Thứ Hai, 25 tháng 8, 2014

Em lễ Chùa này và Phạm Thiên Thư

Em lễ Chùa này và Phạm Thiên Thư

Sự gặp gỡ của Nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Phạm Thiên Thư mà theo Phạm Thiên Thư ví “Tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy như một ngọn núi gặp một đám mây”. Cả hai vô tình cùng đi thăm một người quen nằm trong bệnh viên. Nhạc sĩ Phạm Duy kể lại: “Gặp Phạm Thiên Thư ở đó tôi yêu mến anh ngay.  Sau đó thi sĩ luôn đến nhà tôi đàm đạo. Lúc bấy giờ tôi đang soạn những bài ca cho tuổi học trò như Con Đường Tình Ta Đi, Trả Lại Em Yêu…
Nhà thơ Phạm Thiên Thư
Đọc được bài thơ Ngày Xưa Hoàng Thị mà anh trao cho, tôi như bắt được viên ngọc quý và xin phổ nhạc ngay: Em tan trường về, đường mưa nho nhỏ, anh theo Ngọ về, gót giày lặng lẽ đường quê…

Nhạc sĩ Phạm Duy
Khi Phạm Thiên Thư đưa thêm thơ cho tôi phổ nhạc thì tôi chọn bài  Em Lễ Chùa Nàyvì cả hai chúng tôi đều muốn quay về xưng tụng những gì thuộc về văn minh Việt Nam, như ngôi chùa cổ ở miền Bắc là nơi lúc còn nhỏ tôi thấy đôi kẻ tình nhân thường hẹn nhau tới dâng hương cầu nguyện:
EM LỄ CHÙA NÀY
Theo thơ Phạm Thiên ThưPhạm Duy phổ nhạc
Ca sĩ Ý Lan trình bày 
Ðầu mùa Xuân cùng em đi lễ
Lễ chùa này vườn nắng tung bay 

Và ngàn lau vàng mầu khép nép

Bãi sông bay một con bướm đẹp.
Mùa Hạ qua cùng em đi lễ
Trái mơ ngon đồi gió mơn man
Từ lò hương làn trầm nghi ngút
Khói hương thơm bờ tóc em vờn.

Rồi mùa Thu cùng em đi lễ
Có con chim đậu dưới gác chuông 

Hoà lời ca vào làn sương sớm 

Gió heo may rụng hết lá vàng. 
Vào mùa Ðông cùng em đi lễ
Lễ chùa này một thoáng mưa bay
Và ngoài sân vài cành khô gẫy
Gió lung lay một cánh lan gầy.

Tàn mùa Ðông vào chùa bỡ ngỡ 
Tiễn đưa em trong áo quan này 

Từng cội hoa trầm lặng thương nhớ 

Tóc em xưa tơ óng như mây
Vườn chùa đây vào nằm trong đất
Nép bên hoa đây những hoa vàng 
Vườn đào thơm chập chờn cánh bướm 
Bướm quơ râu ngơ ngác bay ngang.

Mộ của em mộ vừa mới lấp
Có con chim nào hót trên cây

Lời của chim chìm vào tiếng suối 

Suối xanh lơ buồn khóc ai hoài.
Rồi từ đây vườn chùa thanh vắng 
Ðến thăm em ngày tháng qua mau.
Một nụ mai vừa nở trong nắng 
Hỡi em ơi ! Mây đã qua cầu 
Hỡi em ơi ! Mây đã qua cầu…

Nguyên tác bài Thơ của Phạm Thiên Thư:
Thoáng Hương Qua
Ðầu xuân em lễ chùa này 
Có búp lan vàng khép nép 

Vườn trong thoáng làn hương bay 

Bãi sông lạc con bướm đẹp
Vào hạ em lễ chùa này 
Trên đồi trái mơ ửng chín 

Lò hương có làn trầm bay 

Vờn trên bờ tóc bịn rịn
Giữa thu em lễ chùa này 
Lầu chuông có con chim hót 

Tiếng ca theo làn gió may 

Lá vàng sương gieo nhẹ hạt
Sang đông em lễ chùa này 
Ngoài sân có mưa bụi bay 

Hắt hiu trong cành gió bấc 

Vườn chùa rụng cánh lan gầy
Cuối đông đưa em tới đây 
Trong lòng áo quan gỗ trắng 

Tóc em tợ óng làn mây 

Cội hoa tưởng ai trầm lặng
Em vừa nằm xuống đất này 
Vườn trong có bông đào nở 

Con bướm chập chờn hương bay 

Quơ sợi râu vàng bỡ ngỡ
Nắm đất nào vừa lấp mộ 
Có con chim hót đầu cành 

Tiếng tan trên giòng suối xanh 

Nước ơi sao buồn nức nở
Bây giờ tôi biết em đâu 
Cuối vườn nụ mai nhiệm mầu 

Vừa thoát làn hương trinh bạch 

Em ơi ! Mây đã qua cầu…
Phạm Duy đã phổ nhiều bài thơ của Phạm Thiên Thư (trái) thành các ca khúc đi vào lòng người.
Tóm tắt lại, khi tôi gặp thi sĩ Phạm Thiên Thư (cựu tu sĩ, pháp danh Tuệ Không) vào năm 1971 là tôi như thoát xác, vượt ra khỏi những đắng cay, chán chường và bế tắc của Tâm ca, Tâm phẫn ca, Vỉa hè ca… Tôi muốn tạm bỏ việc xưng tụng cái nhất thời để tìm về cái muôn đời, nghĩa là tạm bỏ việc soạn nhạc nhân hòa để soạn nhạc nhiên hoà, tạm bỏ soạn nhạc tình cảm, xã hội để soạn nhạc tâm linh…(Phạm Duy)
Phạm Thiên Thư
Theo Tuệ Lãng (Lê Quang Đức):
Trước 1975, Phạm Thiên Thư đã rất nổi tiếng với những thi tác được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc trong Đạo ca, và giải Nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Đoạn trường vô thanh. Đọc những bài thơ tình của ông, không ai nghĩ ông đã từng trên 10 năm xuất gia tu hành nơi cửa Phật.
Con chim chết dưới cội hoa
Tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao
Tiếng kêu của loài dị điểu trong thơ ông thật bi thảm, vừa cất lên thì đã rụng xuống dòng sông rộng. Cái chết sinh ra để phụng hiến tình yêu. Yêu đến buồn chết, thật là khó để người đời hình dung một tu sĩ có đời sống phong kín nơi cảnh chùa lại có ý nghĩ như vậy. Nhưng Phạm thi sĩ đã viết ra vậy.
Tôi hay đến ngồi chơi với ông ở bên ngoài quán cà phê Hoa vàng ở Cư xá Bắc Hải. Một đôi dép nhựa, một túi xách lỉnh kỉnh thơ, tài liệu, thuốc,… dưới chiếc ghế xếp. Ông như một lão nông hiền hậu luôn tươi cười đón khách. Sau những vòng khói thuốc, đôi mắt như nhìn vào một cõi hư không nào đó. Hàng chục lần đến thăm ông, tôi vẫn thấy ông ngồi như vậy. Không biết ông viết khi nào nhưng số lượng những câu thơ, những tác phẩm ra đời đều đều. Đến nay ông đã viết được 126 nghìn câu thơ… Ông là người viết rất nhanh, lại viết theo kiểu “rót” thơ ra từ vô thức. Ông nói ông thi hóa Kinh Kim Cang trong 4 ngày, 10 bài Đạo ca ông chỉ viết trong 2 ngày, tập trường thi Động hoa vàng cũng chỉ 7 ngày liền động bút là xong…
Phạm Thiên Thư là người Việt Nam độc nhất đã thi hóa 7 bộ kinh Phật bằng một ngôn ngữ thuần Việt, sáng tác Từ điển cười (Tiếu liệu pháp) bằng thơ, làm Từ điển châm ngôn, viết 3.320 câu lục bát kể chuyện lịch sử trong Hát ru Việt sử thi.
Ông có rất nhiều kỷ lục, nhiều điều để tự hào, để kiêu hãnh, nhưng dường như ông không để ý đến những thứ ấy. Ông khoái nhất là chuyện ông rất giống với cụ Nguyễn Du. Ông kể một tràng: 10 tuổi bố Nguyễn Du mất, tớ cũng vậy. Mẹ Nguyễn Du là một người phụ nữ đất quan họ Bắc Ninh, vợ lẽ dòng thứ hai. Gia đình cụ Nguyễn có bốn anh em, cụ lại sinh hạ được bốn người con (?). Tớ cũng y chang như vậy. Ông còn tâm đắc chuyện ông có ba bà vợ cả thảy, cụ Nguyễn Tiên Điền cũng chỉ có vậy, không hơn tớ… Cụ Nguyễn và tớ đều là tú tài. Cụ Nguyễn sống qua hai “chế độ” Lê mạt, Nguyễn sơ. Tớ cũng vậy. Cụ Nguyễn lưu lạc 10 năm ở Thái Bình, còn bố tớ quê chính cũng là Thái Bình. Cụ Nguyễn mất năm 1840 (?), đúng 100 năm sau, 1940 thì tớ ra đời…
Nói chung, thi sĩ họ Phạm “vận” hết mọi dữ kiện có thể có để thấy mình “giống y sì” cụ Nguyễn Du. Thế nhưng, thực sự mẹ Nguyễn Du là vợ lẽ thứ ba của cụ Nguyễn Nghiễm, một đại quan có đến 8 bà vợ và 21 người con trai (chưa kế nữ nhi thường tình ?). Mẹ Nguyễn Du lại có đến 5 đứa con. Còn cụ Nguyễn mất năm 1820 chứ không phải 1840 như Phạm thi sĩ kể…
Song cũng có điều xác đáng gần gũi đại thi hào Nguyễn Du, ấy là Phạm Thiên Thư đã “dũng cảm” dám qua mặt cụ Nguyễn để viết lại Truyện Kiều. Ông đĩnh đạc “phá bỏ” thành tích đỉnh núi thơ ca dân tộc để viết Đoạn trường vô thanh, một tác phẩm xem như hậu Truyện Kiều. Và điều mà ông làm được hơn cụ Tố Như là đã cố gắng Việt hóa câu chuyện Kim Kiều để “sáng tác phải có cái riêng của Việt Nam” như ông nói. Ở thi phẩm này, ông còn hơn cụ Nguyễn Du những… 20 câu lục bát. Lục bát là một thể tính đặc thù của văn hóa Việt, trên hành trình sinh hóa của  nó, Phạm thi sĩ chính là một trong những số ít nhà thơ đã chạy tiếp sức cho cụ Nguyễn Du một cách rất xứng đáng bằng những vần thơ sang trọng, tuyệt bích…
Tôi không rõ nét mặt của cụ Nguyễn Du, nhưng theo chính sử nhà Nguyễn đã ghi thì khuôn mặt cụ Nguyễn dường như nhàu nhĩ, in hằn nếp nhăn ưu tư về phận người trên mặt đất và sự chán nản cảnh quan trường gượng ép. Trong khi khuôn mặt Phạm tiên sinh ngời lên vẻ thanh thoát, cười cợt, vô ưu. Duy nhất là chiếc mũi lân, nhưng chẳng hề tỏ rõ chút quyền lực nào ?!
Không biết ông có phải “hậu thân” của Hồng Sơn lạp hộ (biệt hiệu của cụ Nguyễn Du) hay không nhưng chỗ ông trú ngụ hiện nay lại là đường Hồng Lĩnh, cũng là tên một ngọn núi ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh, quê cụ Nguyễn. Chuyện “hậu thân” Nguyễn Du là Phạm Thiên Thư có lẽ nên hỏi con vạc đậu bờ kinh vậy:
Hỏi con vạc đậu bờ kinh
Cớ sao lận đận cái hình không  hư
Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
Mặc chi cái áo Thiền Sư ỡm ờ…

Theo Võ Phiến 
Nguyễn Du có Đoạn Trường Tân thanh, Phạm Thiên Thư có Đoạn Trường Vô Thanh;
Nguyễn Du có thơ Chiêu Hồn, ông cũng có Chiêu Hồn Ca. Mặt khác, Phật có kinh Kim Cương, kinh Hiền Ngu, ông cũng phỏng soạn Kinh Ngọc, Kinh Hiền, Kinh Thơ v.v…  Đời ông từng bị thu hút ngược xuôi nhiều hướng. Nhưng Phạm Thiên Thư làm văn nô không thành văn nô, làm sư cũng không hẳn ra sư. Con vạc bờ kinh nó ghẹo ông:
Hỏi con vạc đậu bờ kinh
      Cớ sao lận đận cái hình không hư
      Vạc rằng: Thưa bác Thiên Thư
      Mặc chi cái áo thiền sư ỡm ờ.”
     (Động Hoa Vàng)
Phạm Thiên Thư chỉ đóng trọn vai tuồng xuất sắc khi ông trở về với chính mình, tức một tu sĩ đa tình. Và trong vai tuồng ấy ông thật tuyệt vời, đáng yêu hết sức.
Thử tưởng tượng: Nếu Phạm Thiên Thư sớm tối miệt mài kinh kệ, một bước không ra khỏi cổng chùa, không biết tới chuyện hẹn hò, không hề lẽo đẽo đưa em này đi rước em nọ về v.v… thì nền thi ca của chúng ta thiệt thòi biết bao. Lại thử tưởng tượng Phạm Thiên Thư quanh năm suốt tháng chỉ những em này em nọ dập dìu, nhớ thương ra rít, mà không màng tới kinh Hiền kinh Ngọc, không biết chuông biết mõ gì ráo, thì trong kho thi ca tình ái của ta cũng mất hẳn đi một sắc thái đặc biệt chứ.
Cho nên ông cứ ỡm ờ thế lại hay. Có tu mà cũng có tình. Cái tình của một người tu nó khác cái tình của người không tu, nó có nét đẹp riêng. Thật thế, khi yêu đương có lần ông kêu than vì một dáng hình mất hút:
dáng em nho nhỏ
      trong cõi xa vời
(‘Ngày Xưa Hoàng Thị...’)
…..Phạm Thiên Thư xuất hiện muộn ngưng bút sớm, mà sự nghiệp thi ca của ông vẫn đồ sộ. Năm 1975, mới ba mươi lăm tuổi ông đã có ngót chục vạn câu thơ. Phong phú là một đặc điểm của thế hệ văn nghệ sĩ bấy giờ…..
Vài bài thơ Của Phạm Thiên Thư
Chim Quyên Từ Độ Bỏ Thôn Đoài
Chim quyên từ độ bỏ thôn Đoài

Quyên chẳng buồn thảm thiết gọi ai

Về núi Nam gặp cành hoa trắng
Quặn đau lòng ngó phiến tâm mai
Đồi Cù
Thả gót giầy lãng đãng bên hồ
Trên đồi Cù thông rụng lá khô
Cơn sương trắng lùa ta mải miết
Xuống ven bờ phi hữu phi vô

Đan Áo

Em ngồi đan chiếc áo len xanh

Hẹn gió thu về gửi tặng anh
Rồi bỏ đó em vào thiên cổ
Anh một đời ngóng áo thiên thanh.
Phơi Áo

Xưa em phơi áo giữa thu phong
Lá vàng cài trên lụa rực hồng

Nay áo đã cuốn về thiên cổ

Lá vàng bay lạnh nỗi niềm không.
Ngập Ngừng
Nàng xếp lụa đào

vào rương nho nhỏ

còn anh quần áo
nửa đời lung tung

muốn nhờ tay nọ

lòng sao ngập ngừng
Quét Hoa

Hồn rơi theo từng cánh mang mang
Em bỗng đâu quét cội hoa vàng

Gom tình ta vào trong rổ trúc

Rồi lạnh lùng hắt xuống tràng giang
Tà Dương
ta dong xe ngựa
ven núi tà dương

áo em phớt hồng

trong chiều nắng quái
gò cương ngựa lại
chào em bên đường
tay vẫy tà dương
em là chiêu dương

Túy Phượng sưu tầm





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

XXXXNgã tư hoàng hôn 2

Ngã tư hoàng hôn 2 Chương 12 Mỗi lần ông Tuân đổi chức vụ - đúng hơn là đổi địa vị - nhà ông lại tăng nhịp khách khứa viếng thăm. Tất nh...