|
||
Sáng tạo văn học là
niềm vui lớn của nhà văn nhà thơ. Những thi phẩm này "khởi phát tự cõi
lòng" của thi nhân đã truyền vào tâm hồn người đọc, người nghe những xúc
cảm thẩm mỹ sâu lắng, nên thơ, còn mãi với thời gian trong ký ức lớp lớp
người yêu thơ.
Là người sống hết mình
với thơ, tới cuối đời nhà thơ Yến Lan vẫn làm nhiều thơ, mỗi bài thơ là một
mảng tâm hồn ông mang ước vọng tiếp tục dâng hiến nghệ thuật thơ ca cho đời
và cả tâm trạng nuối tiếc tuổi thanh xuân.
Trong bài biết này tôi
chỉ xin chọn một số bài thơ ông sáng tác vào những năm cuối đời ở tuổi tám
mươi: Nuối, Vô đề, Đêm hoa quỳnh nở nhớ Chế Lan Viên, Trăng chín để
ghi lại những cảm nghĩ của một người thuộc lứa tuổi con cháu của ông và không
nguôi lòng yêu quý, ngưỡng mộ thơ ông.
Các bài thơ nêu trên
đều là thơ tứ tuyệt thất ngôn. Đặc trưng của thơ tứ tuyệt là hàm súc, lời ít,
ý nhiều, mỗi từ mỗi câu vang xa, ý bay bổng ở ngoài lời. Tuy theo thể tứ
tuyệt - "một thể chuyển tiếp giữa phong cách cổ phong với phong cách
luật thi" nhưng thơ tứ tuyệt của nhà thơ Yến Lan rất mới, rất hiện đại
về tứ thơ cũng như về hình ảnh ngôn ngữ, và nhạc điệu.
Sự cảm nhận thực tế
bằng xúc cảm thẩm mỹ, thi vị ấy làm cho thơ ông vừa nhẹ nhàng, thanh tao vừa
sâu xa, lắng đọng.
Thu qua in nhạt vó
trăng mòn
Lốm đốm vườn cam nép má son
Ngoảnh lại khuất dần mùa rụng lá
Cành còn dâng tặng quả cô đơn
(Nuối)
Nhìn trời thu thấy vó
trăng mòn, nhìn vườn thu thấy cam nép má son, ngoảnh lại với thu qua thấy mùa
lá rụng khuất dần…. Tất cả gợi lên sự hao khuyết, sự nuối tiếc biết bao mùa
thu đẹp đã qua. Nhà thơ nghĩ không biết nỗi cô đơn trong ông có thể kết thành
quả ngon để "dâng tặng" cho đời được không? Nhưng tình yêu cuộc
sống, yêu thơ tràn đầy trong trái tim ông đã trở thành bất cập trước tuổi già
sức yếu nên ông tự nhủ thầm:
Nuối tiếc làm chi
chiếc gậy tà
Ghé chân bên giậu anh hàng xóm
Chẳng lẽ mình ta dắt lấy ta
(Vô đề)
Ông dựa vào chiếc gậy
tà để muốn đi xa mà bước chân nào có vững, đành phải ghé chân bên
giậu anh hàng xóm. Từ đấy, mới có câu tự vấn:"Chẳng lẽ mình ta
dắt lấy ta" đã gieo vào lòng người đọc nỗi thương cảm sâu lắng với
tâm trạng của nhà thơ.
Câu cuối của bài Vô
đề cũng như câu cuối của bài Nuối là hai câu hỏi
nghệ thuật làm lóe sáng chủ đề của từng bài thơ.
Tuổi già thường sống
với những hoài niệm về quá khứ, về những ngày tháng đã qua gắn với bao kỷ
niệm buồn,vui, được, mất… Trước những chi tiết rất thực - kể cả những điều
tưởng chừng như nhỏ nhặt nhất, cũng làm nhà thơ
"nao lòng", trăn trở nghĩ suy, liên tưởng.
Đêm khuya chờ xem hoa
quỳnh nở là thú vui tao nhã thường thấy ở những người yêu hoa, đối với nhà
thơ Yến Lan thời khắc và cảnh tượng ấy còn ẩn chứa bao nỗi niềm, bao tâm sự…
Hương tụ trời khuya
đọng sắc quỳnh
Nửa nghiêng tiền kiếp, nửa lai sinh
Một cánh phù hoa bỗng lộ hình
(Đêm hoa quỳnh nở nhớ Chế Lan Viên)
Trong khoảnh khắc sắc
quỳnh hiện ra với vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết, dịu dàng. Hương của cả thời
gian như tụ về, hương của cả không gian như đọng lại trên đóa hoa vừa hé nở…
đã gợi lên trong tâm hồn nhà thơ nỗi liên tưởng về tiền kiếp và về tương lai
của một con người. Từ liên tưởng đó, cùng với sương khói "ba canh
mộng", nhà thơ chợt nhận ra rằng người mà ông đang nhớ tới là Chế Lan
Viên - một thi sĩ tài hoa.
Những ngày tháng cuối
đời nằm trên giường bệnh, tay run, chân yếu nhưng ông vẫn làm thơ. Trong hồi
ký về người bạn đời của mình, cụ bà Nguyễn Thị Lan ghi lại: "… Tay run
không viết được, anh nhờ tôi chép. Mỗi khi chợt nghĩ ra câu nào, anh giục
tôi: Mau lấy giấy bút chép ngay không thì nó trôi mất. Giấy bút lúc nào cũng
để trên bàn, cạnh chỗ anh nằm…". Sự cô đơn thường ám ảnh nhà thơ nên
không gian vắng lặng, cảnh vật cô quạnh được đưa vào trong bài Trăng
chín để thể hiện tâm trạng khi nhà thơ biết thời gian của mình chỉ
"còn trên mấy đốt tay". Nhà thơ mượn các hình ảnh: con đò trôi
xuôi, vầng trăng lẻ loi, đôi tiếng ếch kêu, mái chèo rung lạnh để diễn tả
ngoại cảnh và tâm trạng buồn vắng.
Đò trôi lấy bẩy nước
xuôi dòng
Trăng bò đầu cành rụng xuống sông
Đôi tiếng ếch kêu từ gốc bẹ
Đáp vào rung lạnh mái chèo cong
Đọc Trăng chín của
nhà thơ Yến Lan ta lại nhớ đến Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử viết Mùa xuân chín giữa tuổi thanh xuân, Yến Lan
viết Trăng chín khi đã vào tuổi tám mươi hai. Mùa
xuân chín của Hàn có giàn thiên lý, bóng xuân sang, tà áo biếc, lời
ca vắt vẻo lưng chừng núi… Một mùa xuân đầy âm thanh và sắc hương, dạt dào
sức sống. Còn Trăng chín của nhà thơ Yến Lan lại có đò trôi lẩy bẩy yếu
ớt theo dòng, và tạo hóa dường như vô tình bỏ rơi trăng đầu cành để trăng
rụng xuống sông. Trong không gian vắng lặng ấy chỉ có đôi tiếng ếch kêu từ
gốc bẹ đáp vào mái chèo cong rung lạnh trên làn nước tĩnh mịch. Hai cảnh vật,
hai thi hứng, hai tâm trạng ở hai độ tuổi của hai nhà thơ đối lập nhau.
Ánh trăng vàng đầy
quyến rũ cũng đã từng "ám ảnh" nhà thơ Yến Lan suốt bài Bến
My Lăng. Cũng là trăng, nhưng trăng trong
Bến My Lăng mang vẻ đẹp huyền ảo, mộng mơ
của thời trai trẻ - thời mở đầu sự nghiệp thơ ca của nhà thơ, còn trong Trăng
chín, trăng mang vẻ cô liêu khi về già.
Vì thế trăng đã rụng xuống sông và rụng cả trong lòng nhà thơ vốn rất yêu
trăng,say trăng.
Những bài thơ cuối đời
của nhà thơ Yến Lan nêu trên là những bài thơ hay trên nhiều phương diện của
nghệ thuật thơ ca.
Thơ tứ tuyệt của nhà
thơ Yến Lan phóng khoáng, bình dị. Tứ thơ, nội dung thơ tuy mới nhưng vẫn giữ
được phong cách thơ xưa, và sự triển khai tứ thơ vẫn không phá vỡ đơn vị dòng
thơ. Vậy nên thơ của ông truyền thống và hiện đại.
Là một trong bốn nhà
thơ lớp trước ở Bình Định trong phong trào thơ mới, những năm tập kết ra Bắc,
ông vẫn tiếp tục sáng tác phục vụ kháng chiến, phục vụ cách mạng. Dấu chân
ông đã in khắp các miền quê, mỗi nơi đến đều để lại cho nhà thơ bao kỷ niệm
đẹp như lời ông tâm sự: "Tôi đến tôi yêu – tôi về tôi tiếc". Những
năm cuối đời ông vẫn say mê sáng tác, thơ tứ tuyệt của ông thời gian này giàu
có nhuốm màu cô tịch nhưng trước sau ông vẫn là một nhà thơ đôn hậu, sớm tham
gia cách mạng, luôn muốn dâng tặng nghệ thuật thơ ca cho đời.
Những vần "thơ lưu"
của ông là cuộc sống được chắt lọc qua trái tim, qua tâm hồn thi sĩ, là nghệ
thuật điêu luyện về ngôn từ, hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu… là thế giới tình
cảm bao la, là tiếng thơ của những xúc cảm chân thành. Nhà thơ Xô viết Ra un
Gamzatop từng nói: "Thơ vừa là chỗ dừng chân, vừa là cuộc hành
trình" (*). Nhà thơ Yến Lan đã chọn cho mình con đường,
khu vườn thơ như vậy.
Thanh Hải
(Theo Văn nghệ Bình
Định)
* Đaghextan của tôi. Quyển I. Bản dịch tiếng
Việt. NXB Cầu Vồng –Mátxcơva,
1984. Trang 149.
|
Thứ Tư, 20 tháng 8, 2014
Cảm nhận về những bài thơ cuối đời của nhà thơ Yến Lan
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Bùi Giáng: Người chưa bao giờ già
Bùi Giáng: Người chưa bao giờ già Bùi Giáng (1926-1998) là người hay được nhắc đến với biệt danh “trung niên thi sĩ” do ông tự nhận. Quãng...
-
Hoa muộn - Nơi mùa xuân đi qua Vũ trụ này không có bắt đầu và không có kết thúc. Hay nói đúng hơn, con người không biết nó bắt đầu từ đâu ...
-
Lời kỹ nữ - Xuân Diệu A.TÁC GIẢ: I. Cuộc đời: Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, còn có bút danh là Trảo Nha, quê quán làng T...
-
Mùa thu nguồn cảm hứng lớn của thơ ca Việt Nam 1. Mùa thu Việt Nam nguồn cảm hứng trong nghệ thuật Mùa thu mùa của thi ca là m...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét