Xích Điểu - Nhà báo lớn, nhà thơ
trào phúng xuất sắc 1910 -
2003 (*)
Xích Điểu là một ngòi bút viết tiểu phẩm sắc sảo, đồng thời
là một nhà thơ trào phúng tài hoa, có bản lĩnh. Ông viết nhiều và nhanh, hầu
như những thập niên 50, 60 thế kỷ trước, ngày ngày ông đều có tiểu phẩm, hoặc
thơ đả kích trên các báo Nhân Dân, Cứu quốc, Thống nhất, Văn nghệ… hoặc
kịch truyền thanh ngắn trên Đài Tiếng nói Việt Nam đêm đêm.
Trong các thể loại khác nhau về báo chí và văn học, Xích Điểu
dùng đánh địch và phê phán sâu sắc những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ cán bộ
nhân dân, nổi trội nhất, thuận tay nhất vẫn là văn tiểu phẩm châm biếm, đả
kích.
Tôi còn nhớ những năm 60 của thế kỷ trước, tôi thường đến đặt
bài ông cho buổi phát thanh vào Nam, hoặc văn nghệ của Đài. Ông hỏi tôi: cậu
định nói vấn đề gì, bao nhiêu trang, và hôm nào lấy ? Rồi ông cứ đúng hẹn gửi đến
trực tiếp, hoặc đi vắng đâu thì văn phòng, người nhà chờ sẵn để giao bản thảo.
Khi nào ông viết khuya mệt thì để trên đầu giường, tôi cứ quen thường lệ tự động
lấy mang đi, không dám đánh thức ông để ông nghỉ. Tác phong làm việc của nhà
báo Xích Điểu bao giờ cũng nhanh nhẹn, khoa học, và giữ đúng lời hứa. Khi đi
công tác đâu xa, thì ông hẹn lại điện thoại xin lỗi. Thời kỳ đánh Mỹ, lâu lâu
thính giả Đài Tiếng nói Việt Nam thấy vắng kịch truyền thanh của ông
lại có thư hoặc điện thoại hỏi và trách móc. Có thời kỳ tôi đã nhận nhiều thư
phê bình của thính giả, khen, chê, thêm bớt những tiểu phẩm và kịch ngắn của
Xích Điểu. Tôi lại chuyển đến ông, và ông lại tiếp tục viết hay hơn, hấp dẫn
hơn. Ông xem đó là sự khích lệ và động viên quý giá. Xích Điểu là tấm gương làm
việc, học tập, sáng tác của một cây bút có bản lĩnh. Gần mười năm trở lại đây
vì tuổi cao, sức yếu ông ít viết. Nhưng ông vẫn theo dõi thời cuộc và biên soạn,
sưu tầm lại những sáng tác của mình hệ thống lại để có thể in hoặc tái bản. Chị
Ngọc Dung vợ ông đã sưu tập lại sách báo cũ và cho tôi xem di cảo của ông để lại
khá dày dặn.
Ông đã viết cho Thời báo Nông Công Thương và Phụ nữ thời
đàm những năm sau khi đỗ tú tài (1930). Sau đó ông viết sách, truyện dài
và truyện ngắn, năm 1932 tiểu thuyết Cô lái đò sông Thương, một chuyện
tình lãng mạn. 1933 viết truyện Hy sinh một truyện dài khoa học viễn
tưởng. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ ông viết bằng tiếng Pháp cho báo Le
Travail (Lao động), L' Essor Indochinois (Đông Dương cất cánh).
------------------------------------------
(*) Nhiều tài liệu ghi sai, ông sinh 1913 – và mất 2000
Có lần ông kể với tôi : Năm 1937, bạn đọc – nhất là thanh
niên trí thức – ít biết đến văn học cách mạng, ông thường viết những bài văn
chính luận giới thiệu văn thơ của các nhà văn cách mạng: Tố Hữu nhà thơ của
tương lai và Mấy chùm hoa thơ của tuổi trẻ hướng thanh niên vào đời sống
văn học tiến bộ. Xích Điểu đã nhiệt thành ca ngợi cách mạng vô sản bằng những
bài báo tiếng Pháp của mình đăng khắp từ Bắc vào Nam, và đã tiên đoán nhà
thơ Tố Hữu là nhà thơ tiến bộ của tương lai giữa lúc thơ ca yêu nước, thơ ca
cách mạng còn non trẻ. Những năm sau này 1957 – 1960 Xích Điểu thường được nhà
thơ Tố Hữu gọi là "Chim đỏ", hoặc đùa với ông là Oiseau en chainer –
Con chim bị xiềng, ông dịch nôm chữ Xích (Xiềng) Xích Điểu bảo "Chỉ có Kim
Thành là vàng mới xiềng được ông" mà Kim Thành là tên thật Tố Hữu và hai
ông lại ôm hôn nhau, cười khúc khích.
Năm 1939, thực dân Pháp bắt ông lưu đày ở nhà ngục Sơn La.
Hôm sinh nhật lần thứ 93 (7-4-2003) tại căn nhà vài phòng chung cư 410 Trần
Hưng Đạo, Quận 5, các bạn tù còn sống sót ở Sơn La năm nào cũng đến dự trong đó
có đồng chí Nguyễn Đức Tâm, các đồng chí cách mạng lão thành Phan Triêm, Trần
Trọng Tân, Trịnh Kim Ảnh, các nhà báo, nhà văn cao tuổi Phan Hiền, Tống Văn
Công, Việt Thảo, Trần Thanh Phương… Các bạn đã ôn lại lúc bấy giờ Xích Điểu
cùng các bạn tù tổ chức tờ báo Suối Reo trong ngục Sơn La, viết kịch,
viết tuồng cho tù nhân diễn. Tuồng Decous thất thủ, vở kịch nói Dừng
bước trên đường, kịch Con chó chết và các hài kịch của Molières
được ông dàn dựng trong nhà tù Sơn La. Những bài thơ trữ tình giàu ý chí cách mạng
được các tù nhân cộng sản ngâm nga: Xuân trong tù, Tết ở Sơn La, Giấc mơ
trong ngục tối… Lúc bấy giờ nghệ thuật còn ít nhiều ảnh hưởng của trào lưu lãng
mạn, nhưng thơ ông thể hiện được tinh thần yêu nước, kêu gọi tù nhân đấu tranh…
Đồng chí Trần Trọng Tân, nguyên Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, cũng
là chiến sĩ đấu tranh trong nhà lao Côn Đảo, hôm ấy cũng đến mừng sinh nhật và
chúc lão tướng giữ vững tinh thần cách mạng và dũng khí năm xưa. Năm 1943 ra
tù, Trần Minh Tước tiếp tục hoạt động và đến tháng 8-1945 tham gia cuớp chính
quyền ở Lạng Sơn, được Bác Hồ giao cho trọng trách Chủ tịch tỉnh địa đầu biên
giới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài của dân tộc. Trong giai đoạn này
Xích Điểu viết cho báo ở Chiến khu Việt Bắc như tờ Nhân Dân, Cứu quốc, Đài
Tiếng nói Việt Nam, Quân đội…
… Ông là thủ trưởng của tôi những ngày ở báo Thống nhất, được
biết ông làm việc và viết lách rất nhanh, rất khỏe, lớp trẻ chúng tôi lúc bấy
giờ đều bái phục sức sáng tác của lão ông, của một cây bút có tầm cỡ trong làng
báo, làng văn hiện đại Việt Nam. Ông vốn là cộng tác viên nhiều năm liền của Tuần
báo Văn nghệ với các bài tiểu phẩm, thơ trào phúng đã kích dưới bút
hiệu Xích Điểu.
Hòa bình lập lại năm 1954, ông về Thủ đô giữ chức vụ Vụ trưởng
Vụ báo chí, Giám đốc Sở báo chí Trung ương và góp phần lãnh đạo Hội Nhà báo Việt
Nam với cương vị Phó Tổng thư ký thường trực. Trong bộn bề công việc nhưng nhà
báo Xích Điểu vẫn dành thì giờ viết thường xuyên cho Thống nhất.Từ 1955 –
1975 suốt 20 năm viết hàng trăm vở kịch truyền thanh ngắn đầy tính chiến đấu và
bao tiểu phẩm, thơ đả kích đánh trực diện vào chủ nghĩa thực dân mới xâm chiếm
miền Nam. Các tập thơ Cướp mới, cướp cũ, tiểu thuyết trào phúng Ba
xoay diễn nghĩa, các tiểu phẩm Trắng đen (1960). Sau mặt nạ nhân
vị (1961), Người hay vật (1962), Cái đuôi chó (1969), Chủ
nghĩa lưu manh hiện đại (1979) và tiểu thuyết Mệnh phụ cuồng mê (1989).
Ông chĩa mũi nhọn vào kẻ thù của nhân dân, phê phán các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội và bọn phản động quốc tế…
Hôm tôi vào bệnh viện Chợ Rẫy, ông đã gần hôn mê không còn biết
gì nữa. Tôi sờ hai chân đã lạnh, ông chỉ sống nhờ sự can thiệp của máy móc và
huyết thanh, nhưng đôi mắt vẫn mở.
Tôi lặng lẽ nhìn ông, nước mắt rơm rớm ! Mới đây ông và bà Ngọc
Dung đôi bạn đời dìu nhau lên căn hộ nhà tôi thắp hương cho vợ tôi – người mà
ông quý mến dành nhiều tình cảm lúc sinh thời. Ai đời lá vàng người 92 tuổi đến
viếng người chưa đến 50, lẽ ra phải ngược lại…
Cả một đời ông dồn tâm lực cho báo chí và văn thơ cách mạng,
tô đẹp cho non sông đất nước.
Như lời thơ cảm tạ của ông lúc sinh nhật lần thứ 85, trước đó
ông mệt nặng, nhưng đã vượt qua và gửi thư cho tôi:
Cảm tạ lời mừng tuổi tám lăm
Cộng đồng tình nghĩa tự cao thâm
Vượt xa dương lịch hai ngàn ấy
Tô đẹp thêm đời mấy chục xuân.
Ông là bạn đồng niên thân thiết với Nguyễn Tuân,"Mẫu đối
thoại trong tôi" ông gửi Nguyễn Tuân – xuân 1987 :
Tình ca xuân sóng mướt
Riêng ta ngã chiều rồi
Thôi cười gừng, cười ớt
Khỏi khuấy chuyện cay đời
Cung đàn ông hết "nốt"
Cộm tai, lọt tai ai?
Khô cứng rồi ư, huyết quản già ?
Không không hun nóng thổi bùng ra
Từ tim, công phá rào tiêu cực
Góp lửa phê bình, lửa của ta ?
Bút kiếm luyện không mòn
Xuân không buồn hoàng hôn
Đường Đảng : Thiên lý thép
Xung kích bạt Trường Sơn
Đinh Mão, 1987.
Nguyễn Tuân nhận thơ này chuyển cho tôi, 6 tháng sau ông mất
(7-1987).
Hôm Nguyễn Tuân mất, ông mua hoa, rượu cúng Nguyễn Tuân, và mời
tôi Đoàn Giỏi đến uống chén rượu buồn. Ông đặt ảnh Nguyễn Tuân dưới bức hoa
hình con Tôrô – Bò tót Tây Ban Nha, tượng trưng cho lòng dũng cảm…
Và như bức trướng gấm thêu treo giữa gian phòng ông do Hội
Nhà báo Việt Nam tặng "Phúc Lộc Thọ Trường" nhân sinh nhật 93
mùa xuân của ông (2003) đã nói lên công hiến của một nhà báo, nhà thơ lão thành
vào tù ra khám mà vẫn để lại nhiều tác phẩm đẹp cho đời. Ông mất sau sinh nhật
này bốn tháng (2003) tôi đã tiễn ông đến tận nơi hỏa táng Bình Hưng Hòa.
6/1/2010 Đoàn Minh Tuấn
6/1/2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét