũng? Há hao mòn hòn hột rộng ra ru? Hằng sa số hằng sinh bình tồn hoạt? - Nảy tuông dồn trong tim máu tôi dâng...

Chẩm ma na cá cung tong.
Há rằng khiêm thuận khơi dòng dịch kinh
Tuổi thơ ấu động biên đình
Đã ra như thể quỷ tình tự ma
Thi thư thoái nhượng yên hà
Ngã trừu sưu cú bách là vô công...

I had pondered over these voices for a long time before I made the great discovery that these were the Mei brother and sister, who had been my village neighbors. We were also schoolmates during our tender years.By count, we had been apart for five years...

Té ra lân lý ra vào
Vốn xưa kia đã cắm sào đồng song
Đây sông phức úc phiêu dòng
Phòng văn hơi giá tấm lòng rã hai
Trùng quan đồi núi dặm dài
Năm năm ly biệt dịp may trùng phùng
Kế tương biệt ngũ tải, tưởng kỳ phụ kim vi hoạn ư thử...
Hồi thủ tiền trần đồ tăng hạo thán nhĩ!

Gẫm ra ly biệt đã năm năm, tưởng tới phụ thân của anh em bạn cũ nay làm quan bổ nhiệm tại chốn này, quay đầu ngóng vọng bụi đường mù sương thuở trước, càng thêm ngậm ngùi lồng lộn lai láng lưu ly lất lây một cách!

Ức dư ky Hương Giang thời...

Nhớ lại thân mình thuở trú ngụ nơi Thừa Thiên Hương Giang đất khách, dư Mạch thị huynh muội kết lân ư Mãi Hoa Nhai (cùng anh em nhà họ Mạch kết bạn láng giềng tại Mai Hoa Nhai-Đường phố bán hoa) phụ thân hai bạn vốn là người đôn hậu tính tình (không hề có chi mô  giống như cái nòi tầm phào thi sỹ) ý cực khả thân, đối xứ với tôi rất mực chân tình chính ái, nay bỗng dưng không hẹn mà gặp gỡ tại chốn man mác cõi miền này, thật là quả thật do tiền duyên túc ái... tái úc vân yên viên bô vô hạn vạn niệm viêm lương vương thịnh vinh thông cầu vồng bảy sắc... bắc nam xuôi ngược triền phược một niềm 1...

Thì mai đây, tôi ắt hẳn có thể nhân đó mà hỏi thăm dò ra tin tức cố hương cựu sự. Thì như thế cũng đủ an ủi một phần nào cái thân thể phiêu linh của một tình tự bồ tát vướng tục lụy hơi nhiều. Há chẳng chăng ru? Dư kim hậu hoặc năng tạ thử nhứt tấn cựu hương chi sự, tư diệc túc dĩ sảo ủy phiêu linh phủ da? (- Perhaps later I could use this opportunity to ask news about my old home village. This would be sufficient to comfort a lone derelict like me).

Tôi trong lòng như thế thì hân hoan trấn định như thường.

Tới lúc rạng đông phơ phất thì pháp sư tế điện đã xong xuôi mọi mọi.

A servant boy came before me and bowed, saying:

- "My master has ordered me to request Your Holiness to come to the study for rice".

Một chú bé tỳ bộc tới trước mặt tôi, chắp tay xá một cái mà rằng: - Chủ nhân ra lệnh  cho tiểu tử. Kính mời đại sư rời gót sang thư trai dùng cơm".

I followed him immediately. Tức thì tôi theo gót chú bé đi ngay (đay nghi rất mực rạo rực mà rằng).

Thử thời đồng lai chư tăng,hàm hãi dị, dĩ bỉ bối vị thường tri dư thân thế; bỉ ý vị dư nhứt nhân kiến chiêu, tức hữu thù vinh cực sủng...

Lúc bấy giờ chư tăng vốn cùng đồng đi trong cuộc lễ, thảy thảy đều lấy làm kinh hãi kỳ dị, ấy bởi vì họ vốn không rõ thân thế quá khứ tôi, thấy tôi bỗng nhiên được mời đi ăn cơm như thế, thì trong ý họ tưởng rằng đó là một vinh dự đặc biệt của kẻ được chuộng đãi tài năng. Nhưng chưtăng kia mặc dù vào cửa Phật, mà tâm hồn tình tự thì lại rạo rực xu hướng hết về phía vinh hạnh phồn hoa! Thế mới nên ra như thế vậy! (All the other monks who had come with me were starled by this statement because they did not know my past. They must have thought to them-selves that is was a marked honor and great favour for me to be invited alone in this fashion. Althought these men were in monkhood, their natures were still eager for mundane glory. That is why they acted thus 2... )

Lúc tôi bước vào trai phòng, thấy cơm nước dọn ra thật là lai láng ngon lành ngành ngọn yến diện. Có đủ đầy nào là rau cải rải rác tròn xoe, những là cá ướp dấm chua hom hem ri rỉ, nào là thịt riêm ngũ hương, quế hoa lật tử, hồng lăng ngẫu phấn, ngấn phẩu béo ngùi, ngậm ngùi hột giỏ giẻ, tam bạch tây qua, Long Tĩnh Hổ Bào trà, ba la mật kim cương mường tượng, mượn cớ mớ thượng tương hồng tự thối; tối ngọt thậm ngon thon thon măng búp, múp băng ngà, tuyết ngọc long lanh xanh um chùm cụm mũm mĩm bất ngờ mép bờ mềm dịu a na tam miệu tứ bồ đề, lục bồ tát mát mẻ miêu cương đâu mường đâu mán đó mọi miền mọi mại mọi lô lô...

(When I had reached the study, I saw that a lavish spread had been laid out. The courses were as follows: vegetable, sour fish, "five-fragrant spiced" dried bean curds; cassia blooms fried with chestnuts, red lily-root powder,"san-pak" watermelons, "Hu P'ao" Dragon-Well tea, and "rainbow-brand" ham.All this had been prepared especially on my account).

Mọi thứ ngon ngọt mặn mà đó dọn ra là vì tôi hết cả 3.Hỡi ôi!

Trong lòng tôi lặng lẽ cảm tạ ông bà họ Mạch. Quả thật ông bà ôn tồn quyến luyến cố nhân. Thật quả bà ông là người y y hữu cố nhân chi ý. Đủ chứng thực cái cõi lòng đôn hậu rất mực tày trời động đất, tại khoảng viêm lương thế thái kiêu ly này, ông bà đúng thực là những tâm hồn thơ ngây như con chim loan, chim phụng, con kỳ lân, con sư tử đậm đà mắt xanh mày thắm liễu my nhi vậy. (Nên nhớ rằng con sư tử mặc dù uy nghiêm khả phạ, nhưng không hề dữ dằn trật búa như con chim báo con beo, hoặc bê bối như con đười ươi, con khỉ đột).

Chốc lát sau, ông bà họ Mạch nắm tay đứa con đứa cái bước vào, cùng tôi chào hỏi ôn tồn niềm nở kẻ ở người đi. Tôi chăm chú nhìn kỹ hai anh em con nhà ông bà họ Mạch, thì thấy rằng hai anh em kia mặt mũi cũng hồn nhiên thơ mộng như xưa, đề huề yên vui với cha mẹ, thì tôi càng ngậm ngùi vô hạn cho cái thân thế cô độc của mình là một nhà sư chẳng có chi phiêu nhiên như lai  chút nào cả. Tứ cố tiêu điều, phụ ngã phụ nhân, hà dĩ kham thử? (Phụ mình phụ người há sao chịu nổi như thế?) Thì tôi đưa hai bàn tay vướng tục lụy lên bưng lấy bộ mặt bồ tát dở dang của mình mà ri rỉ khóc một phen khôn hàn dấm dớ.

Óng bà họ Mạch va hai đứa con cũng u sầu buồng bã thấy tôi đau khổ như thế. Cô con gái bỗng nhiên xúc động khôn cầm, cũng bắt chước tôi khóc òa một trận.

Không ai nói được lời nào.

Chợt ông nhà Mạch đưa bàn tay vỗ vào xoa cái đầu trọc của tôi, trang nhiên cất giọng mà rằng:

- Cháu bé đừng nên ưu sầu quá xá như thế. Hãy nên đổi sầu làm vui. Đã lâu ngày, tôi không gặp cháu. Ban đầu ta có nghe người làng nói, mới hay rằng cháu đã rũ trút bụi trần mà quy y cửa Phật. Thì lòng ta đã ngậm ngùi suy gẫm. Thiên tư tuấn sảng như cháu, mà bước đường đời sao lại lận đận nhà ma? Mà Như Lai thì há đâu chẳng lại man mác m ùsương quá ư phiêu hốt. Chắc gì cháu đã đáo bỉ ngạn mà nêu câu ba la mật kim cương? Thì lòng ta cũng mang nhiên mà âu lo cho cháu lắm. Đã một năm nay, ta dắt dìu gia đình ra  ngoại nhậm nơi đây kiều cư ư thử. Đêm vừa qua chợt hai đứa cháu nhà nói cho ta biết rằng cháu có tới đây cùng chư tăng lo việc pháp sự. Khiến lòng lão phu rất mực kinh ngạc bàng hoàng lại thêm vô cùng hoan hỷ chất chen xen lẫn tràn ngập xâm lăng chim chuyền líu lo bụi ớt. Lão phu nay tuổi tác đã ra người già nua! Chẳng thể liệu được rằng có phen gặp cháu. Há đâu có thể dám nghĩ rằng? Mà ra cơ sự lăng tằng chiêm bao? Thiên duyên bố thiệt hội nào? Mà nay tái ngộ âm hao bây giờ?

(- Do not grieve,my boy, said he. I have not seen you for a long time. When I first heard what the villagers said, I knew that you have separated yourself from all mundane affairs to become a monk. I felt very grieved that a heaveb-given and extraordinary mentaility like yours should have had such a sorrowful path in this life. Ayear ago I brought my family to live here. My Children told me last evening that you had come to our home to take part in the ceremony. This filled my old body with a mixture of fear and gladness. I am old indeed. I had not thought that I should be able to meet you again. How can it be said that this meeting was not arranged by Heaven?)

Bà vợ của nghĩa phụ cháu vốn mùa xuân năm trước đã thiên cư Hương Giang, vướng bịnh hầu dịch mà qua đời. Nay lão phu mong rằng cháu chẳng quay về Quảng Đông làm gì nữa. Lão phu cũng rõ là cháu chẳng có cốt phàm lão phu mời cháu ở lại đây làm khách thơ mộng, để cùng bầu bạn với hai con "heo" (cha nói về con) của lão phu, vì như thế, cháu cũng thật là giúp ích cho lão phu rất nhiều vậy. Ý cháu nghĩ như thế nào?

Nghe ông nhà Mạch nói rằng bà vợ nghĩa phụ tôi đã chết năm ngoái, thì lòng tôi mang nhiên thêm nữa. Té ra nhân sự biển dâu bách biến khôn lường. Chẳng biết đâu là nên hư phải quấy ở trong cái miền cõi lơ đễnh sương phù du tuôn hớ hênh.

--------------------------------

1

Ngôn ngữ Tô Tử Cốc tại đây rõ ràng là khởi phát từ thủy mạch Như Lai lãng đãng nơi những bộ kinh.

2

Bản dịch Anh ngữ có di biến linh động chút ít. Cấp cho ta một trường hợp đơn sơ rất mực tố vọng sinh bình sinh ra suy gẫm sâm si đen sì...

3

Hỡi ôi! Đãi tiệc nhà sư mà sao lắm của ngon vật lạ như thế? Phải chi mà đem cho hết ông Tản Đà nhậu nhẹt một trận!

CHƯƠNG HAI MƯƠI BỐN

Tôi lau nước mắt đáp ông Mạch mà rằng:

- Cháu cảm tạ tấm lòng bác chiếu cố. Lòng cháu bàng hoàng còn biết lấy chi báo đáp. Nhiên nhi, trong chùa còn chú Tương Tăng, pháp danh là Pháp Nhẫn, vốn là bạn chí thiết của cháu, cùng nhau sống đã lâu ngày, cháu chẳng nỡ nào chia tay với người bạn ấy. Sau này, cháu sẽ mong được nhiều dịp tới viếng bác để nghe bày vẽ được nhiều, xin bác vui lòng cho như thế.

Óng Mạch suy nghĩ chút ít, rồi hòa ái bảo rằng:

- Như vậy cũng tốt lắm! Bác chỉ lo sợ rằng đời sống khắc khổ trong chùa cháu chịu đựng không kham.

Tôi đáp mà rằng :

- Dạ không có chi như thế. Chư tăng trong chùa đối đãi với cháu rất tốt. Ngoài Pháp Nhẫn ra, lại còn Chơn Pháp, Tuệ Sỹ Pháp, Chí Hải ni cô, Phùng Pháp ni cô, Khánh Pháp ni cô, toàn nhiên là những vị từ bi độ lượng khả dĩ mai sau dắt dẫn cháu cập bờ đáo bĩ ngạn ba la mật kim cương. Ngoài ra lại còn Minh Châu phương trượng vốn xưa kia là...

- Là sao?

- Là thường hằng có làm thơ ngâm vịnh với song hồn thiên hạ thi sỹ trung niên.

- Á,té ra là như thế.Vạn hạnh, ức phúc vậy thay!

Gladness shone upon Mr.Mei's face.He led me to my seat at the table,I noticed that there was a complete spread of Chekiang delicacies on the table.Yet my heart carried so many sorrows that, for the moment all dishes tasted alike;it seemed as if I were merely chewing wax.

Óng Mạch hân hoan, hỷ hình ư sắc. Nắm lấy tay tôi dẫn vào nhập tiệc. Trên bàn có đầy đủ đông đảo tràn lan những món ăn Chiết Giang Hà Nam Hà Bắc. Nhưng lòng tôi đầy rẫy những ưu lự khôn hàn, gắp món nào cũng như món nấy, cũng thể như ăn sáp nhạt mà thôi.

Ăn xong, tôi sơ lược kể lại chuyến đi Nhật Bản tìm mẹ. Gia đình ông Mạch thảy đều cảm động vô cùng.

Con gái ông Mạch và Mạch phu nhơn đều đồng than bảo rằng té ra như thế thì lòng trời cũng đã sẵn sàng có an bài ôn tồn thỏa đáng cho liên tồn thế sự nhân gian, và hết lời khuyên tôi hãy gắng mà nguôi quên những cái cơn sầu muộn ủ ê đi. Trời nắng rồi trời mưa rồi trời tạnh cũng như dâu biển chiến tranh hòa bình rất mực vậy đó mà. Tôi lại cảm động một cơn và vùng khóc thêm một phen nữa.

Tới lúc cáo biệt lâm hành, Mạch phu nhân đem ra cho tôi một trăm đồng vàng dặn bảo mà rằng:

- Cháu đừng từ chối, hãy nhận lấy mà tiêu dùng lúc cần cấp.

Tôi khước từ mà rằng:

- Cháu tự lúc khởi hành từ Đậu Tử, đã có dành dụm hai trăm, tới nay vẫn còn giữ được phân nửa, nằm vuông tròn ở trong túi áo cà sa phơ phất ôn tồn. Ân đức kia của hai bác, cháu xin tâm lĩnh vậy. Và kính tạ phu nhân nửa phần thơ mộng nửa phần đăm chiêu:

Phu Nhân cả cười mà rằng:

- Thơ mộng cái chi ? Đăm chiêu cái chi?

Tôi cũng cười theo một tiếng.

Về tới chùa. Vài ngày sau, hai anh  em Mạch cùng tới viếng chùa Linh Ẩn (Secluded Soul Monastery). Gặp tôi trò chuyện tại Lãnh Tuyền Đình (Chilly Spring Pavilion) Tôi nhân lúc hàn huyên vui vẻ, mà xen lời ngẫu nhĩ hỏi thăm về tin tức Tuyết Mai:

- Chẳng biết cảnh huống gần đây của Tuyết Mai ra như thế nào?

Ban đầu anh em Mạch thị có vẻ ấp úng che giấu, ngôn ngữ mơ hồ.

Tôi không nghe ra đầu dây mối nhợ rõ. Liền nêu trở lại câu hỏi lần nữa... Rồi hỏi tới lần thứ ba...

Thì cô gái hơi nhíu hàng lông mày là rằng:

- Nếu như sự tình là ngọc nát hương tan thì anh nghĩ sao?

Nghe nàng nói thế như sét đánh ngang tai. Cơ hồ tôi suýt ngã gục chết ngất. Trấn định thần hồn không được, tôi run lên từ đầu tóc tới ngón chân, thu tay đấm vào ngực mình mà hét:

- Có thật như thế chăng?

Người anh cô Mạch liền nắm lấy cánh tay tôi mà rằng:

- Em nó nói bậy bạ bừa bãi! Đâu có hề xảy ra chuyện đó... Sự thật là... là...

Nói tới đó, ngập ngừng, chuyển sang điệu an ủi:

- Anh Tam Lang thân mến ạ, anh hãy bảo trọng thân thể. Em gái nó nói câu ấy chẳng có chi xác thực hết cả. Sự thật là chúng tôi có nghe người ta đồn rằng cô Tuyết Mai vướng bệnh tơ tưởng gì đó, rồi đau ốm có phần kịch liệt thế thôi. Dù sao, thì Trời Xanh cũng che chở những người hiền hậu đàng hoàng như cô ấy. Cô cũng như Kim Cương nương tử. Có lẽ nào mệnh vận hẩm hiu cho được. Anh Tam Lang chớ nên lo sợ mà tổn hại thân thể máu me.

Tôi cố gắng trấn tĩnh. Ngày đó, anh em Mạch lại mời tôi cùng về nhà anh chơi.

Qua ngày hôm sau, buổi sáng tôi thơ thẩn ra dạo vườn phía sau nhà, chợt thấy cô em Mạch đang đứng đăm chiêu trên chiếc cầu gỗ, tay vịn nhịp cầu mà hai con moắt ngó xa xôi.

Thấy tôi đi tới, thì  hai má lúm đồng tiền của nàng bỗng nhiên ửng đỏ phất phơ. Ý dường như là không nỡ đem tin tức giai nhân kia mà nói ra cho rõ. Tôi sắp quày thân đi nơi khác, cô gái bỗng đưa mắt nhìn qua một cái, cất giọng mà rằng;

- Tam Lang có vui lòng cho phép em dẫn anh đi dạo vườn một chặp?

Tôi nghiêng thân cung kính ôn tồn, trang nhiên cảm tạ mà rằng:

- Há dám làm phiền gót ngọc? Kính hỏi hiền muội một lời: Tuyết Mai thật ra có còn sống tại nhân gian chăng? Hiền muội có thể nói rõ hết đầu đuôi cho nghe?

Cô gái riu ríu giọng vàng thở dài một cái, lắc đầu mà rằng:

- Ngạn ngữ có câu: "Tâm can mẹ ghẻ, một mẻ tam bành... " Há chẳng là sự thường tình? Ngày trước ở quê nhà, em có nghe người ta nói rằng người mẹ ghẻ kia bức bách chị Tuyết Mai phải làm dâu một nhà giàu có nào đó. Trong cái đêm trước ngày về nhà chồng, chị Mai đã lìa đời, sau bao nhiêu ngày ốm đau hao mòn nhịn đói. Chẳng biết ông Trời Xanh, ông Phật đỏ ở đâu, mà chẳng thấy thấp thoáng về cứu giúp. Người trong làng ai ai cũng thương tiếc chị Tuyết Mai, mà chẳng có ai chịu phục ông Trời Xanh tài hoa gì hết cả. Còn em nghĩ tới mà ngán ngẩm chán phèo cho trời tròn đất méo, nhân gian đen đủi hoen hoen, rốt cuộc xô bồ ra như thế.

Nghe rõ tin tức đau đớn ấy, tôi than khóc thất thanh lạc thể ly hồn. Cấp tốc quay về chùa, cùng Pháp Nhẫn bàn bạc, cùng nhau khăn gói vội vã quay về Lĩnh Nam Lam Hải, mong tìm tới mộ Tuyết Mai mà phúng điếu an ủi cái vong hồn.

Chiều xế ngày hôm sau, gia đình ông Mạch cùng tiễn chân tôi tới Củng Thần Kiều, Gạt lệ chia tay.

CHƯƠNG HAI MƯƠI LĂM

Trên dặm đường dằng dặc, tôi lẩn quẩn linh hồn như con kim báo lạc rừng hiu hắt giữa mù sương thôn ổ. Gẫm lại những cái lời những con người đời xưa mà nhấm gậm lại gan mật đau đớn ở trong mình: "Ta hăm hở chí trai hồ thỷ, bởi vong tình nên thái thượng vong tâm. Nàng lưu ly thân gái liễu bồ, vì giận phận, hóa ngang tàng tính mệnh... Nhưng mà? Mà nhé! Nhé mà? Mà chẳng nhé?

- Don't think that I am wooing, Tathagatha! Even if I were, you'd never come. For may call is always full of "A way!" Against such a powerful current you cannot advance. Like an outstretched arm is my call...

- Xin chớ nghĩ rằng tôi đang cầu khẩn hỡi Như Lai!
Vì cho dẫu khẩn cầu, người cũng sẽ chẳng bao giờ chịu đến
Vì tiếng kêu của tại hạ khôn hàn
Vẫn mãi mãi chan hòa niềm ly khứ
Về hư vô là viễn xứ hư không
Và đối nghịch lại dòng tuôn xiết nọ
Người không sao tiến tới được bên lòng
Và tiếng gọi vẫn như dường như thế
Một vòng tay duỗi rộng giữa sương hồng
Và sương lục mông lung hồn lữ thứ
Và sương lam vô hạn mất vân mồng
Và vâng một vâng hai vâng ba vâng bốn
Cũng vô ngần vâng ạ ạ vân vân...
Chiêm bao đậu khấu si đần
Cơn điên cuồng dại cơn dần dần se
Óng trời bà đất so le
Thị thành tâm sự còn nhe răng cười

Tôi và Pháp Nhẫn tới Thượng Hải, mới hay rằng tiền bạc ở trong túi áo thảy thảy đều không cánh mà bay. Không còn cách gì mướn thuyền, đành cùng Pháp Nhẫn quyết định đi bộ. Dọc đường khất thực le lói, nếm mùi cay đắng.

Sau đó, chúng tôi tới Hoành Bồ Quan, bước vào biên giới Nam Hùng. Quá trạm Hồng Mai Dịch, nghe thổ dân bảo rằng đường đi vốn bằng phẳng bình an, duy có điều những  đoạn đường thủy hơi nhiều, mà việc thuyền bè chểnh mảng.

Phải trải cơn chờ trận đợi, nhiều phen lắm, mới mong tới được Thủy Hưng. Chúng tôi hai đứa dốc hết tiền bạc thưa thớt còn lại trong túi áo ra, thì cũng tạm gọi là có đủ để mướn ghe và mua thực dụng.

Xong xuôi, ghe giương buồm đi. Gặp gió xuôi buồm thuận, mấy ngày sau vượt qua Trinh Thủy. Tới huyện Thủy Hưng, thì hai đứa tôi mới bớt lo âu được một phen. Đêm đó, thuyền buộc tại một bến đó xơ xác dưới gốc cây tàn dương bại liễu. Bấy giờ vào tiết Trung thu tháng chín, khí trời lạnh lẽo, sơn xuyên tịch liêu. Ngẩng mặt nhìn phong cảnh tiêu điều, chợt một trận gió tây bắc heo hút thổi qua vi vút bên mép tai. Tôi lật nhiên hãi hùng nghe ra như có một giống vật kỳ lạ đồ sộ khò khè tới tập kích chiếc ghe. Dưới ánh đèn leo lắt, tôi đưa mắt dòm thấy một đống ngổn ngang, ước có hơn trăm rưỡi con cua to bự cuộn tròn cuống rốn ù lỳ ngọ nguậy nhà ma. Té ra kể cũng là cà lũng một cảnh tượng cưỡng cơn kỳ thú tôi được nhìn ngó nhăn nhó nhất mực một lần đầu.

Pháp Nhẫn bảo tôi mà rằng:

- Tôi nghe nói Chu Phụng Sơn (núi Chu Phụng) cách đây không bao xa có tòa nhà xưa của Trương Cửu Linh (thi nhân đời Đường) sáng mai chúng ta hãy len lỏi theo đường mòn tới viếng một phen chơi. Chịu bỏ chút ít thì giờ đi quanh co một  trận cũng là phải lẽ vậy:

Tôi bảo:

- Chỉ tiếc là chúng ta không có cơ hội thống ẩm cuồng ca một trận. Nếu được thì chúng ta có thể mở một cuộc nướng mấy con cua kia. Rồi vào trong làng thôn, thôn làng thang lan mơ mộng mà mua một mớ rượu vàng ăm ắp đầy lu ra đây ngồi giữa cảnh tròi thu mà tha hồ nhậu nhẹt thù tạc tơi bời cho nguôi cái cơn u sầu ở trong thớ dạ. Nào, nào đêm nay trăm sầu nghìn muộn, ắt có còn đày đọa máu me tim phổi chúng ta ru ?

Óng lái ghe đưa tay chỉ cho chúng tôi nhìn một ngôi chùa giữa một rừng phong, bảo với chúng tôi rằng:

- Đó là Hoài An Cổ Lan Nhược vậy. Những tường vàng vách ngọc ngày nay đã rã rời rụng rơi toe toét hết cả. Phụ lão tương truyền rằng tháng ba Giáp thân thời xưa các bậc di lão của hàng ngũ lãnh đạo dân tộc chúng ta đã từng chiêu tướng một binh tại chốn này. Các ông có nhận thấy rằng vong hồn thu thảo còn phảng phất vong linh cựu thời, trong ngọn gió hiu hiu? Hỡi ôi! Phong cảnh y nhiên mà giang sơn đã đổi chủ há chẳng khiến lòng người hoài cảm ưu nhiên ru?

Chúng tôi sắp ngủ, chợt trời nổi trận gió dông mù mịt mưa tuôn. Tôi bảo Pháp Nhẫn:

- Đêm nay không thể ngủ tại ghe được. Chẳng bằng cùng vào trong am miếu kia đụt mưa, sáng mai lại lên đường.

- Như thế phải vậy.

Chúng tôi bèn từ biệt ông lái ghe, nhắm thẳng hướng Rừng Phong mà tiến gót. Tới cửa chùa nhìn thấy bốn bề tường vách rã rời sập đổ, các cánh cửa cũng tan tành. Vào trong chùa, vắng ngắt. Chỉ leo lắt thấy Phật đăng bốn phía vách. Bên cạnh điện có một con đường thông ra phía sau, dẫn tới một căn phòng nhỏ. Tôi đoán chắc đó là chốn cư trú của vị tăng trụ trì, nên dừng gót không tiến vào làm chi. Pháp Nhẫn đưa tay mò mẫn tấm bia có đề thơ, lẩm nhẩm mà đọc rằng:

- "Thập quận danh hiền thỉnh tự tư
Tòa trung nhược cá thị nam nhi
Đỉnh Hồ nan vãn long tu nhựt
Uyển Thủy tranh trì ngưu nhĩ thời
Khốc tận đông thanh đồ hữu lệ
Ca tàn Ngưng Bích cánh vô thi
Cố lăng mạch phạn thùy kiêu thủ
Doanh đắc không đường tửu mãn ba

- Đó là bài thơ của Đạm Quy hòa thượng (triều Minh Gia Tĩnh) tặng cho Ngũ Mai Thôn vậy. Thuở bấy giờ bọn gọi là danh lưu nhân sỹ, đã cam lòng đem đất đai tổ tiên hiến dâng cho rợ Hồ. Tàn bạo sát hại vũ nhục đủ rõ. Đạm Quy hòa thượng vốn là kẻ đội trời đạp đất, quen thói vẫy vùng, anh hào đường đường một đấng. Hỡi ôi! Đơn Hà nhứt cự, di lão ư quang, chí kim do quật nhi bất thân, hà thiên tâm chi hội hôi giả (Alas! When his abode, "red dew", was burned down, the glorious traditions of the faithful remnant of this country were buried in obscurity, never to come to life again. Why is Heaven so stupid as to let such conditions exist?)

Trời bỗng tạnh mưa. Tôi và Pháp Nhẫn, Chơn Pháp, Tuệ Pháp không nói năng gì nữa, cởi áo nằm xuống một góc điện (ghiện đóc). Tôi ngẫu nhiên từ cõi mộng kinh động tỉnh ra, lúc bấy giờ bốn bề tĩnh mịch, vạn lại trầm trầm, bách ban duệ địa thảy thảy cùng là đã quét đất mang nhiên miên nhan mậu sắc mắc sậu phiêu bồng cưỡng cơn sè sẹ. Chợt nghe Tây phong thổi táp táp, phần phật đạp vào cành tre bẹ trúc, côn trùng lạnh lẽo sầu đong tiếp nối vơi đầy. Bỗng nhiên có tiếng niệm Thi kinh (kinh thi ky thinh) mờ hoen phai nhạt cái câu lục nga sầu não vô ngần, cay đắng tuyệt lâu "Ai ai phụ mẫu! Sinh ngã cù lao!" Thì cõi lòng tôi bỗng trào cơn sôi cuộc như tan rã mất rồi...

Sáng ra, trời trong xanh. Tôi gặp nhà sư đêm hôm niệm kinh Thi... Hỡi ôi! Mặt nhìn mặt! Té ra đó là người con trai của vú nuôi tôi. Chính là Triệu Nhi đó vậy. Tôi kinh ngạc ngậm ngùi. Còn Triều Nhi thì cơ hồ như tưởng tôi là vong hồn ma quỷ. Hai đứa đăm đăm ngó nhau thật lâu như bị thâu hồn nhiếp phách.

Bi yếu vạn trạng mà rằng:

- A huynh trở về bao ngày như thế?

Tôi đáp:

- Đêm hôm qua tới đây, mưa gió đầy trời, đành vào trong điện này tránh mưa. Hiền đệ vì lẽ chi mà trông tiều tụy hình dong ra như thế? A mẫu bình an khỏ mạnh chứ.

Triều Nhi chưa kịp mở môi, đã thấy ròng ròng hai hàng nước mắt. Bảo tôi rằng:

- Từ mẫu em đã qua đời em đau lòng quá, bèn rũ áo cạo đầu đi tu. Em lưu trú chốn này gần bên nấm mộ đã ba con trăng rồi (ba tháng).

Tôi nghe nói, thì bủn rủn cả tay chân bước tới ôm Triều Nhi mà khóc.

- Ý anh là về Nam Hải thì trước tiên là tìm thăm vú nuôi. Từ ngày anh còn  bé bỏng, chỉ một mình vú nuôi nấng thương yêu ngờ đâu ngày nay đã là người thiên cổ. Trời Xanh ôi! Vú nuôi ân đức dưỡng dục, tôi chưa đền đáp được chút gì! Phật từ bi ôi! Lòng tôi tan nát còn ra cái cái dạng gì gì! Tim phổi cũng theo nhau rã rời đi mất hết.

Triều Nhi dẫn chúng tôi ra ngoài cửa phía tây, tới nắm mộ. Chỉ thấy đất vàng le lói một vùng, -Hoàng thổ nhất khâu lưu chỉ đảo. Tam kinh huyền vọng kiểu lư tê...

Hàng bạch dương hiu hiu hắt hắt. Đàn chim rừng đậu ở trên đó, ca hót cái lời gì? Tôi và Pháp Nhẫn, phủ phục khóc than.

Triều Nhi lau nước mắt mà rằng:

- Vong mẫu cảm lòng cổ trang phu nhân vô cùng. Trừ cổ trang phu nhân ra, muốn tìm cho một người nhân đức lân mẫn, thật là không có. Em tháng trước đây gửi đi lá thư, chẳng biết rằng a huynh đã trở về. Hôm nay gặp a huynh tại đây, thì thật là mộng hồn em cũng không liệu được tới, há chẳng phải là Trời Xanh Phật Vàng Thượng Đế Đỏ cũng rủ lòng thương xót chúng ta chăng? Mẹ em ắt cũng ngậm cười nơi chín suối.

Tôi lẩm nhẩm lời thơ nương tử con gái mục sư Robert: - "Kô ros d'od'ieros ôs apaikassai, bruônn daphnes, class, ampelou. Puknopteroi d'eisô kat'aut6n eustomouss ared ones... and where we are is clearly consecreied groud: luxuriant in laurel, olive, vine-and deep in song of nightingales...

Và nơi chốn chúng tôi tao ngộ ấy
Là đất đai của Thơ Mộng Thiêng Liêng
Cành Nguyệt Quế và Ó Liu Nho Thắm
Và Yến Oanh thăm thẳm dậy bên miền...

CHƯƠNG HAI MƯƠI SÁU

The last act is bloody, however charming the rest of the play may be (Màn cuối đẫm máu lệ, cho dẫu toàn khối thừa dư của vỡ tuồng có thơ mộng kiều diễm bao nhiêu chăng nữa)"

Chúng tôi tạm cùng Triều Nhi chia tay, rồi cùng hướng về phía cố hương của Tuyết Mai mà đi. Đường đất dặm dài ngun ngút, chúng tôi vừa đi vừa xin ăn dọc đường. Bảy ngày đêm sau mới tới Diệp Thôn ( Yellow Leaf village). Độc giả còn nhớ ấy chăng . Thôn nọ là cái nơi cư lư của vú nuôi tôi ngày trước. Ngày đó tôi đã có lần làm một kẻ bán hoa. Căn nhà vú nuôi đã bán cho chủ khác. Nhìn bên ngoài cũng không còn giống như ngày trước. Càng thấy sầu muộn thêm ra.

Tôi cùng Pháp Nhẫn vào một mép thôn làng hẻo lánh, nghỉ đêm tại một ngôi nhà cũ nát. Chớm tờ mờ sáng, tôi cùng Pháp Nhẫn khoác áo ăn xin mà lên đường mé tây, mà ngâm câu hàn gia cơ xá.

Lúc bấy giờ, lòng tôi đã trải qua vạn thiên bách chuyển, chẳng còn biết nghĩ chi là địa ngục nghĩ chi là thiên đường. Nghĩ chi là em Tuyết Mai ngậm cười chín suối, hoặc chi nghĩ là Mai Tuyết cười ngậm chốn hoàng tuyền.

Tới chốn cũ nhà của Tuyết Mai, tôi dừng chân đứng im một lúc. Hồi tưởng lại các ngày tôi đi bán hoa, lây lất cất tiếng rao "Óng bà cô bác chị em có mua hoa tươi lá biết đủ đầy... " Mọi sự còn rành rành thị hiện như câu chuyện sáng hôm qua mù sương sa trên tóc rối. Nào ai đâu có liệu nổi sự đời nó xoay vần vấn vít? Thùy liệu vân mấn hoa nhan kim cánh hóa nhiên nhi khứ? Ai có liệu trước được rằng tóc mây mặt ngọc, nay bỗng nhiên đã biến thành khói sương trôi biệt? Ai có liệu được rằng cái niềm vui quen biết, cái ân nghĩa chia đường, rốt cuộc đã ra ma mặn mà cơn cớ quỷ! Ói tình ôi nghĩa ôi nghiệp ôi duyên ôi tiền oan túc chướng hỡi ôi ôi! Ta hăm hở một phen đi phen ở. Em ngang tàng tính mệnh cuộc trong cơn. Cợt đùa truông lá cồn xế xanh rờn. Hoa cồn thắm cũng đành như thể úa, Thủa âm ế âm u phen nguyền rủa. Trận coi tề ủa lạ ả a nam. A Nan ôi là ứ y khôn hàn A Bồ Tát ấy Tu Bồ Đề tụ đủ. Tù ngục với phù sinh đe ủ rũ. Đủi ủ ê còn biết nói răng mầng Câu thơ tù tội xoay vần. Niềm riêng tỳ tử há cần mẫn soi.

How could there come an end to my agony? Snow Mei herself, would surely have pitied me without end. I was exceedingly weary of being insnared in this mundane net and wished only for the end. Ta hồ! Tiểu trích phong trần, kỷ tao ma nghiệt. Tuyết Mai diệc tất lân ngã ư vĩnh vô cùng. Dư ky my thế võng, diệc yêm yêm dục tận hỹ.

Duy tưởng tới tự ngày tôi từ biệt Nhật Bản về đây, mẹ tôi ở lại bên ấy, tựa cửa mong chờ ngày tôi trở lại. Thì cũng như đem con trâu đất sét mà quẳng vào giữa biển rộng miên man. Còn tăm dạng đâu mà dò la tin tức. Tôi quả thật là đứa trẻ lăng ngăng, đã điên rồ đem bao kỳ vọng của mẹ già của dì lại, của em khờ, mà quẳng tuốt hết xuống lòng biển nước mặn sóng chua. Thế thì? Thế thì tôi còn làm thơ than thi sỹ cái gì gì? Mà cạo đầu đi tu cái gì gì cho được? Gẫm ra, tội lỗi tày trời. Còn đâu tìm ra một vị Bồ Tát Như Lai nào rủ lòng thương mà dẫn dắt lên đường kim cương ba la mật?

Lúc bấy giờ lòng tôi tê giá rã riêng khôn hàn, gắng gượng lò dò bước tới bên cửa căn nhà lẩy bẩy cất giọng gọi:

- Thí chủ! Thí chủ!

Một lát sau,một cô bé bước ra. Tôi nhìn rõ, đúng là cô gái tỳ tử ngày xưa đã đón hỏi tôi, đưa thư từ và trao tiền bạc của Tuyết Mai cho tôi. Tỳ tử giương hai mắt đăm đăm nhìn, bỗng nhiên lùi ra sau mấy bước, mặt mày thảnh thốt hãi hùng. Lại trố mắt nhìn hai đứa chúng tôi, dở chiều như quen biết, dở chiều như xa lạ.

Tôi chưa mở lời nói, lòng đau như cắt. Vừa khóc vừa than mà rằng:

- Cô còn nhớ cái kẻ bán hoa ngày trước chăng? Cô Tuyết Mai ngày nay chôn ở nơi nào? Mong cô dẫn tôi đi viếng mộ Tuyết Mai một phen. Thì tôi xin cảm tạ ân đức của cô nương lắm. Tôi nay gấp gáp nóng lòng như sôi, không chọn ra lời để diễn tả tâm sự, mong cô thương cảm mà thứ cho.

Cô tỳ nữ nghe tôi nói, vẻ mặt nàng bỗng nhiên lạnh như đồng. Rồi chợt nổi cơn giận dữ. Nàng quay mặt nhìn nơi khác một lúc lâu, chợt cất giọng dữ dội mà rằng:

- Kỳ dị thay là cái lời ăn tiếng nói của tiên sinh! Người ta đã đau đớn chết đi rồi, tiên sinh còn khóc còn than có ích gì đến ai cho được chứ! Có từng nghe ai nói rằng cô Tuyết Mai đã có phụ lòng tiên sinh một phen nào đâu cho đáng! Xin thử hỏi chàng bán hoa một câu nhé: Tiểu thư nhà tôi đã vì ai mà đứt ruột nát cả gan vàng?

Nói đến đó, nàng lại trố mắt nhìn tôi, hai má đỏ rực. Thảng thốt bẽn lẽn mà rằng:

- Hòa thượng hãy đi đi! Hãy thứ lỗi vô lễ của nô tỳ đối với hòa thượng!

Nói xong, quay lưng trở vào, đóng rầm cánh cửa lại.

Tôi đứng trơ cúi gầm cái đầu xuống, không còn lý do gì biện giải được nữa. Đâu có ngờ bị một trận cự tuyệt lạnh giá như thế nơi cô nữ tỳ. Lòng như dao cắt. Tôi đờ đẫn ù lỳ đứng trồng như cột. Chẳng còn thiết chi sống nữa ở trong nhân gian. Lâu lắm, Pháp Nhẫn lựa lời khuyên giải, tôi bồi hồi nửa tỉnh nửa mê, cũng cảm thấy vơi bớt một phần chua xót.

Quày thân đi, Pháp Nhẫn bước theo. Hai đứa lang thang đi khắp các bãi tha ma nơi thôn làng, dừng chân trước từng nấm mộ. Cho tới nhá nhem vẫn tìm không thấy đâu bia mộ Tuyết Mai. Trời sập tối, bốn bề sương khói mịt mùng. Khắp nơi dằng dặc im lặng căm căm. Chỉ nghe hơi thở hổn hển của hai đứa ngơ ngẩn nhìn nhau thôi.

Tôi thấp giọng bảo:

- Bạn thân thiết ôi, thôi thế là rồi rồi. Tôi chẳng còn chịu đựng nỗi đau đớn, chỉ còn nên chấm dứt cái kiếp sống thừa thãi này đi thôi.

Pháp Nhẫn ngẩng đầu ngó trời. Rồi ngậm ngùi lựa lời an ủi, khuyên tôi hãy nên quay về chùa, rồi ngày mai sẽ lên đường về cõi bắc. Tôi đứng ù lỳ ra đó như thây ma. Pháp Nhẫn dìu tôi bước đi, hì hục lây lất trên con đường khúc khuỷu. Hỡi ôi!

- Đạp biến bắc khâu tam thập lý. Bất tri hà xứ tang khanh khanh? (Đi khắp gò hoang ba mươi dặm. Tìm đâu ra nấm mộ khanh khanh?)

Mây ôi làn gió u nùng
Dửng dưng như thể một vùng như lai
Miêu cương bồ tát an bài
Dấu bèo phôi dựng nét mày ngài phơi
Cành hoa mai tuyết gãy rồi
Đoạn hồng linh nhạn sao lồi lõm cơn
Gò hoang mấy dặm cát rờn
Lưỡi tê tục lụy cung đờn nhà ma...
Cầm bằng cũng thể mà ra
Bình minh bắc húc cũng là nam phương
Đất nào vùi lấp cô nương
Niềm riêng lão nạp lộn đường bữa nay

Think, gentle reader, how bitterly grieved I was at this time. Was there another tragedy in all the word, which could be compared to mine? My tears had ceased flowing. I perceived that my heart was as numb as wood or stone.

Độc giả tư tri, dư thử thời sầu khổ, nhân gian ninh phục ngô thất giả? - Độc giảng nghĩ xem, lão nạp thuở bấy giờ đau khổ như thế, nhân gian còn ai đau khổ bằng? Nước mắt đã ngừng chảy? Cảm thấy cõi lòng mình đã biến thành gỗ đá. Quyết ý lên đường về viếng sư phụ ở chùa. Cùng Pháp Nhẫn khăn gói lên đường.
Nhi bất tri dư nhĩ thiên u hận, chính vị hữu ngãi giả. Yet, I did not know when all my sorrows that filled all the wide heavens, would come to an end. I now put aside my brush, finding it unbearable to say more.

TO THE HAPPY FEW
(Cuốn truyện của Đại sư Tô Mạn Thù có nhiều trang quá thảm khốc. Lúc dịch, tại hạ thỉnh thoảng có thêm vài lời vui vẻ vào, cốt để nhẹ bớt tính cách quá khốc liệt... Độc giả nguyên lượng).
Năm 1969
Tô Mạn Thù
Bùi Giáng dịch
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Lời tạ lỗi muộn màng

Lời tạ lỗi muộn màng Viết cho H., HQ Tr.Uý tại BTL/HQ bến Bạch Đằng ngày xưa. Nếu anh tình cờ đọc được thì xem như đây là một lời tạ lỗi m...