GOGOL - Thử cảm nhận một thế giới nghệ thuật
I. Một thiên tài chưa mấy được
tri ngộ
Nhà văn Nga Gogol Nikolai
Vassilievich (1809-1852) có một số phận khác thường, vừa ngời sáng vinh quang
không thể dập tắt, vừa chứa chất nhiều uẩn khúc khó giải toả.
Sinh ra và lớn lên ở Ucraina,
gắn bó tinh thần với quê hương xứ sở của mình, Gogol - khác với thí dụ Taras
Shevchenko, thi hào Ucraina sống và sáng tác cùng thời với ông - suốt đời chỉ
viết bằng tiếng Nga(*)
và đã trở thành một cây bút Nga cao thủ, cuốn hút đến mê hồn người đọc bằng
từng câu văn Nga của mình - đi trước mọi yếu tố nghệ thuật khác. Tình yêu của
bạn đọc đã đến với Gogol rất sớm, vượt xa mong ước của ông. Hai mươi hai tuổi
đời, bằng tập truyện văn xuôi đầu tayXẩm tối trong xóm gần Dikanka,
Gogol đã làm cho cả thế giới văn chương Nga để ý đến ông, nhìn thấy ở ông một
tài năng đầy hứa hẹn. Giữa nhiều tiếng nói tán thưởng tập sách này, bên cạnh
lời bình phẩm nổi tiếng của Pushkin, người đỡ đầu nhà văn trẻ, đáng dẫn nhận
xét của một đại trí thức thời ấy - công tước V.F.Odoievski. Đọc xong “những
truyện dân gian tiểu Nga” của một tác giả không quen biết dấu mình dưới bút
danh “Ruđưi Panko, chủ trại nuôi ong”, Odoievski từ kinh đô Peterburg viết cho
một người bạn ở tỉnh: “Anh không tưởng tượng nổi, những thiên truyện của anh ta
cao hơn biết bao, cả về ý tứ lẫn lối kể chuyện và hành văn, so với tất cả những
gì xưa nay người ta ấn hành dưới tên tiểu thuyết Nga!”. Bản thân sáng tác văn
xuôi, Odoievski đã cảm nhận nhạy sắc độ chênh lệch đáng mừng về giá trị thẩm mỹ
giữa những sáng tác đầu tay của Gogol với nền văn xuôi Nga đại trà thời ấy.
Khác với thơ ca, văn xuôi nghệ thuật Nga cho đến đầu những năm 30 của thế kỷ
XIX vẫn còn ở thời kỳ ấu thơ kéo dài, và bên cạnh nhiều quyển truyện nghiêm
trang nhưng nhạt nhẽo, bắt chước văn xuôi lãng mạn Tây Âu, dăm ba tiểu thuyết
phiêu lưu - bợm nghịch ăn khách của mấy cây bút làm báo, biết chiều thị hiếu dễ
dãi của công chúng kém văn hóa chỉ làm nghiêm trọng thêm tình hình. Công lao to
lớn của Gogol trước văn học Nga, được công luận lập tức thừa nhận, chính là ở
chỗ chỉ trong vòng 4-5 năm, bằng những kiệt tác của mình ông đã làm thay đổi
hẳn cục diện, đã nâng văn xuôi Nga lên một trình độ nghệ thuật mới, cao chưa
từng thấy, truyền cho nó một xung lực phát triển mạnh mẽ và liên tục. Nhà văn
S.T.Aksakov, thuộc thế hệ cha chú của Gogol, trong hồi ký nhớ lại cảm giác sung
sướng của mình, khi mà đầu năm 1835, ông được đọc trong tập truyện mới in của
Gogol -Mirgorod - hai tác phẩm mà, theo ông, chỉ một thiên tài mới viết nổi - Những điền chủ kiểu xưa và Taras Bulba. Quả thật, hai thiên truyện ấy, cùng với hai truyện Đại lộ Nevski và Nhật ký người điên in trong tập Tạp bút (Arabeski) của Gogol ra cũng
trong năm 1835 đã là những tác phẩm có thể so sánh được với những thành tựu cao
nhất của văn xuôi châu Âu. Với sự xuất hiện của thiên tài Gogol, sự lên ngôi
của văn xuôi trong văn học Nga, sau thời đại hoàng kim của thơ ca, đương có cơ
trở thành thực tại. Những yếu tố hiện thực đã bộc lộ khá rõ trong sáng tác của
Gogol gây thêm niềm tin rằng thời đại mới đương đến ấy sẽ là thời đại của văn
xuôi hiện thực chủ nghĩa. Hy vọng và niềm tin ấy lần đầu tiên được diễn đạt
rành mạch trong một bài viết dài, có tính cương lĩnh, của Belinski, công bố
cũng trong năm 1835 ấy. Trong bài viết ấy, phân tích dưới góc độ ấn tượng thẩm
mỹ những truyện mới nhất của Gogol, so sánh chúng với những sáng tác của các
nhà văn khác cùng thời ở trong và ngoài nước, Belinski chỉ ra nét ưu việt quý
giá, xứng đáng được học tập ở văn xuôi của Gogol - “chất thơ của đời thực” và
tuyên bố: Gogol là thủ lĩnh mới của văn học Nga, thay thế cho Pushkin đã hết
thời, đã làm xong sự nghiệp của mình!
Trong số phận của Gogol,
Belinski đóng vai trò định mệnh. Là nhà phê bình văn học có khiếu trời cho, rất
nhanh chóng phát huy ảnh hưởng xã hội, không khỏi thiên vị và hay thay đổi ý
kiến, vô cảm với nhiều hiện tượng phức tạp và kỳ thú của văn học cùng thời, thí
dụ, những sáng tác trác việt cuối đời của Pushkin, Belinski đã tỏ ra có biệt
nhãn với Gogol, đã thực sự phát hiện Gogol cho công chúng độc giả Nga, tôn vinh
ông một cách xứng đáng. Trong vòng gần một thập kỷ, Belinski là người bình phẩm
xuất sắc nhất sáng tác của Gogol, từ tập truyện đầu tay cho đến Những linh hồn chết (tập I). Một phần quan trọng nhờ Belinski mà vinh quang của một
nhà văn đại tài đã bao quanh Gogol từ khi ông mới hai mươi sáu tuổi. Nhưng
Gogol đã phải trả giá đắt cho cái vinh quang đến sớm ấy. Với ông đã xảy ra cái
mà, may sao, không xảy ra với ai nữa trong văn học Nga: từ đầu những năm 40 của
thế kỷ XIX, tên ông bị gắn liền với một trường phái văn học mà thực ra ông
không có quan hệ gì với nó, nhưng lại được suy tôn là người sáng lập và chủ
tướng của nó. Người đã suy tôn ông và sẽ bực bội thất vọng về ông lại chính là
Belinski - linh hồn đích thực của “trường phái tự nhiên” (hay là tả chân) trong
văn học Nga. Giữa một Belinski càng về cuối đời càng trở thành một người cách
mạng cuồng nhiệt, mong muốn biến toàn bộ văn chương thành vũ khí sắc bén để đấu
tranh giải phóng xã hội và một Gogol sau thắng lợi ồn ào của kịch Quan thanh tra (1836) ngày càng xa lánh đời
sống văn học và chính trị, tâm trí bị cuốn hút vào những cuộc tìm kiếm cứu rỗi
tinh thần rất khó khăn - đến giữa những năm 40 đã còn lại rất ít điểm chung.
Gogol không thể đáp ứng những mong đợi của trường phái mang tên ông. Sự bất hòa
âm ỷ chuyển hóa thành xung đột năm 1847 khi mà Gogol, thay vì tập hai Những linh hồn chết đương được nóng lòng chờ đợi, bất
ngờ cho in tập sách nghị luận Trích thư từ gửi bạn bè. Một vài quan điểm bảo thủ cố hữu của tác giả cuốn sách, được
trình bày quá thẳng thắn và vào thời điểm không thích hợp tí nào, đã bị tiếp
nhận như là sự phản bội những lý tưởng chung xưa kia. Bức thư căm phẫn và trong
căm phẫn có phần bất công của Belinski gửi Gogol, làm chấn động dư luận Nga
bằng sự táo bạo chính trị của mình (thư được viết ở nước ngoài và bí mật phát
tán ở trong nước) đã để lại nhiều hậu quả sâu xa. Nó đã không chỉ vội vã xử tử một
tác phẩm tâm huyết của một nhà văn thiên tài mà không xem xét, đánh giá kỹ
lưỡng và toàn diện. Nhãn thức và thị hiếu cá nhân của Belinski, những ý kiến
của ông về toàn bộ sáng tác và từng tác phẩm cụ thể của Gogol, cái ông yêu và
cái ông ghét, cái ông tán dương và cái ông cự tuyệt ở Gogol sẽ lây lan sang
nhiều người viết về nhà văn này trong những thập kỷ sau. Ở nước Nga dưới
mọi chính thể, Gogol vẫn luôn luôn được công chúng độc giả ái mộ, cái chết quá
sớm của ông đầu năm 1852 được cảm nhận như một tổn thất của dân tộc. Trong làng
văn Nga, tên tuổi Gogol không ngừng được đề cao, ông không bao giờ bị phủ
định và hạ bệ như Pushkin và một số tác giả cổ điển khác, cũng không bị kiến
giải lệch lạc, méo mó như Dostoievski sau này, song các nhà phê bình dân chủ có
uy tín lớn trong xã hội Nga từ Chernyshevski đến Mikhailovski, đã không đi xa
được hơn Belinski trong cảm thụ, giải thích hiện tượng Gogol, thậm chí họ còn
thụt lùi về nhiều mặt. Có một sự không tương ứng rõ ràng giữa một Gogol phong
phú và phức tạp, đầy sức hấp dẫn thẩm mỹ và chiều sâu nhân bản mà người đọc nào
không có định kiến cũng có thể cảm nhận được với một Gogol mà giới phê bình dân
chủ cấp tiến tán dương và kêu gọi học tập - một Gogol mà sức mạnh chỉ ở chủ
nghĩa hiện thực tố cáo xã hội, ở tiếng cười lột mọi mặt nạ giả dối, ở nghệ
thuật khắc họa những kiểu người điển hình... Một vài ý kiến sâu sắc và mới mẻ
khác thường về Gogol của những cây bút ngang tài với ông như Dostoievski,
Tolstoi, Chekhov không thể làm thay đổi tình hình.
Chỉ những luồng gió mới nổi lên
mãnh liệt trong đời sống tinh thần xã hội Nga vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX mới đem lại những cái nhìn đổi khác về Gogol. Những văn sĩ Nga, linh cảm
được những tai biến long trời lở đất sẽ đến với đất nước họ và thế giới trong
thế kỷ tới, đua nhau phát hiện lại Gogol. Từ những trang viết của Rozanov,
Merezhkovski, Annenski, Belyi, Blok... hiện ra một Gogol mới, khác một trời một
vực với Gogol của Belinski và Chernyshevski: Gogol bị quỷ dữ ám ảnh, Gogol với
những tiên cảm hãi hùng về sự “hóa thú” của loài người, Gogol lạc lối và tuyệt
vọng trong những tìm kiếm tinh thần của mình, Gogol cô đơn và không được hiểu
biết. Đây là những mặt có thật, không hư cấu trong con người và sáng tác Gogol
trước đấy chưa được để ý hay cố tình làm lơ. Nhưng say sưa với những “phát
kiến” của mình, một số tác giả, nhất là Merezhkovski và Rozanov, đã sa vào
cường điệu và phiến diện: họ đã chỉ nhìn thấy một Gogol sầu đời và hãi đời mà
quên đi rằng còn có một Gogol vui cười, yêu dân tộc và loài người, chấp nhận và
cầu phúc cho sự sống. Bản thân hành trình khổ ải tìm chân lý của nhà văn thiên
tài cũng bị kiến giải lệch lạc, bị tô đen và bi kịch hóa quá mức. Như một phản
ứng đối với những kiến giải quá chủ quan ấy, một số nhà phê bình trẻ
(Shklovski, Eikhenbaum ...) tập trung nghiên cứu những văn bản của Gogol, khám
phá và hệ thống hóa những thủ pháp nghệ thuật của ông, và họ tuyên bố: Gogol
trước hết là một người kể chuyện tuyệt vời. Cũng là một sự thật không thể phủ
định về Gogol. Song sự trình diễn xuất sắc những “mẹo” kể chuyện của Gogol
không xóa bỏ, mà chỉ kích thích thêm câu hỏi chính đáng: thế thì cái gì đã được
kể? Cái gì đã được Gogol nói lên về thế giới và con người khiến cho nhiều bạn
đọc hết thế hệ này đến thế hệ khác yêu ông đến thế?
Câu hỏi ấy càng trở nên giàu ý
nghĩa trước một thực tại mới: Gogol đã không còn là nhà văn chỉ của người Nga
và nước Nga. Từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, cùng với các văn hào Nga khác,
sáng tác của Gogol liên tục chinh phục cử tọa độc giả ở nhiều quốc gia và châu
lục, phát huy ảnh hưởng đến nhiều nền văn học phương Tây và phương Đông. Những
văn sĩ kỳ tài thuộc những nền văn học lớn rất khác nhau và có cá tính sáng tạo
cũng rất khác nhau như Kafka ở Áo-Tiệp, Akutagawa ở Nhật, Lỗ Tấn ở Trung Quốc
say mê đọc Gogol, phát biểu về ông, học tập ông(*).
Thế giới nghệ thuật độc nhất vô nhị của Gogol mà trong đó cái hiện thực đan xen
chằng chịt với cái huyền ảo, cái tả chân kết hợp mật thiết với cái ngoa dụ, cái
hài chuyển hóa hữu cơ thành cái bi, chất châm biếm hòa lẫn với chất trữ tình
kích thích thi tài đua sức rất nhiều cây bút thuộc những trào lưu, trường phái
nhiều khi đối đầu nhau. Trong các nhà văn cổ điển Nga, Gogol hiện nay tranh
chấp với Dostoievski về tính hiện đại và sự có mặt trong những vận động chuyển
mình của các nền văn học trong thế giới ngày nay. Từ nhu cầu giải thích lòng
yêu mến Gogol không ngớt nơi người đọc và ảnh hưởng cũng không ngớt của ông đối
với những người viết, ở nhiều nước khác nhau đã ra đời nhiều công trình nghiên
cứu, phê bình khác nhau, khiến hiện nay đã có thể nói về một khoa “Gogol học”
trong nền phê bình và nghiên cứu văn học thế giới.
Khoa “Gogol học" ấy trong
thế kỷ qua đã đạt nhiều thành tựu đáng kể trong việc nghiên cứu thân thế, sự
nghiệp, nhân cách Gogol, phân tích, kiến giải những tác phẩm của ông, xác định
những mối quan hệ giữa Gogol với các nhà văn tiền bối, cùng thời và đi sau ông
trong văn học Nga và thế giới. Song việc nghiên cứu Gogol, cũng như toàn bộ
khoa học văn học, trong thế kỷ vừa qua đã không thể không bị chi phối bởi cuộc
đối đầu ý thức hệ giữa hai hệ thống thế giới. Di sản của Gogol, cũng như của
nhiều nhà văn Nga khác, đã trở thành đối tượng tranh chấp, xung quanh nó được
xây dựng nhiều quan điểm và hệ quan điểm cực đoan, nhiều khi tìm cảm hứng trong
sự đối lập nhau mà không nghĩ đến sự cần thiết nhích lại gần nhau vì chân lý
khách quan. Ở nước Nga Xô-viết, cái nhìn của các nhà cách mạng dân chủ đối với
Gogol đã trở thành chính thống, sáng tác của ông bị dồn lèn vào khuôn khổ chật
hẹp, khiên cưỡng của lý thuyết về chủ nghĩa hiện thực phê phán như là dòng chủ
lưu của phát triển văn học, tiên báo và chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đường đời, đường sáng tác của Gogol được soi sáng
một cách phiến diện và thiên kiến, việc khảo cứu di sản tư tưởng của ông trong
chỉnh thể của nó bị cấm đoán; nhân cách phức tạp, nhiều khía cạnh gồ ghề của
nhà văn này trong nhiều công trình nghiên cứu bị bào bằng và đánh bóng, biến
thành bức chân dung thờ. Cái phiến diện, thiên kiến này đẻ ra cái phiến diện,
thiên kiến kia, đối nghịch. Chỉ cần đơn cử một ví dụ: cố tình trêu tức những
người đồng tộc của mình đề cao một chủ nghĩa hiện thực chật hẹp, nông cạn, nhà
văn Nga - Mỹ V.Nabokov, người có công giới thiệu Gogol với độc giả Tây Bán cầu,
trong một bài viết in đúng vào năm cả thế giới kỷ niệm 100 năm mất của Gogol
(1952), đã gọi nhà văn mà ông rất ngưỡng mộ là “một trong những cây bút phi
hiện thực chủ nghĩa vĩ đại nhất trong văn học thế giới”. Nabokov cố gắng chứng
minh “chủ nghĩa phi hiện thực” của Gogol bằng cách tập trung phân tích một vài
tác phẩm được phe đối lập xem là những mẫu mực của chủ nghĩa hiện thực, thí dụ
truyện Chiếc áo khoác. Song sự phân tích tinh vi,
hóm hỉnh, giàu liên tưởng của ông chỉ cho thấy cần hiểu tính hiện thực của
những kiệt tác ấy một cách sống động, thanh thoát và sâu xa hơn, chứ tuyệt
không phải là những sáng tác ấy thoát ly thực tại từ đầu đến cuối. “Chủ nghĩa
phi hiện thực” mà Nabokov tìm thấy ở Gogol, hóa ra chỉ là một trò chơi chữ
không mấy thành công song vô hại, điều mà khó nói về nhiều công trình phê bình
bác học, mà ở đấy những học thuyết và lý thuyết thời thượng xuất hiện ở phương
Tây như chủ nghĩa Freud, phân tâm học hiện sinh, triết học phi lý, chủ nghĩa
cấu trúc... được áp dụng khá sống sượng với tham vọng cắt nghĩa đến cùng cuộc
đời, con người và sáng tác của Gogol. Phương pháp xã hội luận dung tục bị chê
trách một cách chính đáng, đáng tiếc, ở đây nhiều khi bị thay thế bằng những
phương pháp khác: tâm lý luận, sinh lý luận... không kém phần võ đoán dung tục(*).
Cả cái nhìn quan phương chính thống lẫn những cách tiếp cận chủ quan tùy tiện,
lấy đổi khác làm mục đích tự thân, đều phương hại như nhau cho linh hồn sống
của sáng tác Gogol, ngáng trở chứ không dọn đường cho sự nhận chân thiên tài
này. Vào giữa những năm 70 thế kỷ qua, một học giả Anh-Mỹ (R.A.Maguite) khái
quát như sau hiện trạng nghiên cứu Gogol ở Nga và trên thế giới: “Gogol được
tuyên bố là một nhà văn hiện thực chủ nghĩa và một cây bút huyễn tưởng; một
người hiểu biết tinh tế trái tim con người và một tác giả của những nhân vật
một chiều; một nhà cách mạng và một tên phản động; một kẻ yêu thích mọi thứ
thấp kém và một vị tư tế của cái đẹp; một tên nói dối bệnh hoạn và một nhà giải
phẫu tối trung thực bản chất con người; một kẻ hiếu danh tự khẳng định và một
con người đau khổ thấm nhuần đức hy sinh; một kẻ ba hoa rỗng tuếch và một nhà
thơ bi tráng; một con người Nga điển hình và một người Tiểu Nga tiêu biểu; một
tên dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi và một tinh thần vũ trụ”. Trong khi nhiều học giả
có quyền uy ở nước ông viết về ông một cách quá tự tin, cứ như toàn bộ chân lý
ở cấp cuối cùng về nhà văn này đã nằm gọn trong tay họ, thì Gogol lại hiện ra
trước nhiều văn sĩ và học giả phương Tây như là “một nhà văn Nga phi lý nhất và
bí hiểm nhất”, “một nhân vật kỳ quặc và dị thường bậc nhất của thời đã qua”,
“một hiện tượng làm rối trí”, “một người viết tuột khỏi tay giới phê bình”...
Dù không khỏi cường điệu và
chanh chua, những thú nhận vừa dẫn vẫn nói lên một thực tại: với tất cả vinh
quang toàn cầu, với tình yêu không suy suyển nơi người đọc, Gogol ngay hôm nay,
150 năm sau khi ông qua đời, vẫn là một thiên tài chưa mấy được tri ngộ, “bí
hiểm”, “kỳ lạ” theo nghĩa ấy. Một số điểm bí hiểm trong con người và cuộc đời
của Gogol quả rất khó giải tỏa, thí dụ việc ông hủy thiêu bản thảo đã hoàn tất
của tập hai Những linh hồn chết và sau đó là cái chết bằng
tuyệt thực của ông. Thế nhưng ngày nay, trong cục diện thế giới mới đã đổi
thay, toàn bộ di sản của Gogol, cùng với khối tư liệu đồ sộ đã tích lũy được về
ông, đang được tiếp nhận lại. Được giải phóng khỏi những định kiến và thiên
kiến theo đuổi chúng dai dẳng, nhiều trang viết cũ của Gogol đương phát huy âm
hưởng mới trong tâm trí người đọc hôm nay. Giữa con người Gogol với sáng tác
của ông, giữa thế giới nghệ thuật và thế giới tư tưởng của ông, giữa hành trình
tinh thần đầy khổ ải của ông với những vấn nạn của nhân loại hôm nay đương hiện
ra những cầu nối trước đây ẩn khuất khỏi mắt giới nghiên cứu - phê bình. Một
Gogol mới, toàn vẹn trong những mâu thuẫn phức tạp của mình, sâu sắc và nhân
bản, gần gũi và cần thiết cho thế giới hiện nay đương có cơ được phát hiện.
II. Tiếng cười Gogol
Mặc dù Gogol đã để lại hơn một
tác phẩm hoàn toàn vắng tiếng cười, trong đó có những truyện kinh dị khiến
người đọc sởn gáy, trong ý thức của độc giả ở mọi nước, ông trước hết vẫn là
tác giả của những truyện cười và hài kịch không thể nào quên, là thiên tài của
cái hài. Cái hài, hay là tiếng cười của Gogol, như nhiều người nhận định, thuộc
về những hiện tượng kỳ bí của văn học thế giới. Cái duyên ngời ngời rất cá biệt
của nó đã hơn một thế kỷ rưỡi luôn luôn tuột khỏi mọi định nghĩa, giới thuyết,
phá vỡ khuôn khổ mọi lý thuyết về cái hài được xây dựng trong lý luận văn học
và mỹ học. Tài nghệ trào tiếu của Gogol được nhận biết rất sớm, những người
đồng nghiệp cũng sớm đặt tên ông ngang hàng với những cây bút hoạt kê nổi tiếng
nhất thế giới. Tập truyện đầu tay của Gogol vừa ra mắt bạn đọc thì không phải
ai khác mà chính Pushkin trong lời bình đăng trên báo, bỏ qua những truyện
không vui tí nào trong tập sách ấy, đã tập trung biểu dương tiếng cười “thật sự
vui nhộn, chân tình, hồn nhiên, không kiểu cách, không điệu bộ”, “nhiều chỗ
giàu chất thơ, giàu tình cảm” của Gogol, cứ như thấy trước rằng tiếng cười ấy
sẽ mau chóng mất đi âm điệu vui tươi của nó. Pushkin xem “cuốn sách vui nhộn
thật sự” của Gogol là một hiện tượng “phi thường” trong văn học Nga thời ấy, nó
khiến ông liên tưởng tới Molière và Fielding. Mấy chục năm sau, những nhà văn
Pháp yêu chuộng văn học Nga như Mérimée và Vogué sẽ so sánh Gogol với Dickens,
Thackerey và cả Swift. Trong tạp văn của Lỗ Tấn, tên tuổi của Gogol và Swift
luôn luôn đi đôi, mỗi khi ông bàn về văn học châm biếm. Chắc Lỗ Tấn không thể
không cảm thấy sự khác biệt về chất giữa hai cây bút hài này, nhưng ông đặt họ
bên cạnh nhau vì văn tài ngang nhau. Nhưng đáng ngạc nhiên là nhiều nhà lý luận
và lịch sử văn học cũng làm như Lỗ Tấn trong những tạp bút tuyệt không theo
đuổi mục tiêu khoa học của ông. Với quan niệm nghèo nàn và cứng nhắc về hai
kiểu nhà văn trào tiếu: hài hước (humour, humoriste) và châm biếm (satire,
satirique), người ta liệt Gogol lúc thì vào hạng thứ nhất, lúc thì vào hạng thứ
hai, đặt ông bên cạnh những cây bút cùng tầm với ông, nhưng diện mạo thì rất
khác. Đặc trưng thẩm mỹ của tiếng cười Gogol bằng cách ấy không những không
được làm sáng tỏ, mà còn bị lu mờ đi. Không cải thiện được tình hình cả những
nỗ lực khảo tả, thống kê những thủ pháp trào tiếu của Gogol - những công trình
như thế đã xuất hiện khá nhiều trong thế kỷ qua, cả ở trong và ngoài nước Nga.
Những thống kê, phân loại rất hữu ích ấy cho thấy: Ở Gogol thực tình mà nói
chẳng có những ngón nghề nào là của riêng ông, cũng không có những thủ thuật
nào ông đặc biệt ưa dùng mà lại rất hiếm thấy ở những cây bút hài khác. Trong
khi ấy thì cái hài, tiếng cười của Gogol rõ ràng có bản sắc riêng biệt, không
giống một ai, ít nhất trong văn học Nga.
Ở nước Nga một thời người ta
gắn liền tên tuổi Gogol với Saltykov - Tshedrin, xem họ như là hai anh em tinh
thần đã đặt nền móng cho một truyền thống văn chưuơng châm biếm hiện thực chủ
nghĩa (“truyền thống Gogol-Tshedrin”), trong đó Tshedrin đã có công đi hết con
đường mà Gogol bỏ dở do những lầm lạc tư tưởng. Để tung ra luận điểm ấy, người
ta đã dựa vào nhiều luận cứ khác nhau, nhưng giữa chúng thiếu những chứng cứ
nghệ thuật - thẩm mỹ xác thực. Chỉ cần so sánh hai kiệt tác điển hình của hai
nhà văn: Lịch sử một thành phố của Tshedrin và Những linh hồn chết của Gogol là ta thấy rất rõ
điều này. Tiếng cười của tác giả Lịch sử một thành phố là tiếng cười châm biếm điển hình, kiểu Swift. Nó mang tính phủ
định thuần túy, nó chỉ đặt cho mình nhiệm vụ tố cáo, phỉ nhổ, xử tử đối tượng
của mình. Mọi lực lượng “trọng pháo” của chủng loại văn chương châm biếm được
huy động trong cuốn sách này để triệt hạ cái đối tượng không xứng đáng tồn tại
ấy - cái thị trấn Ngu Độn (Glupov) với những thị dân và thị trưởng đều không
phải là người. Có gì chung giữa thế giới nghệ thuật ấy với thế giới của bản
“trường ca hài” của Gogol, nơi những “linh hồn” (những nông nô) đã chết hóa ra
lại là những nhân cách hoạt bát nhất, sống động nhất còn những người sống
(những điền chủ và quan chức) thì lại để mất linh hồn của mình - nhưng tất cả
đều thuộc về một dân tộc và một đất nước (nói mở rộng: một nhân loại và một thế
giới) sống bất diệt? Khác với Tshedrin, tiếng cười của Gogol trong Những linh hồn chết, nói mượn lời Bakhtin, là
tiếng cười hai chiều đối nghịch, nó vừa hạ huyệt vừa tái sinh.
Bakhtin, tác giả công trình lỗi
lạc về Rabelais và văn hóa trào tiếu dân gian, trong một bài viết riêng về
Gogol, bằng nhiều dẫn chứng thuyết phục đã cho thấy quan hệ dường như máu mủ
ruột già giữa tiếng cười của nhà văn Nga này với tiếng cười hội hè kiểu
Rabelais xa lạ một trời một vực với tiếng cười châm biếm thuần túy. Những dẫn
chứng ấy đa số lấy từ tập truyện đầu tay của Gogol - Xẩm tối trong xóm gần Dikanka mà như ta nhớ Pushkin đã ngợi khen đến thế, đã tán thưởng đến thế
tiếng cười vui nhộn yêu đời trong đó. Nhưng Bakhtin xem ra đã nhích lại gần
nhau quá mức Gogol và Rabelais.
Ngay từ đầu đã đượm nét u buồn, tiếng cười Gogol, thể hiện trung thực nhất cảm quan của nhà văn về cuộc sống và con người, đã mau chóng mất đi cái âm hưởng lạc quan hồn nhiên là thuộc tính thường trực của tiếng cười nơi Rabelais. Ngay ở trong truyện vừa đầu tiên - Những điền chủ thời xưa - mở đầu tập truyện thứ hai của Gogol ta đã nghe rõ tiếng cười đã đổi khác về cơ bản ấy, nó sẽ nhanh chóng định hình và trở thành điển hình cho Gogol. Ta hãy dừng lại một lát ở truyện này.
Ngay từ đầu đã đượm nét u buồn, tiếng cười Gogol, thể hiện trung thực nhất cảm quan của nhà văn về cuộc sống và con người, đã mau chóng mất đi cái âm hưởng lạc quan hồn nhiên là thuộc tính thường trực của tiếng cười nơi Rabelais. Ngay ở trong truyện vừa đầu tiên - Những điền chủ thời xưa - mở đầu tập truyện thứ hai của Gogol ta đã nghe rõ tiếng cười đã đổi khác về cơ bản ấy, nó sẽ nhanh chóng định hình và trở thành điển hình cho Gogol. Ta hãy dừng lại một lát ở truyện này.
Những điền chủ thời xưa diễu nhại một chủ đề cổ điển - tình yêu nam nữ thủy chung hạnh
phúc giữa lòng thiên nhiên - và một thể loại văn học cổ điển tên là idylle (thơ
văn điền viên). Ngay ở đầu truyện, tác giả đã gọi cặp nhân vật nam nữ của mình
là một Philémon và một Baucis thời nay, khiến người đọc luôn luôn phải đối
chiếu trong óc mình cái mà anh ta đang đọc với cái mà anh ta nhớ. Trong truyền
thuyết cổ điển, mà người châu Âu nào cũng thuộc lòng(*),
Philémon và Baucis, cặp vợ chồng nông dân nghèo đã luống tuổi và không có con,
do cuộc sống đức hạnh mẫu mực của mình, nhất là đức hiếu khách, đã được thần
linh ban thưởng cho nhiều ân sủng: túp lều lụp xụp của họ biến thành ngôi đền
nguy nga, bản thân họ trở thành những người trông đền và theo lời nguyện cầu
của họ, họ đã chết cùng một lúc, hóa thành hai cây gốc rễ cuốn lấy nhau. Trong
truyện của Gogol, Philémon và Baucis ở xứ Phrigie xa lạ biến thành cặp vợ chồng
điền chủ Tiểu Nga Afanasi Ivanovich và Pulkheria Ivanovna. Không phải làm lụng
để kiếm sống, họ chỉ hưởng thụ cuộc sống; không có con, họ dồn hết tình thương
yêu chăm sóc cho nhau. Và chính cuộc sống hết sức êm ái ấy, chính hạnh phúc lứa
đôi không gì khuấy động ấy dưới ngòi bút của Gogol biến thành một cái gì đó gần
như biếm họa về cuộc sống và tình yêu của con người. Chúng tôi nói “gần như”
bởi vì toàn bộ cái hay, cái thâm thúy của câu chuyện là ở chỗ bức tranh trào
tiếu ấy đã không trở thành áp-phích đả kích, tiếng cười chát đắng của tác giả đã
không chuyển thành chát độc. Belinski đã bày tỏ sự kinh ngạc chính đáng trước
nghệ thuật của Gogol đã bắt người đọc thương cảm “hai hình người diễu nhại nhân
loại” mà “trong vòng mấy chục năm chỉ ăn và uống, uống và ăn và sau đó, theo lệ
thường từ ngàn xưa, đã chết”. Quả thật, trong cuộc sống điền viên của cặp uyên
ương mà Gogol mô tả, chỉ có một việc quan trọng và thích thú là ăn và uống. Tác
giả - người kể chuyện dành mấy trang sách liền để kể Afanasi Ivanovich và
Pulkheria Ivanovna ăn những gì, vào giờ nào, từ sáng sớm đến chiều tối, thậm
chí đến đêm. Trong khi ăn uống, “câu chuyện của họ thường chỉ xoay quanh những
chủ đề gần nhất với bữa ăn”. Sự giao lưu tinh thần và nói chung mọi biểu hiện
đời sống tinh thần bị loại trừ ra khỏi tự sự về cặp bạn đời lý tưởng này. Trong
một truyện phong tục - mà idylle là thể văn phong tục điển hình - những tập tục
phổ biến ở các nước Kitô giáo như cầu nguyện buổi tối trước khi đi ngủ hoặc đi
lễ nhà thờ sáng chủ nhật không được nhắc đến, không phải vì Afanasi Ivanovich
và Pulkheria Ivanovna không làm những việc ấy, mà vì họ - khác với Philémon và
Baucis - tuyệt không mộ đạo. Tác giả nói về tâm trạng của nữ nhân vật trước khi
chết: “Tội nghiệp bà già! Lúc ấy bà không nghĩ gì đến cái phút giây vĩ đại
đương chờ đợi bà, không nghĩ cả về linh hồn của mình, về cuộc sống tương lai
của mình; bà chỉ nghĩ về người bạn đáng thương mà bà đã sống cả đời với ông và
bây giờ để ông ở lại bơ vơ, không chỗ nương tựa”.
Như vậy, trước ta là một bức
tranh về cuộc sống con người đã nghèo nàn và nông cạn đi đến mức dường như nó
trở lại với đời sống thực vật. Và ngay tình yêu - tình yêu thủy chung trọn đời
hiếm có, đối tượng của bao nhiêu huyền thoại thơ ca - hóa ra cũng chịu sự chi
phối của đời sống thực vật ấy, nó chỉ biết thể hiện mình bằng sự chăm sóc vật
chất, nó biến thành một thói quen thường nhật có quyền lực đối với con người
hơn mọi đam mê mãnh liệt, nhưng qua đi. Đối tượng của tiếng cười Gogol trong
truyện Những điền chủ kiểu xưa là chính cuộc sống và tình yêu
không có ánh sáng tinh thần, cái hài mà ngòi bút ông làm nổi bật là cái hài của
sự thiếu vắng tinh thần ở một hiện tượng lẽ ra phải giàu chất tinh thần nhất
trong đời sống con người - tình yêu. Cái hài ở đây vì thế không đồng nhất được
với chất “u-mua” (hài hước) mà ta thường gặp và yêu mến đến thế ở những nhà văn
lớn châu Âu đi trước hoặc cùng thời với Gogol - Cervantes, Stern, Hoffmann,
Dickens... Cái u-mua quen thuộc ở những nhân vật trứ danh như Don Quichotte của
Cervantes, cậu Toby của Stern, nhạc trưởng Kreisler của Hoffmann, ngài Pickwick
của Dickens bắt nguồn từ sự xung đột giữa những chí hướng, hoài bão cao thượng
của những con người cá thể với môi trường xã hội đối lập. Cái hài bộc lộ qua
những tính nết rất lạ đời, qua những hành ngôn và hành vi kỳ quặc, không đúng
chỗ đúng lúc của những nhân vật ấy thường thực hiện chức năng tự vệ, giống như
áo giáp che chắn cho cái tính người thực thụ đã không còn chỗ đứng trong nhân
quần. Tiếng cười bề ngoài diễu cợt của các tác giả nói trên thực ra che chở,
bênh vực, tôn vinh các nhân vật của họ. Tiếng cười như thế, ta không phải không
nghe thấy trong thiên truyện “điền viên” của Gogol. Cặp “điền chủ kiểu xưa” của
ông rõ ràng không chỉ yêu nhau thắm thiết, mà còn đôn hậu, hiếu khách, không
hại ai bao giờ. Song âm điệu trìu mến trong tiếng cười của tác giả Những điền chủ kiểu xưa rõ ràng hòa lẫn với một điệu
thức khác - buồn sầu chê trách sự tha hóa, sự biến chất của nhân tính ở ngay
những biểu hiện đáng quý nhất của nó. Không chỉ so sánh với Rabelais, mà ngay
so với Stern hay Dickens, đó là tiếng cười nhân học thấu thị và đầy tiên cảm lo
âu. Nó như báo trước tiếng cười tuyệt vọng, tiếng cười không cười của Kafka,
Ionesco, Beckett và nhiều nhà văn khác thế kỷ XX. Vị cay chất đắng trong tiếng
cười của Gogol sẽ còn gia tăng, tuy vậy nó sẽ không bao giờ chuyển hóa thành
chất châm biếm cay độc, thành cảm hứng đả kích, phá phách, phủ định một chiều.
Ta thấy rõ điều này qua một
trong những thiên tự sự trào lộng nhất của Gogol - Truyện ông Ivan Ivanovich xích
mích với ông Ivan Nikiforovich. Thủ pháp hài ngự trị ở đây là
nói mỉa - cái mỉa muôn đời khen để chê, tâng bốc để hạ nhục, khoác áo trang
nghiêm cho cái nực cười, tạo vẻ khả ái khả kính cho cái đáng ghét đáng khinh.
Để lột trần bản chất đáng khinh ghét của hai con người thuộc giới thượng lưu huyện
lẻ, cuộc sống rỗng tuếch của họ, tình bạn cũng như mối thù vô nghĩa như nhau
giữa họ, tác giả - người kể chuyện đeo lên mình mặt nạ của một cư dân phố huyện
còn dung tục, xuẩn ngốc hơn hai “đại nhân” ấy và vì thế thán phục mọi lời nói,
việc làm của họ. Sự phi lý, vô nghĩa của cuộc sống trống rỗng và tự mãn được mô
tả tràn vào câu văn và lời văn mô tả. Đây, câu đầu tiên đưa người đọc vào
truyện: “Ông Ivan Ivanovich có chiếc bêkêsa(*)
trứ danh làm sao! Thượng hảo hạng!... Lạy Chúa, vì sao tôi không có được một
chiếc bêkêsa như thế? Ông ấy may nó từ khi bà Agafia Fedoseievna còn chưa đi Kiev.
Các vị không biết bà Agafia Fedoseievna à? Chính bà ta đã cắn đứt tai một vị
dân biểu đấy!”. Trong suốt câu chuyện tiếp theo, sẽ không bao giờ nói đến bà
Agafia với ông dân biểu bị cắn đứt tai ấy nữa. Tiếp theo: “Ông Ivan Ivanovich
là người rất tốt! Ông rất thích ăn dưa bở. Đây là món ăn ưa chuộng của ông...”.
Sau đó là đoạn văn nổi tiếng, tả nhân vật này ngày nào sau bữa trưa cũng tráng
miệng bằng một quả dưa bở, ăn xong gói hột vào tờ giấy và ghi lên trên: “Quả
dưa này đã được ăn ngày này” và nếu lúc ấy có khách thì “có người này chứng
kiến”. Thêm một nhận xét nữa về hai nhân vật: “Ông Ivanovich tính tình hơi nhút
nhát.
Ông Ivan Nikiforovich thì ngược lại, mặc quần ống gấp nếp rộng đến nỗi nếu thổi phồng ra thì có thể chứa được cả sân với kho thóc và nhà phụ”. Một thế kỷ sau Gogol, những câu văn “phản trí tuệ” như thế sẽ tràn ngập trong văn học phi lý. Nhưng Gogol biết giữ gìn mực thước. Trong nhãn thức của tác giả truyện, cái phi lý, cái vô nghĩa của cuộc sống đương được quan sát không vượt quá khuôn khổ của nó, không biến thành cái phi lý, cái vô nghĩa không thể khắc phục của sinh tồn nói chung. Mệnh đề cảm thán kết thúc câu chuyện: “Sống trên đời này buồn chán lắm các vị ạ!” - đã thuộc về một người kể chuyện khác, xuất hiện thay thế anh tiểu thị dân vừa say sưa kể lại vụ kiện tụng xuẩn ngốc giữa hai điền chủ đã làm náo động đời sống ngái ngủ của phố huyện. Người kể chuyện này ghé về thăm quê sau rất nhiều năm xa cách vào một sáng chủ nhật, tạt vào nhà thờ và bắt gặp ở đấy hai nhân vật chính của truyện, cả hai đã già khọm sau mười năm theo kiện và tiêu tán gần hết gia sản hòng thắng kiện. Cả hai con người đều đã biến thành những con ma sống, những nạn nhân thảm hại của sự ngu dốt, dung tục và độc ác của chính mình. Bản nhạc nhạo báng chói tai của hề kịch đột ngột chuyển điệu thức, kết thúc bằng một giai điệu trầm mặc (cảnh mưa rơi trên đường quê hoang vắng). “Sống trên đời này buồn chán lắm, các vị ạ!” vừa là một kết luận lạnh lùng của trí tuệ trước hằng hà sa số bi hề kịch nhân sinh mà nó trực tiếp hay gián tiếp quan sát, vừa là tiếng thốt của trái tim không dàn hòa được với hiện trạng ấy của nhân thế.
Ông Ivan Nikiforovich thì ngược lại, mặc quần ống gấp nếp rộng đến nỗi nếu thổi phồng ra thì có thể chứa được cả sân với kho thóc và nhà phụ”. Một thế kỷ sau Gogol, những câu văn “phản trí tuệ” như thế sẽ tràn ngập trong văn học phi lý. Nhưng Gogol biết giữ gìn mực thước. Trong nhãn thức của tác giả truyện, cái phi lý, cái vô nghĩa của cuộc sống đương được quan sát không vượt quá khuôn khổ của nó, không biến thành cái phi lý, cái vô nghĩa không thể khắc phục của sinh tồn nói chung. Mệnh đề cảm thán kết thúc câu chuyện: “Sống trên đời này buồn chán lắm các vị ạ!” - đã thuộc về một người kể chuyện khác, xuất hiện thay thế anh tiểu thị dân vừa say sưa kể lại vụ kiện tụng xuẩn ngốc giữa hai điền chủ đã làm náo động đời sống ngái ngủ của phố huyện. Người kể chuyện này ghé về thăm quê sau rất nhiều năm xa cách vào một sáng chủ nhật, tạt vào nhà thờ và bắt gặp ở đấy hai nhân vật chính của truyện, cả hai đã già khọm sau mười năm theo kiện và tiêu tán gần hết gia sản hòng thắng kiện. Cả hai con người đều đã biến thành những con ma sống, những nạn nhân thảm hại của sự ngu dốt, dung tục và độc ác của chính mình. Bản nhạc nhạo báng chói tai của hề kịch đột ngột chuyển điệu thức, kết thúc bằng một giai điệu trầm mặc (cảnh mưa rơi trên đường quê hoang vắng). “Sống trên đời này buồn chán lắm, các vị ạ!” vừa là một kết luận lạnh lùng của trí tuệ trước hằng hà sa số bi hề kịch nhân sinh mà nó trực tiếp hay gián tiếp quan sát, vừa là tiếng thốt của trái tim không dàn hòa được với hiện trạng ấy của nhân thế.
Trong thiên truyện mà chúng tôi
đương nói đến, chất trữ tình mới cất tiếng nhỏ nhẹ, dè dặt, thử đối âm từ xa
với tiếng cười trào lộng giòn giã là âm nhạc chính của tác phẩm. Ở những sáng
tác xuất hiện muộn hơn một chút của Gogol ta đã thấy một sự đan xen không thể
tách rời hai “nguyên tố” đối nghịch này, cả hai đều được triển khai đến cao
trào. Tính đa điệu thức, sự kết hợp trong một văn bản nghệ thuật chất châm biếm
với chất trữ tình là một trong những thành tựu nổi bật của văn xuôi lãng mạn
Đức (Jean-Paul, Tieck, Chamisso, Hoffmann...) mà Gogol đã thừa kế và nâng lên
một trình độ nghệ thuật mới. Trong kết cấu của truyện Đại lộ Nevski mở đầu nhóm “truyện Peterburg” của Gogol ta nhận ra kiểu phân
tuyến châm biếm - trữ tình tiêu biểu cho văn chương lãng mạn chủ nghĩa: toàn bộ
thực tại xã hội đương thời được soi sáng bằng ánh sáng trào phúng châm chọc,
chỉ thế giới mộng mơ của người nghệ sĩ cô đơn được tạo dựng với thái độ đồng
cảm trìu mến. Song đáng để ý là chất trữ tình gắn bó chỉ với mộng mơ thoát ly
thực tại ấy trong tác phẩm này đã bị diệt vong, bị đè bẹp và dẫm nát bởi thực
tại - một dấu hiệu rõ ràng về sự đoạn tuyệt của nhà văn với chủ nghĩa lãng mạn
vì một nhãn thức nghệ thuật mới, nắm bắt toàn vẹn hơn và sâu sắc hơn cuộc sống
con người. Nhãn thức ấy được thể hiện một cách mạnh bạo phi thường trong Nhật ký người điên - không phải ngẫu nhiên chỉ
sang thế kỷ XX thế giới mới đánh giá đúng kiệt tác này.
Đối tượng của sự mô tả nhạo
báng ở đây là chính thế giới mộng mơ - những mơ ước tầm thường dung tục của một
tâm hồn tầm thường dung tục. Còn có gì tầm thường hơn nhân cách của Poprishin(*),
một công chức thất học bất tài ôm ấp mộng công danh, vênh váo trước lũ đầy tớ
về dòng dõi quý phái của mình và khúm núm bái phục các quan lớn, ghen tị những
đồng nghiệp tiến thân nhanh hơn hắn hay kiếm lợi được nhiều hơn. Còn có gì dung
tục hơn mơ ước về giàu sang phú quý nhờ kết hôn với con gái thủ trưởng! Mơ ước
ấy quyến rũ nhân vật đến nỗi dần dần làm hắn mất trí khôn, “Tôi mới bốn mươi
hai tuổi - chính cái tuổi mà đường công danh thật sự chỉ mới bắt đầu” - hắn
viết về mình. Sự tự huyễn hoặc, tự lừa dối để theo đuổi ảo mộng là nguồn gốc
của cái hài lộ liễu trong nhân vật này, và hắn đã phải trả giá cho nó bằng sự
mất trí hoàn toàn. Song câu chuyện không dừng lại ở đó. Nghịch lý bi thảm, giàu
ý nghĩa nhân học, của cuộc đời Poprishin là ở chỗ chỉ phát điên, hắn mới có lúc
trở nên minh mẫn và thanh cao; chỉ thoát khỏi vòng vây hãm của trí khôn vụ lợi
tầm thường, bằng giá sự mê sảng, hắn trong mê sảng mới mò tìm về với nhân tính
đích thực của mình. Không còn mơ tưởng tới tước vị và bổng lộc trong đế chế Nga
thân thuộc, điên rồ tự xưng là vua mới của xứ Tây Ban Nha xa lạ, Poprishin có
lúc suy luận như một đấng vương giả lịch lãm trong chính trường quốc tế và am
tường tâm lý của dân chúng. Trí tưởng tượng thơ ca tỉnh dậy trong hắn (không
phải ngẫu nhiên mà trước đấy, trong truyện được nhắc qua là hắn thích xem hát
và đánh bạn với một nhạc công thổi kèn): mối lo âu của hắn về việc trái đất có nguy
cơ sẽ “ngồi” lên mặt trăng thấm đượm chất thơ “điên” ngộ nghĩnh. Và khi hắn bị
nhốt vào nhà thương điên, bị đánh đập và hành hạ, từ miệng hắn phát ra những
lời kêu gọi thiết tha của một con người và một thi sĩ thực thụ: “Hãy cứu tôi
với! Hãy mang tôi đi! Cho tôi một cỗ xe tam mã phi nhanh như cơn lốc. Xà ích,
lên ghế ngồi mau! Nhạc, hãy reo vang! Ngựa của ta ơi, hãy bay đi và đưa ta ra
khỏi thế giới này! Bay cho xa, xa nữa, để cho ta khỏi phải nhìn thấy gì hết!
Kìa! Bầu trời bốc khói trước mắt ta; một ngôi sao nhỏ lấp lánh ở xa xa, khu
rừng với cây cối đen sẫm và vừng trăng đang lướt nhanh. Những đám mây xám trải
ra dưới chân ta, dây đàn vang lên trong sương mù. Bên này là biển, bên kia là
nước Ý. Và kia những ngôi nhà gỗ Nga đã hiện ra. Phải chăng ngôi nhà của ta
đang in bóng xanh lam ở đằng xa? Phải chăng mẹ ta đó đương ngồi bên cửa sổ? Mẹ
ơi, hãy cứu lấy đứa con tội nghiệp của mẹ! Hãy nhỏ giọt nước mắt lên đầu con
đau ốm! Mẹ xem, chúng hành hạ con biết chừng nào! Mẹ hãy xiết chặt vào lòng đứa
con bỏ rơi khốn khổ! Trên đời này, không đâu còn chỗ cho nó nữa...”. Tiếng cười
và tiếng khóc, cái hài và cái bi, cái thấp hèn và cái cao cả trong Nhật ký người điên hòa âm và nghịch âm tạo nên một bản giao hưởng “phi cổ điển” về sự
phức tạp kỳ bí của con người(*).
Chúng tôi mới chỉ xem xét lướt
qua, dưới góc độ nghệ thuật hài ba tác phẩm văn xuôi tiêu biểu của Gogol. Nhưng
thiết nghĩ, bằng ấy đã là đủ để có một vài khái quát, dù rất hời hợt, về đặc
trưng thẩm mỹ của tiếng cười của nhà văn này. Đây dĩ nhiên không phải là tiếng
cười giải trí, “mua vui” đơn thuần, mặc dù hầu hết truyện và kịch của Gogol đều
khiến người đọc hay người xem phải ôm bụng cười, phá lên cười, về phương diện
ấy chúng chứng minh rất tốt cho tác dụng giải trí, “mua vui” phải có ở mọi nghệ
thuật đích thực. Tiếng cười sảng khoái, lạc quan yêu đời, gắn liền với cảm giác
về sự tràn trề sức sống trong con người và thiên nhiên, chỉ có mặt ở một vài
sáng tác của Gogol mà chúng tôi sẽ nói đến sau. Tiếng cười Gogol, như nó vang
lên trong ba tác phẩm vừa phân tích, khó gọi là hồn hậu, độ lượng và bao dung,
sưởi ấm lòng người và nâng đỡ tinh thần con người - Gogol không giống Dickens,
Daudet, Jerom, O.Henry và những ngòi bút u-mua điển hình khác sáng tác trước,
cùng thời và sau ông. So với họ, Gogol “ác” hơn, “thâm” hơn. Tiếng cười của ông
phát giác, vạch trần không phải những hiện tượng xã hội tiêu cực cá biệt (mặc
dù một vài tác phẩm của ông, thí dụ Quan thanh tra có thể gây ấn tượng như thế), không phải những khiếm khuyết, thói
hư tật xấu riêng lẻ trong những tính cách tiêu biểu cho tầng lớp xã hội này hay
tầng lớp xã hội kia - thơ văn trào phúng châu Âu trong hơn hai ngàn năm đã đạt
được rất nhiều thành tựu trong lĩnh vực này. Tiếng cười Gogol phơi bày, dưới
nhiều hình tượng nực cười đa dạng, chính cái bản chất bất hoàn thiện, khuyết
tổn và suy thoái của con người. Lối sống thực vật, biến tình yêu thành thói
quen sinh hoạt vật chất hàng ngày, sự tự phụ, tự mãn với cuộc sống trống rỗng
ti tiện của mình, sự say mê đắm đuối với những mơ ước tầm thường, dung tục -
tất cả cái đó, cùng với nhiều sự phi lý lố bịch hiện ra nhan nhản trong nhiều
truyện và kịch khác, dưới ngòi bút mổ xẻ của Gogol không còn là những thói hư
tật xấu cá biệt của những con người cá biệt nữa mà là những biểu hiện khác nhau
của một trạng thái trầm kha chung của nhân thế mà Gogol gọi bằng nhiều tên -
“sự chết cứng của linh hồn”, “sự đánh mất tinh thần”, “sự dập tắt hình ảnh
Thượng Đế ở con người”, thậm chí “sự hóa thú con người”. Khi nhà văn Nga này
tìm ra được nhan đề cho tác phẩm lớn nhất của mình - Những linh hồn chết, ông đã tìm ra được định thức
đúng nhất cho đối tượng của tiếng cười cay đắng, “tiếng cười qua nước mắt” nơi
ông mà những nhà phê bình cùng thời đại với ông còn xa mới thấu hiểu. Nếu một
số người chỉ trích ông chỉ ham thích phơi bày “rác rưởi ở sân sau của cuộc
sống”, tức là lên án, phủ nhận tiếng cười của ông, thì những người khác, cảm
thụ được sức mạnh của tiếng cười ấy, muốn hướng nó chỉ vào những mục tiêu đấu
tranh xã hội rất cụ thể, do thời cuộc ấn định. Và không mấy người cảm thông đến
cùng với nỗi ám ảnh của nhà văn về “sự thống ngự toàn thế gian của cái Tầm
thường, Dung tục, Thô bỉ”(*)
không thể xóa bỏ bằng những cải cách xã hội. Chính “cái dung tục của con người
dung tục” ấy, chứ không phải cái gì khác, đã sớm trở thành đối tượng chủ yếu
của tiếng cười phanh phui tố giác nơi Gogol. Trong nhãn quan Gogol, chính cái
dung tục thiên hình vạn trạng ấy giết tâm hồn con người, biến nó thành một thân
thể sống mang linh hồn chết.
Trong sách Trích thư từ gửi bạn bè (1847), phân tích dư luận xã hội về kiệt tác lớn nhất của mình,
Gogol viết: “Sở dĩNhững linh hồn chết đã làm cho cả nước Nga hoảng sợ và đã gây nên nhiều xôn xao đến
thế, không phải là vì nó đã phát hiện ra những ung nhọt hay bệnh tật nội tại
nào đó của đất nước; cũng không phải vì nó đã bày ra những cảnh tượng chấn động
lòng người về sự đắc thắng của cái ác và sự khổ đau của những con người vô tội.
Hoàn toàn không có cái đó. Những nhân vật của tôi tuyệt không phải là những ác
ôn; tôi chỉ cần đưa thêm vào một nét dễ ưa cho bất cứ một ai trong chúng, là
bạn đọc sẽ làm hòa với tất cả chúng. Nhưng sự tầm thường dung tục của tất cả,
của toàn thể đã làm độc giả hoảng sợ. Cái khiến họ hoảng sợ là các nhân vật của
tôi nối đuôi nhau xuất hiện, kẻ này tầm thường hơn kẻ kia, và không có một hiện
tượng nào có thể uý lạo,an ủi, và người đọc tội nghiệp hoài công tìm một nơi
nào đó để dừng lại thở và nghỉ ngơi một chút; gấp sách lại, bạn đọc tưởng
như vừa từ cái hầm ngột ngạt bước ra để trở lại với ánh mặt trời. Giá tôi vẽ
nên những tên hung thủ lắm màu lắm vẻ hấp dẫn, thì hẳn người ta đã bỏ quá cho
tôi; nhưng sự tầm thường của tất cả, người ta không dung thứ được cho tôi.
Người Nga đã hoảng sợ trước sự nhỏ hèn của mình, hơn tất cả mọi thói hư tật xấu
ở họ”.
Trong sáng tác của Gogol, ta
nghe thấy tiếng cười sang sảng chế nhạo sự tầm thường, nhỏ hèn ấy ở những con
người. Sở dĩ Gogol làm được điều ấy mà không xúc phạm đến người đọc (có thể làm
họ hoảng sợ, như ông đã viết, nhưng không xúc phạm!) là vì ở ông thường hằng và
mãnh liệt sống một lý tưởng đối lập, một xác tín nung nấu rằng sự tầm thường,
sự nhỏ hèn là trạng thái tha hóa, chứ không phải chuẩn mực của loài người. Tất
cả các nhà văn Nga lớn đều chia sẻ với Gogol niềm tin ấy. Nhưng có thể nhận
thức sự tầm thường, nhỏ hèn là cái hợp chuẩn đáng buồn, song muôn thuở của nhân
loại - trong các văn hào châu Âu sống cùng thời với Gogol, Flaubert kiên định
một quan niệm như thế. Trong Bà Bovary, Flaubert cũng chê cười cả thế
gian như Gogol trong Những linh hồn chết, nhưng tiếng cười của ông đã thu giảm âm lượng đến mức nhiều khi
khó nghe thấy. Đồng thời, trong khi khắc vẽ một vài nhân cách đáng ghét nhất,
điển hình cho cái thế giới thị dân nhỏ nhen, nông cạn, đua đòi, thí dụ dược sĩ
Ôme (Homais), ngòi bút trào lộng của Flaubert trở nên cay độc. Chất cay độc ấy,
thấm từng trang viết của những cây bút châm biếm (satirique) thực thụ, ta không
tìm thấy trong tiếng cười cay đắng của Gogol. Trong thế giới của ông, không có
những nhân vật ghê tởm, không có những quái thai tinh thần. Ngay những hình
tượng con người thoái hóa nhất, biến chất nhất như viên thị trưởng trong Quan thanh tra, Sobakevich hay Pliushkin
trong Những linh hồn chết vẫn giữ được cái phần nhân tính còn lại ở chúng, cho nên chúng vẫn
khôi hài, chứ không ghê tởm. Gogol, thiên tài sáng tạo tuyệt vời trong lĩnh vực
cái hài, không xâm nhập vào lĩnh vực lân cận, nhưng dị biệt - lĩnh vực tiếng
cười phủ định thuần túy, sử dụng vì mục đích của mình cả cái ghê tởm. Tất cả
những linh hồn chết của Gogol đều mang nét hài, và chúng phải là như thế -
chúng không thể chết hoàn toàn và vĩnh viễn, và chúng phải phục sinh. Cảm hứng
trữ tình, như ta thấy, liên kết khăng khít với cảm hứng trào tiếu nơi Gogol,
thể hiện chính nỗi khao khát phục sinh ấy - phục sinh cho linh hồn các nhân vật
và linh hồn của tác giả. Những xác tín siêu hình học ấn định một thi pháp và
một mỹ học tương ứng.
III. Hình tượng con người nơi
Gogol
Về hình tượng con người, cũng
như về tiếng cười của Gogol, trong giới phê bình nghiên cứu vẫn tồn tại nhiều ý
kiến khác biệt. Ở nước Nga, trong thế kỷ XIX đã định hình hai cái nhìn loại trừ
nhau: theo Belinski, những hình tượng của Gogol “trung thành với cuộc sống đến
mức cuối cùng”, chúng là “những bức chân dung thực thụ, mà ở đấy tất cả đều
được nắm bắt giống đời thực một cách kỳ lạ”. Phản bác những ý kiến xem Quan thanh tra là một hề kịch bóp méo thực tại, Belinski “nhập cảm” vào hình
tượng những nhân vật như thị trưởng hay Khlestakov và chứng minh đây là những
hình tượng sống động và điển hình, phản ánh chân thật cuộc sống. Trái ngược với
Belinski, Rozanov và một số tác gia khác của “thế kỷ bạch kim Nga” khẳng định:
những nhân vật của Gogol tuyệt không mang hơi thở của đời thực, đó là những
“mặt nạ vô hồn”, những hình nhân nặn bằng sáp giống hệt người thực, nhưng chết
cứng, những con rối chuyển động được chỉ nhờ sự điều khiển của tác giả nấp đằng
sau chúng. Để minh chứng, Rozanov và các cộng sự của ông dẫn ra không ít trang
viết của Gogol, mà quả thật là rất khó “nhập cảm” vào đấy theo phương pháp hiện
thực luận của Belinski. Hai cách nhìn nhận đối lập và không tìm sự hòa giải ấy,
như đã nói, trong thế kỷ XX sẽ được kế thừa và phát triển nhiều khi đến cực
đoan trong hai hệ thống thế giới đối lập, khiến người đọc nhiều khi có cảm
tưởng rằng các nhà nghiên cứu phê bình viết không phải về một tác gia Gogol
thống nhất, mà về nhiều Gogol dị biệt, không thể cộng thông và hợp dung.Thế nhưng
chỉ cần bằng con mắt không định kiến so sánh, thí dụ truyện Nhật ký người điên đã dẫn, viết năm 1834, với
truyện Chiếc áo khoác nổi tiếng toàn cầu, in năm 1842 - năm cuối cùng của thời kỳ sáng
tác tích cực của Gogol - là ta thấy ngay sự thống nhất sống động và phức hợp
của các nguyên tắc mô tả con người nơi Gogol - chúng được ấn định bằng bản chất
tài năng, bằng nhãn thức của nhà văn về con người và thế giới.
Akaki Akakievich Bashmachkin,
nhân vật truyện Chiếc áo khoác, với Aksenti Ivanovich
Poprishin, nhân vật Nhật ký người điên, là hai anh em sinh đôi, hai kẻ song trùng, không chỉ bởi vì
chúng có một thân phận xã hội giống hệt nhau mà quan trọng hơn nhiều, vì cả hai
đều là đối tượng của sự mô tả trào tiếu lạnh sắc nơi tác giả. Nếu ở Poprishin,
như ta đã thấy, tác giả nhạo báng không biết thương xót óc danh lợi hão huyền
của hắn, thì ở Bashmachkin ông chế diễu cũng không kém phần tàn nhẫn cái thường
gây thái độ thương cảm trong văn chương cũng như trong cuộc sống - sự nhu mì,
nín nhịn, tính an phận thủ thường. Bashmachkin là con người nhỏ bé nhất trong
những con người bé nhỏ được tạo tác trong văn học Nga - khó hình dung có thể có
một nhân cách hạ mình hơn, nhẫn nhục hơn, khiếp nhược hơn. Gogol - nghệ sĩ
trung thành với khunh hướng khuếch tán mọi sự đến cực độ của mình. Nhà nghiên
cứu Nga B.Eikhenbaum trong bài viết xuất sắc Chiếc áo khoác của Gogol được chế tạo như thế nào(*) đã xác định đúng thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong tác phẩm này
- grotesque (cái nghịch dị) mà cốt lõi chính là sự khuếch đại đến cực độ, làm
cho hình tượng trở nên khó tin là có thật. Eikhenbaum đã phân tích tinh vi cả
một hệ thống những phương tiện ngữ ngôn và văn phong tạo nên hiệu quả hài
nghịch dị của thiên truyện này. Đáng tiếc, trong sự phân tích của mình, nhà học
thuật thuộc trường phái hình thức chủ nghĩa này đã tự giới hạn trong văn bản,
không đi từ văn bản sang văn cảnh tác phẩm, cho nên nhiều vỉa tầng ý nghĩa của
nó vẫn ẩn khuất khỏi con mắt ông. Thí dụ, Eikhenbaum, cũng như nhiều người
nghiên cứu, để ý nhiều tới cái tên ngộ nghĩnh lạ tai của nhân vật - Akaki
Akakievich, ông đinh ninh Gogol đã chọn nó với dụng ý tăng thêm hiệu quả gây
cười cho câu chuyện. Nhưng hóa ra đấy chỉ là một khía cạnh bề ngoài, có tầm
quan trọng thứ yếu. Điều hệ trọng hơn nhiều là, như sau này mới được xác định
trong khoa “Gogol học”, bản thân tính cách của nhân vật văn học này có quan hệ
mật thiết với cái tên của nó - Akaki (trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “không thù
oán”) là tên một vị thánh của đạo Kitô, đắc đạo nhờ kỳ công khiêm nhường, nhẫn
nhục, chịu đựng không oán thán tất cả mọi tủi cực, ngược đãi của người đời. So
sánh truyện thánh với truyện hư cấu của Gogol, ta không thể không nhận ra sự dị
biệt một trời một vực giữa hai hình tượng con người tưởng chừng mang một bản
chất, cốt cách chung: nhân vật thánh truyện càng cao lớn bao nhiêu, bởi những
kỳ tích khiêm nhường, nín nhịn nơi ông là hệ quả của sự tự do và tự giác lựa
chọn đường đời, thì nhân vật văn học thế tục, như Gogol khắc họa nó, càng nhỏ
thấp bấy nhiêu, bởi vì những phẩm chất kể trên chỉ là cái bẩm sinh nơi hắn mà
hắn vừa không ý thức được giá trị, vừa không có ý chí vượt qua, là cái định
mệnh mà hắn chỉ biết cam chịu một cách đần độn.
Điển tích tôn giáo cổ đem lại
cho hình tượng nhân vật của Gogol một phối cảnh văn hóa - lịch sử nữa. Akaki
Akakievich, như ta nhớ, là nhân viên ký lục làm việc suốt đời ở một trong trăm
ngàn công sở của đế chế Nga khổng lồ. Nghề kiếm sống của y là nghề rất cổ xưa
mà ngày xưa nó rất được kính trọng. Ở phương Tây cũng như phương Đông cổ-trung
đại, chữ viết có giá trị thiêng: người biết viết hoặc chép lại kinh sách, hoặc
ghi lại những sự việc đáng được người đời sau biết đến - trong mọi trường hợp
anh ta làm việc “dưới dấu chỉ của vĩnh hằng” (sub specie aeternitatis), vì thế
mà anh ta yêu quý công việc của mình. Akaki Akakievich của Gogol cũng rất yêu
thích công việc sao chép của mình, nhưng bây giờ cái mà y sao chép đã không còn
là thánh sử, thánh truyện hay những kiệt tác văn chương đáng được mọi người
thưởng thức (đã có máy in nhân bản những trước tác ấy) mà chỉ là những giấy tờ
hành chính sự vụ để người ta đọc một lần và sau đó hủy đi, hoặc cất vào lưu
trữ. Nạn quan liêu giấy tờ đến thời Gogol đã trở thành tai họa thường nhật của
nhiều xã hội và quốc gia, công việc của người ký lục bị khinh rẻ trong đời thực
và trong văn học, và cái hài chát đắng ở nhân vật của Gogol là y say mê với cái
lao động thủ công máy móc đã mất hết ý nghĩa cao quý ấy, mãn nguyện với thân
phận nhỏ hèn thô sơ ấy của mình. Một con người đã biến thành cái máy tự động
đơn chức năng và chỉ yêu thích công việc máy móc ấy - đấy chính là hình tượng
nghịch dị, là “con người một chiều”, là mặt nạ, là bóng ma, là linh hồn chết.
Còn có gì chết cứng hơn Akaki Akakievich ở những trang đầu truyện, người viết
truyện dù muốn đến đâu cũng không thể “nhập hồn” mình vào nhân vật chết mà chỉ
có thể bằng con mắt bên ngoài lạnh lùng quan sát và ghi lại những động thái của
nó - y như cái ống kính máy quay phim ghi chụp những động tác của con rối.
“Akaki Akakievitch nếu có nhìn trông một cái gì đó, thì cũng chỉ nhìn thấy ở
trên tất cả mọi thứ những dòng chữ nắt nót, đều đặn mà y đã viết ra; và chỉ khi
nào đầu một con ngựa, từ đâu ló ra chả biết, bất thình lình kề lên vai y thở
phả vào má y cả một luồng hơi như gió bão, chỉ lúc ấy y mới nhận ra rằng mình
không phải đang đứng giữa trang giấy, mà là hình như đang đứng giữa đường phố.
Về đến nhà, y ngồi ngay vào bàn, nuốt vội món súp bắp cải và miếng thịt bò tẩm
hành, chả để ý xem mùi vị ra sao, ngốn luôn cả những con ruồi và mọi thứ khác
mà tùy theo thời tiết, Chúa Trời đã gia vị thêm vào món ăn của y. Khi nhận thấy
cái bụng bắt đầu phình ra(*),
y đứng dậy, với lấy lọ mực và bắt đầu chép lại những giấy tờ y đã đem từ sở về.
Nếu không có công việc ấy để làm, thì y tự ý chép lại cho vui một vài công văn
nào đó y thấy đặc biệt hay, hay không phải vì lời văn mỹ miều, mà vì công văn
ấy được gửi đến một nhân vật quan trọng hay mới được bổ nhiệm nào đó”. Như ta
biết, Makar Devushkin, nhân vật tiểu thuyết đầu tay của Dostoievski, anh em
cùng hội cùng thuyền với Akaki Bashmachkin, rất phẫn nộ trước hình tượng này
của Gogol, coi đó là một sự phỉ báng, vu khống trực tiếp những người như y. Và
bằng một loạt thư tình gửi một thiếu nữ cùng cảnh phận, y như muốn chứng minh
trước toàn thế giới rằng những người nghèo hèn cực khổ cũng có trái tim và trí
tuệ, chứ không phải là những máy cạo giấy như Bashmachkin. Tiếng nói tự bảo vệ
danh dự của con người nhỏ bé Makar Devushkin đã nhanh chóng được nghe thấy ở
khắp châu Âu trong thế kỷ XIX. Và chỉ sang thế kỷ XX, khi những con người như
thế bỗng nhiên hóa hình thành triệu triệu “đinh ốc” hạnh phúc trong những bộ
máy nhà nước cực quyền đè bẹp và nghiền nát mọi nhân cách tự do - chỉ khi ấy
hình tượng Akaki Bashmachkin - một con người đã sống mà chẳng khác gì chưa sống
trên đời này, “một sinh linh không có ai che chở, không ai thương mến, chẳng ai
quan tâm, không khiến được cả nhà thám hiểm tự nhiên để ý đến mình, mặc dù ông
ta không bỏ lỡ một dịp nào cắm lên mũi kim găm từng con ruồi nhỏ nhất để quan
sát qua ống kính hiển vi”, mà tuy vậy con người ấy vẫn bằng lòng với cuộc đời
của mình - mới dần dần được cảm nhận với hàm nghĩa nhân học tiên tri của nó,
như là một tiền bối xa xôi của một Gregor Samsa, người công chức hóa thành côn
trùng trong truyện của Kafka.
Nhưng Gogol vẫn không phải là
Kafka, trong thế giới của ông có chỗ cho cả tiếng cười đôn hậu, ấm áp mà
ta không thể tìm được ở Kafka. Cái khiến cho mọi độc giả mẫn cảm phải kinh ngạc
khi đọc Chiếc áo khoác chính là năng lực của người
viết đã làm sống lại một cách tự nhiên một “linh hồn chết”, đã biến hóa
không khiên cưỡng một hình biếm họa cứng nhắc thành một chân dung sống động có
chiều sâu tâm lý. Con rối vô hồn hay là chiếc máy cạo giấy Akaki Bashmachkin
bắt đầu hóa người từ lúc, do hoàn cảnh bắt buộc, y bắt đầu phải chăm lo cho
mình như một con người không đồng nhất với chức phận lục sự của mình.Toàn bộ
câu chuyện nhân vật này ban đầu bất đắc dĩ, càng về sau càng thích thú lo liệu,
dành dụm chắt bóp để may sắm cho mình một chiếc áo khoác mới được kể với giọng
văn đã đổi khác. Tác giả với thái độ vẫn cười cợt, nhưng đã cảm thông thương
mến nói về cái tình cảm mới mẻ lạ thường nảy nở trong lòng nhân vật đối với
chiếc áo còn đương may của y (“Từ đấy, ngay cuộc sống của y đã như có phần đầy
đủ hơn: tựa hồ y đã lấy vợ, y không còn đơn độc nữa, và có một người bạn gái dễ
thương đã vui lòng cùng đi với y trên đường đời và người bạn gái đó chẳng ai
khác là chiếc áo khoác, đệm bông ấm, có vải lót bền, không sao sờn hỏng được”).
Chiếc áo khoác mới đem lại cảm giác tự trọng chưa quen biết là hình ảnh một
thân phận mới mà niềm mơ ước về nó bắt đầu nhen nhóm trong lòng nhân vật. Cự ly
trào tiếu biến mất hoàn toàn ở trường đoạn (nó chiếm 10 trong 50 trang truyện)
kể về cái ngày duy nhất Bashmachkin được mặc chiếc áo khoác mới, tác giả -
người kể chuyện đến đây đã hòa làm một với nhân vật, cảm thụ tất cả bằng giác
quan và tâm lý của nó. Đây chính là cái chủ nghĩa hiện thực tâm lý mà một thời
người ta tìm kiếm khắp nơi và coi là không thể thiếu được trong sáng tác của
mọi nhà văn. Trong những truyện cười của Gogol, nó chỉ xuất hiện ở những chỗ và
những khoảnh khắc khi mà những “linh hồn chết” bộc lộ những dấu hiệu phục sinh
rõ rệt nhất. Trong Những điền chủ kiểu xưa đó là đoạn tả cái chết của hai nhân vật. Hai con người cả đời sống
một lối sống thực vật ấy đã chết như những con người. Họ không bám níu lấy cuộc
sống thực vật, họ tự nguyện giao mình cho thần chết chỉ cần nghe thấy tiếng gọi
từ xa. Cái chết nghiêm trang và huyền bí của họ, được miêu tả với một sự cộng
thông tinh thần tuyệt đối, đã dẫn đưa hai hình tượng con người ấy ra khỏi không
gian hai chiều của hình biếm họa, đem lại cho chúng chiều kích thứ ba(chiều
kích vật sống) và cả chiều kích thứ tư (chiều kích siêu hình). Trong Chiếc áo khoác, không phải cái chết của nhân
vật gây niềm cảm thương hơn cả nơi người đọc - cái chết một phần vì khiếp đảm
do bị quan lớn mắng mỏ ấy đã lại được mô tả với một cự ly trào tiếu đích đáng -
mà là khoảnh khắc khi nhân vật ấy bị cướp đi chiếc áo khoác vừa mới may - chiếc
áo mà khoác nó vào mình, nhân vật bắt đầu cười tủm với mình, bắt đầu cảm thấy
mình là người. Và mặc dù Akaki Akakievich Bashmachkin chỉ một ngày trong đời
cảm thấy mình là người, cái đó đã là đủ để tác giả dàn dựng cho y một “lễ phong
thần” trào tiếu ở cuối truyện(*).
Lễ phong thần nửa hư nửa thực ấy lại dẫn đưa nhân vật hai chiều, rồi ba chiều
này vào thế giới bốn chiều của cái hữu hình - vô hình, cái thực tại - siêu tại.
Sự hiện diện của thế giới bốn chiều ấy trong rất nhiều tác phẩm của Gogol tạo
sở cứ xác định cho nhiều người hâm mộ ông ở phương Tây xem ông là cây bút “siêu
thực” cự phách - tiền khu của nghệ thuật siêu thực thế kỷ XX. Được vận vào
Gogol, từ “siêu thực” xem ra lại được đưa về ý nghĩa chính xác của nó: cái siêu
thực không phủ định cái hữu thực, mà bao hàm nó như là một bộ phận của mình.
V.Nabokov - người gọi Gogol là “nhà văn vĩ đại nhất mà từ trước tới nay nước
Nga đã sản sinh ra” - trong toàn bộ sáng tác của Gogol khâm phục hơn cả Chiếc áo choàng, nơi mà theo ông ngòi bút
Gogol đã tạo tác ra một hoàn vũ nghệ thuật nhiều chiều nhất, với những
liên thông tài tình nhất giữa cái cười cợt và cái nghiêm túc, cái hài và cái
bi, cái lố trớn và cái mực thước, cái hiển lộ và cái tàng hình. “Ở trình
độ nghệ thuật siêu đẳng ấy, văn chương dĩ nhiên không làm cái việc khóc thương
thân phận của con người lầm than hay xỉ vả những kẻ cầm quyền. Nó chú mục vào
những tầng sâu bí ẩn của tâm linh con người, nơi bóng dáng của những thế giới
khác lướt qua tựa hồ bóng dáng những con tàu không tên và không gây tiếng
động”. Ở đoạn văn trác việt này, có lẽ chữ “không” nên thay bằng chữ “không
chỉ”. Nabokov, cũng như nhiều trí tuệ lớn khác, thường anh minh ở những gì ông
khẳng định và kém minh mẫn mỗi khi ông phủ định
Trong kịch Quan thanh tra, viên thị trưởng khi phát hiện ra mình đã mắc lừa, tức giận gào
lên: “Tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chung quanh, chẳng thấy một mặt người
nào, chỉ toàn mặt lợn”. Những người không ưa thích Gogol thường chê trách ông
hay vẽ những mặt thú thay thế mặt người. Và họ dẫn ra không ít thí dụ để chứng
minh rằng khi nhà văn này khắc họa những hình tượng con người, hình như ông chỉ
nhìn thấy trước mắt mình những mặt thú khả ố (lợn được nhớ đến nhiều nhất!). Có
người cho rằng sở dĩ Gogol hành xử như thế là vì những lĩnh vực cao siêu của
đời sống con người bất cập đối với tài năng của ông, cái mà ông có thể tái tạo
sống động chỉ là đời sống vật chất - thân xác - khu vực chung giữa loài người với
thế giới động vật. Đây là sự lý giải chủ quan, lệch lạc, không dựa vào toàn bộ
sáng tác của Gogol. ở Gogol có hình ảnh con người tinh thần cao đẹp, chỉ cần
nhắc đến người họa sĩ già trong truyện Bức chân dung (tác giả đã mượn lời nhân vật này để phát biểu những ý tưởng tâm
huyết nhất, nung nấu nhất của mình về quan hệ giữa nghệ thuật và thực tại).
Nhưng sở trường của ông vẫn là lĩnh vực của cái hài và tiếng cười. Chúng ta đã
thấy Gogol cười trước hết và chủ yếu cái gì - sự nhỏ hèn dung tục của con
người, sự vô sinh của cuộc sống, sự chết cứng của linh hồn. Bộ sưu tập những
linh hồn chết trong tác phẩm cùng tên của Gogol, nếu nhìn kỹ một tí, hóa ra đều
là những linh hồn đã sa vào thú tính, đã “hóa thú”. Hình tượng điển hình sắc
nét nhất có lẽ là Sobakevich. Ở nhân vật này, thú tính chiến thắng đã lộ ra ở
ngay ngoại hình và tác phong của nó - ngoại hình thô kệch và tác phong ục ịch
vụng về của “một con gấu hạng vừa”. “Trong cái thân thể ấy hình như hoàn toàn
không còn linh hồn nữa, hay nếu có chăng nữa thì linh hồn ấy không ở cái chỗ nó
phải ở, mà trái lại ở đâu đâu bên kia núi, như linh hồn của một Kôsei bất tử,
và một cái mai đã phủ lên nó, dày cứng đến nỗi tất cả những gì cựa quậy ở dưới
đều chẳng gây ra chút chấn động nào trên mặt cả”. Linh hồn hóa thú, như Gogol
khắc vẽ nó, là linh hồn bị nô dịch bởi thân xác và bởi môi trường. Nó tìm kiếm
trước hết những lạc thú thân xác và nó bằng mọi cách thích nghi với môi trường
xã hội. Trong những lạc thú thân xác, những linh hồn chết của Gogol yêu thích
nhất sự ăn uống. Tật phàm ăn, tật nuông chiều cái bụng, phổ biến ở loài người
(mà bản thân Gogol cũng không tránh khỏi nó), trongNhững linh hồn chết được mô tả với độ khuếch đại đến cùng, tiểu thuyết - trường ca này
dễ để lại ấn tượng về một thế giới của những cái mồm ăn uống liên tục và những
cái bụng no căng liên tục. Nhưng ở những sinh thể ăn uống, hay ăn mặc đua đòi
ấy - chúng đều là những sinh thể tiêu thụ thuần túy - chỉ có những chỉ số phân
biệt về lượng, chứ không phải về chất, và ông chánh án hay ông chưởng lý, người
đàn bà yêu kiều hay phu nhân yêu kiều về mọi phương diện - tất cả đều giống
nhau như những hình đổ từ một khuôn. Không ai có gương mặt riêng của mình,
không ai đưa vào cuộc sống chung những nét đặc sắc chỉ có ở cá nhân mình, tất
cả đều có thể thay thế nhau, sự có mặt hay vắng mặt của ai đó ở chợ đời
đều không có ý nghĩa gì hết. Cái chết của viên chưởng lý, một quan chức cấp cao
nơi tỉnh lỵ, được mô tả như sau: “... về đến nhà, ông ta đâm ra suy nghĩ và nghĩ
dữ đến nỗi chết vì nghĩ. Bị trúng phong chăng? Hay vì một chứng bệnh bất ngờ
nào khác? Dẫu sao thì cũng chẳng có lý do nào cả; tự nhiên đang ngồi trên ghế,
ông ta ngã uỵch xuống.
Người nhà chạy đến, vừa kịp giơ
tay kêu lên: “Ôi, lạy Chúa!” và cho người đi gọi thầy thuốc đến trích huyết cho
ông thì thấy ông chưởng lý đã chỉ còn là một cái xác không hồn. Bấy giờ người
ta mới thương tiếc nhận ra rằng ông chưởng lý sinh thời cũng có một cái hồn,
nhưng vì khiêm tốn ông không bao giờ cho ai thấy đó thôi”. Ký ức duy nhất mà
ông quan quá cố này để lại cho những người quen biết ông là cặp lông mày rậm!
Đấy, toàn những linh hồn chết
hay là hóa thú như thế đã an cư lạc nghiệp trên những trang sách của Gogol! Thế
mà trong bao nhiêu năm công phu khắc vẽ chúng, tác giả vẫn tâm niệm đinh ninh
rằng chúng sẽ phải sống lại và sẽ sống lại dưới ngòi bút của ông! Như ta biết,
đấy là ý đồ tư tưởng của tiểu thuyết-trường ca, mà Gogol đã viết mười lăm năm
và cuối cùng đã bỏ dở. Sự bỏ dở ấy thường bị xem như một thất bại của một nghệ
sĩ đã đặt ra cho mình một nhiệm vụ quá sức, không thích hợp với bản tính tài
năng của mình. Những ý kiến ấy tất nhiên có lý của chúng. Song, qua những
truyện đã được phân tích, chúng ta biết rằng nhà văn Gogol có “phép mầu” làm
sống lại những linh hồn chết, ở mỗi tác phẩm biểu hiện một cách khác. Lẽ nào
ngay trong tập I Những linh hồn chết Gogol lại hoàn toàn không dùng
đến “phép mầu” ấy, dẫu chỉ để chuẩn bị từ xa, để báo trước sự phục sinh của tất
cả ở kết cục tác phẩm dự định gồm ba tập?
Ngoài bộ sưu tập người, trong Những linh hồn chết còn có bộ sưu tập súc vật, hai bộ ấy xem ra dị biệt một cách không
có lợi cho những con người. Đây, một trong vài chi tiết làm sinh động cảnh quan
một màu tẻ ngắt của ấp Manilovka, nơi đầu tiên mà Chichikov tìm đến tậu mua
“những linh hồn chết”: “Để cho bức tranh phong cảnh được đầy đủ còn có một con
gà trống gáy báo hiệu thời tiết thay đổi; dù đầu nó đã bị mỏ của những con gà
trống khác mổ thủng sâu đến tận óc để trừng phạt tội phong tình nổi tiếng, nó
vẫn gáy oang oang và lại còn vỗ liên hồi cả đôi cánh tả tơi như chiếu rách”.
Con gà trống này có phải có cá tính mạnh mẽ hơn, khắc sâu hơn vào trí nhớ của
người đọc so với quan chưởng lý vừa được nói đến? ở chương sau, tác giả tả
tiếng chó sủa khi giữa đêm mưa, Chichikov gõ cổng nhà nữ điền chủ Korobochka,
xin vào ngủ nhờ: “Trong khi ấy thì bầy chó tiến hành một cuộc biểu diễn thanh
nhạc đón chào tân khách. Một con, đầu ngả ra đằng sau, ra sức chuyển giọng qua
đủ các cung bậc đến nỗi người ta tưởng là nó được trả công rất hậu để làm việc
ấy; một con xướng âm vội vã như người hát kinh, giọng nam cao không biết mệt
mỏi của một con cún hòa vào bản hợp xướng những tiếng lục lạc đồng; một con chó
già vạm vỡ - người ta thấy rõ như thế qua cái giọng ồ ồ của nó - cò cử cái
giọng nam cực trầm giữa lúc cuộc hòa nhạc bước vào phút hào hứng nhất...”. Buổi
hòa nhạc đầy hứng khởi và tài nghệ của đàn chó là hình tượng âm nhạc hiếm hoi
trong tiểu thuyết - trường ca này. Năng khiếu và lòng say mê âm nhạc của loài
khuyển tựa hồ bổ khuyết cho sự thiếu vắng nhạc tính đáng trách lắm lắm
trong đời sống của loài người. Và đây nữa, ba con ngựa kéo cỗ xe tam mã của
Chichikov: chúng xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, trong những tình huống
khác nhau, và có thể khẳng định rằng chúng là ba nhân cách sống động nhất và
đáng mến nhất, đặc biệt con ngựa vằn thông minh, láu cá, quảng giao - đối tượng
của bao nhiều lời giáo huấn, phủ dụ của người xà ích Selifan lúc tỉnh cũng như
khi say... Những con vật trong tiểu thuyết - trường ca của Gogol con nào cũng
như thèm khát ánh sáng tinh thần, ngưỡng vọng một cuộc sống đầy ý nghĩa, giàu
yếu tố sáng tạo. Chúng không tồn tại biệt lập như trong các truyện ngụ ngôn,
chúng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cái thế giới tự nhiên bao
quanh các nhân vật, thế giới ấy không chết một tý nào, ngược lại, dưới ngòi bút
Gogol nó khắp nơi và luôn luôn bộc lộ hoạt tính, phát ra những tia sáng
của sự sống có cá tính, có linh hồn, có tinh thần. Trong thực tại, nó là cái
phông tương phản làm hiện lên đậm nét hơn cái xã hội của những linh hồn chết,
của những con người đã quên đi sứ mệnh cao quý của loài người để sống theo
lối sống của loài vật và vì thế đã trở nên thấp kém hơn những con vật; nhưng
trong viễn cảnh, chỉ cần những linh hồn đang ngủ như chết bàng hoàng mở mắt
nhìn xung quanh, thì cái thế giới tự nhiên đầy sức sống muôn màu muôn vẻ và
hướng tới thăng hoa tinh thần ấy có thể xúc tác mãnh liệt cho sự phục sinh của
chúng. Đây không phải là sự thêu dệt hay ngoại suy xung quanh kiệt tác của
Gogol. Phải có một lý do nào đó khiến ông dùng nhiều sắc màu vui mắt, nhiều
đường nét ưa nhìn đến thế để khắc vẽ những con vật, những cảnh quan thiên nhiên
điểm xuyết từ xa cho một bức tranh xã hội gồm toàn những hình thô kệch xám
xịt. Chúng ta nhớ hình ảnh con ruồi hiện ra ba lần trong truyện Chiếc áo khoác để ám chỉ thân phận giun dế của
Akaki Bashmachkin và triệu triệu đồng loại của y. Nhưng đây, hình ảnh những con
ruồi trong Những linh hồn chết - tác giả mô tả một buổi vũ hội tại nhà viên tỉnh trưởng: “Bước
vào phòng lớn, Chichikov phải nheo mắt lại một lúc vì ánh đèn, ánh nến và những
bộ trang phục rực rỡ của các phu nhân làm cho y lóa mắt. Khắp gian phòng tràn
ngập ánh sáng, những bộ áo đen thấp thoáng qua lại nơi này, nơi kia như những
con ruồi trên mặt bánh đường trắng tinh, trong một ngày tháng bảy nóng nực, khi
bà quản thiện già đứng bên cửa sổ mở rộng chặt thành từng miếng lóng lánh. Bầy
trẻ xúm xít chung quanh, tò mò theo dõi từng cử động của cánh tay khẳng khiu
giơ cái búa lên; trong khi những binh đoàn ruồi bay trong không khí nhẹ nhàng,
mạnh dạn như những chủ nhân, nơi này rải rác, nơi kia túm tụm sà xuống những
miếng đường ngon lành, lợi dụng cái ánh nắng chói chang làm cho đôi mắt bà lão
vốn đã kém, lại càng chẳng thấy gì nữa. No nê vì bao nhiêu thức ăn ngon lành mà
mùa hè giàu có bày khắp nơi cho chúng, đàn ruồi bay lượn không phải để kiếm ăn,
mà chính là để phô mình; chúng bay lượn trên đống đường, xoa đôi chân trước hay
đôi chân sau vào nhau, lấy chân vuốt vuốt dưới cánh, duỗi duỗi chân trước ra và
vuốt quàng lên đầu, rồi quay mình bay đi, nhưng tức khắc lại trở về, kéo theo
những binh đoàn ruồi khác đông đúc hơn”. Trước chúng ta, một hình ảnh so sánh
điển hình cho thi pháp Những linh hồn chết, khiến một vài nhà phê bình biết thưởng thức văn chương nhớ ngay
đến Homère: hai vế của tỉ dụ hoàn toàn bình đẳng, có giá trị như nhau, thậm chí
trong trường hợp này vế thứ hai đã lấn án vế thứ nhất. So sánh cảnh vũ hội (đàn
ông mặc đồ đen, phụ nữ mặc đồ sáng) với cảnh đàn ruồi bâu quanh đống đường, tác
giả rất nhanh tựa hồ quên hẳn đi về cuộc khiêu vũ của giới quý tộc tỉnh lẻ và
chỉ còn chăm chú diễn tả sự chơi dỡn nhộn nhịp, hồn nhiên của đàn ruồi giữa mùa
hè no đủ (sự no đủ ấy một phần do lao động con người mang lại cho chúng, ta lưu
ý đến hình ảnh đầy chất thơ của tấm bánh đường trắng tinh). Trong một tỷ dụ văn
chương này ẩn chứa bao nhiêu tình yêu nồng nàn đối với vạn vật, đối với thiên
nhiên, đối với loài người cần lao, và bao nhiêu sự dửng dưng ghẻ lạnh với những
sinh linh phô trương một cách lố bịch vị trí ưu đãi của mình trong thiên nhiên
và giữa đồng loại!IV. Cái thật và cái ảo nơi
Gogol
Những người chỉ cổ súy cho một
chủ nghĩa hiện thực “giống như thật” và những người chỉ tìm trong nghệ thuật
cái kỳ ảo, cái không có trong đời thật dù có tranh chấp đến đâu đi nữa cũng
không ai độc chiếm được Gogol, bởi lẽ sáng tác của ông cho thấy một sự liên kết
không rời, sự nắm chặt tay nhau giữa cái thật và cái ảo. Nhiều cái là “ảo” đối
với triệu triệu con người xem mình là văn minh tiên tiến - những sức mạnh siêu
nhiên chẳng hạn - với Gogol lại là hiện thực không thể hồ nghi, về thái độ của
nhà văn đối với hiện thực ấy chúng tôi sẽ nói đến sau. Nhưng ở Gogol, ngay cái
thật, cái rất thật trong sự tồn tại vật chất có thể sờ mó được có khi hóa thành
hư ảo, còn cái ảo (những lo sợ quá mức chẳng hạn) lại hóa thật, và càng tìm
hiểu, suy ngẫm về những biến hóa thật - ảo nơi Gogol, người đọc càng ngỡ ngàng
sửng sốt trước những bí mật hé mở qua đó về thế giới và con người.
Truyện Cái mũi của Gogol, chiếm không đầy ba mươi trang sách khổ thường, trong thế
kỷ XX đã làm nảy sinh một loạt tác phẩm văn nghệ mô phỏng và chuyển thể(*)
và còn nhiều hơn nữa công trình chuyên khảo nghiên cứu, phê bình, bây giờ khó
đếm hết được, bởi vì chúng xuất hiện ở nhiều nước và bằng nhiều thứ tiếng.
Người ta đua nhau đưa ra những kiến giải rất khác nhau: xã hội học, phân tâm
học, triết học, huyền thoại học, biểu tượng học và tất nhiên cả ngữ văn học về
một giai thoại hoang đường từ đầu đến cuối và có vẻ rất bông phèng mà nhà văn
Nga đã kể. Như nhà ngữ văn học V.Vinogradov đã xác định, Gogol không hư cấu ra
cốt truyện về cái mũi tự dưng biến mất rồi lại xuất hiện trên mặt người (Gogol,
như ông tự nhận xét, không có tài hư cấu cốt truyện và về mặt này ông thua xa
những cây bút hài như Chekhov hay Mark Twain). Cốt truyện ấy lưu hành rất rộng
rãi trong văn học thành văn và truyền miệng thời ông. Như vậy, tất cả sức mạnh
thu hút của tác phẩm là ở chỗ nhà văn đã gia công cốt truyện ấy như thế nào,
bằng câu chuyện ấy gửi đến người đọc thông điệp gì.
Trước hết tác giả bắt người đọc
truyện phải chịu đựng cái hoang đường phi lý được nhân lên cấp bình phương và lập
phương: cái mũi tự dưng biến mất khỏi mặt thiếu tá Kovalev, cũng sáng hôm ấy
được tìm thấy trong chiếc bánh mì mới nướng ở nhà lão thợ cạo mỗi tuần cạo mặt
hai lần cho viên thiếu tá này; sợ lụy đến thân, người thợ cạo gói chiếc mũi lại
đem thả trôi sông. Nhưng cũng hôm ấy, chiếc mũi ấy hoá người, mặc chế phục công
chức cấp tư vấn quốc gia viếng thăm người này người kia và vào cả nhà thờ lớn
Kazanski (dành cho giới quý tộc) để cầu nguyện. Kovalev nhận ra nó và đuổi bắt
nó một cách vô vọng. Đoạn truyện này rõ ràng có hàm ý châm biếm xã hội Nga
phong kiến - quan lại thời ấy, và không ít nhà phê bình nghiên cứu nhìn thấy ở
đây trọng tâm tư tưởng của tác phẩm. Quả thật, óc sùng bái chức tước đã làm mù
mắt mọi người đến nỗi cả một kinh đô triệu dân ai ai cũng tưởng cái mũi là ông
quan chỉ vì nó khoác phẩm phục của quan tư vấn quốc gia (ngang thiếu tướng).
Chỉ một mình thiếu tá Kovalev biết nó là cái mũi của y, nhưng đứng trước nó
cũng khép nép, cũng không dám cao giọng, không dám kêu bắt, để nó tuột khỏi tay
mình. Nhưng giả sử Gogol thực sự có ý đồ châm biếm thật cay độc xã hội quan lại
Peterburg thời ấy, thì ông đã dành nhiều trang hơn để kể những chuyện nực cười
xảy ra từ việc cái mũi bị ngộ nhận là quan tư vấn quốc gia, giống như trong
kịch Quan thanh tra ông đã khai thác mọi hiệu quả hài từ việc một Khlestakov trẻ người
non dạ bị các quan chức cấp huyện tưởng lầm là một viên thanh tra bí mật, mưu
mẹo và quỷ quyệt. Đằng này “sự tích” cái mũi hóa người lại được kết thúc sớm:
ngay tối hôm ấy, một sĩ quan cảnh sát phường đã đem cái mũi ấy trả lại cho chủ
nhân của nó. Cái mũi đã bị bắt ở bến xe, khi nó đương chuẩn bị chuồn đi tỉnh
khác. Viên cảnh sát cận thị chỉ cần đeo kính vào là nhận ra ngay đây không phải
là ông quan, mà là cái mũi. Hề kịch giả tưởng về xã hội như vậy đến đây chấm
dứt, nhường chỗ cho hài kịch con người, ngay từ đầu diễn tiến song song và đan
xen với nó. Trong các nhân vật công chức được khắc họa trong những truyện
Peterburg của Gogol, Kovalev xem ra tầm thường dung tục hơn cả. Từ tỉnh lên
kinh đô chỉ để tìm kiếm danh lợi, mơ ước chỉ về một chức vụ nhiều bổng lộc và
một cô vợ sộp, y không có nét nào có thể gây cảm tình nơi người đọc. Và những
phản ứng đầu tiên của chúng ta trước việc y bị mất mũi cũng chỉ thuần túy buồn
cười. Mà không cười sao được khi nghe y năn nỉ nói với cái mũi mặc áo quan lớn:
“Hẳn ngài cũng phải đồng ý rằng không thể nào tôi đi dạo chơi mà không có mũi
được. Một con mẹ bán cam bóc vỏ ở cầu Voznesenski có thể chẳng cần đến mũi, chứ
tôi đây... sắp nhận một chức vụ quan trọng... mà hơn thế nữa, lại quen biết vô
số các phu nhân như là bà cố vấn quốc gia Chekhtareva và nhiều bà khác...”.
Song càng chứng kiến những khổ đau và lo toan của nhân vật hài này, ta vừa cười
lại vừa cảm thông với y, và đến cuối truyện khi cái mũi tự dưng trở lại vị trí
cũ giữa hai má y "cứ như chưa bao giờ đi vắng”, thì ta vui mừng thật sự
cho y, mặc dù không lúc nào quên rằng đây là chỉ là chuyện hư cấu bông lơn
không bao giờ có trong đời thực. Song hình như tác giả lại rất không muốn người
đọc coi câu chuyện ông kể chỉ là bông phèng. Tác giả thừa nhận nó vô lý từ đầu
đến cuối, không thể tin được và tuyệt không có ích lợi gì cho “nước nhà”, nhưng
ngay sau đó lại nói: “Song le, mặc dù tất cả những điều đó...nếu thiên hạ để
tâm suy nghĩ thì trong tất cả những truyện ấy,vẫn có một cái gì đấy.
Mặc ai muốn nói gì thì nói, những sự kiện như vậy vẫn cứ xảy ra trên thế gian; cố nhiên là hiếm, nhưng dẫu sao vẫn cứ xảy ra”. Có nghĩa là, có thể còn nhiều người khác nữa cũng tự dưng mất mũi, và ngay anh chàng Kovalev kia, giờ đây đương vui cười đuổi theo tán tỉnh tất cả các bà các cô có nhan sắc, không từ một ai hết trên đại lộ Nevski, cứ như chẳng có gì đã xảy ra với y - anh chàng ấy có thể sẽ còn mất mũi nữa! Có một lý do nào đó khiến những cái mũi đào tẩu khỏi những mặt người!
Mặc ai muốn nói gì thì nói, những sự kiện như vậy vẫn cứ xảy ra trên thế gian; cố nhiên là hiếm, nhưng dẫu sao vẫn cứ xảy ra”. Có nghĩa là, có thể còn nhiều người khác nữa cũng tự dưng mất mũi, và ngay anh chàng Kovalev kia, giờ đây đương vui cười đuổi theo tán tỉnh tất cả các bà các cô có nhan sắc, không từ một ai hết trên đại lộ Nevski, cứ như chẳng có gì đã xảy ra với y - anh chàng ấy có thể sẽ còn mất mũi nữa! Có một lý do nào đó khiến những cái mũi đào tẩu khỏi những mặt người!
Trêu tức và đụng đến cái gì đó
rất gần gũi thiết thân với độc giả, truyện Cái mũi đặt ra một câu đố cho đến nay vẫn chưa được giải tỏa, mặc dù đã có
nhiều thử nghiệm tài tình.
Người đầu tiên đã cố hết sức mà
không giải được câu đố này là chính nhân vật của truyện, thiếu tá Kovalev. Tự
dưng mất mũi, y bỗng nhận ra cái bộ phận nhỏ bé ấy trên cơ thể y hóa ra có tầm
quan trọng to lớn lắm, to lớn hơn nhiều bộ phận khác. Y than thở, tự vấn: “Trời
ơi trời! Sao lại xảy ra tai họa này? Thà tôi mất một tay hay một cẳng còn hơn,
thà mất cả hai tai - tồi tệ thật đấy, nhưng vẫn chịu được. Đằng này, một người
không có mũi! Chẳng còn biết ra cái gì nữa. Chẳng ra người, mà cũng chẳng ra
ngợm! Chỉ là đồ vứt đi thôi!” Y đến văn phòng báo chí xin đăng quảng cáo truy tìm
cái mũi đào tẩu - đây là đoạn khôi hài nhất của truyện. Khi người ta từ chối
với lý do: báo chưa bao giờ đăng tin tìm mũi, toàn tìm mèo với chó - y phát
cáu: “Nhưng tôi có đăng quảng cáo về chó đâu, mà về cái mũi của tôi cơ mà! Tức
là hầu như về chính tôi!”. Trình độ trí tuệ của nhân vật này chỉ đến thế:
y không thể diễn giải vì sao sinh linh con người y với cái mũi của y lại “hầu
như” là một. Và sau này, khi cái mũi đã trở lại vị trí cũ trên mặt y, y càng
không nghĩ đến câu hỏi ấy nữa. Nhưng tác giả truyện - Gogol, người có cái mũi
rất đặc biệt, suốt đời suy nghĩ về “bí mật của khuôn mặt con người” mà cái mũi
là bộ phận. Giữa khuôn mặt con người với sinh linh con người quả có quan hệ
huyền bí dễ cảm hội hơn là trí hội. Gogol gọi mặt người, với những bộ phận
hợp thành không thể thiếu được của nó, là “vị đại diện cho con người như là
hình ảnh của Chúa Trời” (chính vì thế mà nhân vật của ông mới có thể tuyên bố
rằng cái mũi của nó hầu như là chính nó!). Khuôn mặt con người, với những tỷ lệ
cân đối chuẩn mực và vị trí trên dưới không thể đảo ngược của các bộ phận của
nó nhắc nhở con người về những quan hệ phải có giữa những yếu tố cơ bản làm nên
đời sống của nó. Nhà thơ Nga I.Annenski (1855-1909) - một trong những độc giả
tài hoa nhất và chịu suy nghĩ nhất của Gogol - đã nhận xét rằng bằng hai
truyện, một truyện nói về cái mũi, truyện khác - về đôi mắt ("Bức chân dung")
Gogol đã tạo dựng hai biểu trưng về bản tính xác thịt vàbản tính tinh thần của con người, hai bản tính ấy
trong sáng tác của nhà văn này luôn luôn ở trong trạng thái đối kháng, với thế
tấn công, lấn át của bản tính thứ nhất và thế thủ lép vế của bản tính thứ
hai. Nếu chấp nhận cách nhìn của Annenski, thì giai thoại nực cười về cái mũi
đào tẩu khỏi mặt thiếu tá Kovalev, hóa thành nhân vật quan trọng hơn y, rồi trở
lại vị trí cũ cần được hiểu như là sự diễn tả bằng ngôn ngữ ngoại hóa của nghệ
thuật nghịch dị giả tưởng cái hiện thực nội tâm hàng ngày của chúng ta - cuộc
đấu tranh của chúng ta với chính mình để gìn giữ sự toàn vẹn nhân cách,linh hồn
và nhân phẩm của mình. Cùng với Gogol chê cười nhân vật của ông cứ nhởn nhơ sau
tất cả những gì đã xảy ra với y, chúng ta chê cười sự thiếu cảnh giác của ta
với chính ta - vì nó mà ta thường xuyên có nguy cơ bàng hoàng nhận ra mình đã
dị biến, giống như thiếu tá Kovalev hãi hùng trông thấy mình trong gương
sáng ngày 25 tháng Ba năm nọ...
V. Cảm thức tôn giáo của Gogol
Thiếu tá Kovalev, như ta nhớ,
từ tỉnh lên thủ đô Peterburg để tìm một chức vụ sang trọng và kiếm một cô vợ
sộp. Chỗ anh ta thích đến để phô cái ngoại hình điển trai của mình và chinh
phục giới quý tộc là đại lộ Nevski. Đại lộ Nevski, như Gogol tả nó trong thiên
truyện cùng tên, chính là nơi mà ngày ngày xã hội thượng lưu Nga “triển lãm
những sản phẩm đẹp mắt nhất của con người. Người này khoe một chiếc áo
rơđanhgôt bảnh bao với những trang sức bằng da hải ly; kẻ khác, một cái
mũi tuyệt đẹp kiểu Hy Lạp; người thứ ba - một bộ râu quai nón có một không hai;
quý bà này cho xem một cặp mắt quyến rũ dưới chiếc mũ rộng vành kỳ diệu, tiểu
thư kia - một bàn chân mê hồn trong chiếc giày mê hồn; cô kia nữa - một ngón
tay búp măng đeo chiếc nhẫn có đính bùa; chàng thanh niên này phô một chiếc cà
vạt kỳ lạ; vị sĩ quan kia - một bộ ria mép khiến người nhìn phải sửng sốt”. Cái
hài lố lăng ở đây là cái hài của những bộ phận chiếm chỗ chỉnh thể con người,
những đồ vật chiếm chỗ những nhân cách - những đại lượng ảo thay thế những đại
lượng thực. Ở đại lộ Nevski, cũng như trong toàn bộ Peterburg của Gogol, “cái
gì cũng là giả dối. Cái đại lộ Nevski ấy ngày đêm nó dối trá từng giờ từng
phút, nhất là những khi bóng tối nặng nề đổ xuống những vỉa hè... lúc thành phố
tràn ngập ánh sáng và những tiếng ầm ầm như sấm sét, lúc hằng ha sa số ngựa xe
rầm rập phi qua giữa những tiếng kêu thét inh ỏi của những gã đánh xe cúi rạp
mình xuống tận cổ ngựa, trong khi chính quỷ dữ thắp những ngọn đèn lồng lên chỉ
để khoác lên cho tất cả cái vẻ huyền hoặc và dối trá”. Quỷ dữ xuất hiện ở mệnh
đề kết thúc truyện Đại lộ Nevski với tư cách chủ nhân đích thực
của cái đường phố này và cả thành phố rất hiện thực mà hoá ra lại rất hư ảo này
trong con mắt chúng ta chỉ là một hình tượng văn học, nhưng nó không phải là
thế trong con mắt của tác giả Gogol. Đối với Gogol, thánh thần và ác quỷ là
những hiện thực không thể hồ nghi. Thư từ và những tài liệu cá nhân của ông,
cùng với hồi ký của những người quen biết cho thấy ở Gogol có một cảm thức đặc
biệt mạnh mẽ và thường trực về sự có mặt của quỷ dữ trong thế gian này và những
tác động của nó tới chính ông. Khó đếm hết bao nhiêu lần trong những sáng tác
của mình nhà văn đã nhắc đến sức mạnh siêu nhiên này, và đây một trong trong
những dòng chữ cuối cùng mà Gogol - con người đã để lại, trước khi đi sang thế
giới bên kia: “Lạy Chúa, hãy mở lượng khoan hồng xá tội cho con! Một lần nữa
hãy trói lại quỷ Xatăng bằng sức mạnh kỳ diệu của cây Thánh giá huyền nhiệm của
Người!”. Trong ngữ cảnh của toàn bộ thế giới quan và sáng tác của Gogol, ngay
một truyện ngắn buồn cười và có cái kết hậu như Cái mũi cũng có thể được hiểu như là
một huyền thoại trào tiếu về một trò đùa của quỷ dữ với con người.
Trong một truyện khác của Gogol
- Vii, sáng tác cũng trong năm 1834
rất được mùa ấy, những sức mạnh ma quỷ không còn đùa bỡn nữa mà đã thử thách
rất khốc liệt con người. Đối tượng của cuộc thử thách ấy, cậu học sinh lớp
“triết” (lớp áp chót) của trường dòng Khoma Brut về nhân cách có không ít thông
số chung với thiếu tá Kovalev. Cả hai đều là những đứa con của đất, nhưng ở
Khoma Brut, do tuổi niên thiếu và vị trí ở ngoài lề xã hội của y, được khắc vẽ
sắc nét hơn cái bản chất nguyên sơ của con người nhục thể chưa biết đến những
nhu cầu tinh thần. Tính tự nhiên nguyên sơ của nhân vật này được tác giả
khuếch tán hình như để tranh luận với lý tưởng “con người tự nhiên” của các nhà
tư tưởng khai sáng thế kỷ XVIII: Khoma cứ như được sinh ra từ đất, y không biết
bố mẹ mình là ai, không có quê quán, và mỗi kỳ nghỉ hè, khi trường dòng thả các
học sinh nội trú về nhà, y đi lang thang khắp nơi kiếm ăn và kiếm ăn giỏi nhờ
những “ngón nghề” của mình. Tác giả với nụ cười thiện cảm khắc họa một nhân vật
đầy sức sống trẻ trung, yêu đời và ham thích mọi lạc thú trên đời, hóm hỉnh,
tinh nghịch, gan dạ. “Nhà triết học Khoma của chúng ta có tính tình vui nhộn,
chàng thích nằm hút tẩu. Khi nào uống rượu thì chàng nhất thiết thuê nhạc công
để nhảy một điệu t’ropak. Chàng đã nhiều phen phải nếm những trận đòn nhừ tử,
nhưng bao giờ cũng giữ cái vẻ dửng dưng của nhà hiền triết thực thụ - chàng
thường nói: “Cái gì ắt đến, cái đó tránh cũng không được”. Nhưng chính một đứa
con gan góc của đất như thế, mà toàn bộ sinh linh là một ý chí sống, đã sớm
phải rời bỏ cuộc sống vì không chịu đựng được cuộc đối đầu với yêu ma hiện lên
từ địa ngục để trả thù y vì y đã vô ý làm hại một người chị em của chúng trong
nhân gian. Hình tượng cô tiểu thư - phù thủy trong truyện kinh dị này thể hiện
một cảm quan phức tạp, đầy mâu thuẫn của nhà văn đối với cái đẹp: nó vừa cuốn
hút ông mãnh liệt, vừa truyền cho ông một nỗi sợ bản thể. Ngưỡng mộ cái đẹp,
nhất là sắc đẹp của phụ nữ như một tặng phẩm vô giá của Chúa Trời dành cho loài
người, Gogol đồng thời, với con mắt nhìn nhận thế gian như là một trường đấu
tranh không ngớt giữa Chúa Trời và ác Quỷ, thiên nhìn thấy ở cái đẹp một sức
mạnh đã khuất phục trước quỷ dữ và trở thành công cụ trong tay nó. Tiểu thư -
giai nhân trong truyện Vii - một linh hồn đã thông đồng với ma quỷ - bị chiến thắng bởi
những lời cầu nguyện thánh thần phát ra từ miệng một cậu học trò trường dòng,
đã kêu gọi chính yêu ma đến để thử thách niềm tin vào thánh thần ở con người
này. Và mặt giáp mặt với ma quỷ, con người trần tục ấy đã bộc lộ tất cả sự yếu
ớt, hời hợt của niềm tin nơi y. Trong giây phút quyết định vận mệnh y, y đã
không tập trung được tinh thần để cầu nguyện thánh thần, để tìm thấy thánh thần
ở ngay trong mình. Khoma Brut, đứa con của đất, đã bại vong trước những sức
mạnh của địa ngục, bởi vì trong y chưa có ánh sáng của tinh thần thực thụ, hay
là ánh sáng của thiên giới.
Ánh sáng thiên giới không chỉ
là cái mà nhà văn Gogol khao khát tìm thấy trong nhân loại để phản ánh vào
trong những tác phẩm của mình, mà còn là cái mà Gogol - con người khao khát có
được cho linh hồn của chính mình. Giữa con người của Gogol với sáng tác của ông
có mối quan hệ khăng khít hiếm thấy. Trong sách Trích thư từ gửi bạn bè và trong Lời tự bạch của tác giả viết để thanh minh và bổ khuyết cho sách ấy, Gogol đã phanh phui
mình trước độc giả, đã chỉ ra rằng khi độc giả cười những nhân vật phản diện
của ông, tức là họ cười cả chính bản thân ông. Trong cuộc đời, Gogol là người
hay nói dối, cho nên ban đầu không ít người cho rằng những lời trên chỉ là sự
tự vu khống, tự hạ thấp mình nhằm lập công khiêm nhường - một đức tính được đạo
Kitô rất đề cao. Song sự nghiên cứu khách quan tiểu sử của nhà văn dần dần cho
thấy ông quả thật đã chuyển giao cho những nhân vật của mình không ít khuyết
tật của chính mình, đây là một trong những phương pháp tu thân của ông. Từ đấy,
ở Gogol đã nảy sinh và ngày càng củng cố một xác tín mà không mấy người cầm bút
có thể chia sẻ với ông: để làm sống lại những linh hồn chết trên những trang
viết của mình, bản thân nhà văn phải trở thành một linh hồn sống thực thụ và
toàn vẹn; để khắc họa những nhân cách cao đẹp, bản thân người viết phải mang
trong mình những đức tính cao đẹp ấy. Trong ý thức của Gogol, việc tự tu thân
tích đức dần dần nổi lên, trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cuộc đời
ông. Nhưng Gogol không theo chủ nghĩa duy đạo đức thế tục, ông từ trẻ đã là một
tâm hồn rất mộ đạo, một tín đồ nhiệt thành của đạo Kitô (về phương diện này,
trong các văn hào Nga chỉ có Dostoievski giống ông). Thế giới quan và nhân sinh
quan Kitô giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến sáng tác của Gogol, đem lại cho nó một
chiều sâu nhân học thăm thẳm, góp phần quan trọng làm nên sự bất tử của nó.
Nhưng đạo Kitô thời Gogol, trong mọi giáo phái của nó, còn rất bảo thủ trong
những vấn đề xã hội. Lập trường tôn giáo chính thống, thẩm thấu nhãn thức của
Gogol, nhiều khi đẩy ông đến những quan điểm đối lập với những người cách mạng
cấp tiến cùng thời với ông. Trong lá thư bỏ dở trả lời bức thư nổi tiếng của
Belinski, Gogol viết: “Không thể sửa đổi sự rối loạn nội bộ (của xã hội) bằng
bất cứ hiến pháp nào. Xã hội hình thành một cách tự nhiên, nó được hợp thành từ
những cá nhân. Vậy điều thiết yếu là làm sao mỗi cá nhân làm tròn chức phận của
mình... Phải làm sao cho con người nhớ lại rằng nó tuyệt không phải là con vật
chỉ có thể chất, mà là một công dân cao cả của một dân quốc cao cả trên trời.
Chừng nào nó chưa sống, dù chỉ một chút, bằng cuộc sống của người công dân trên
trời, chừng ấy cái dân quốc nơi trần gian này còn chưa thể có trật tự”. Không
biết Belinski sẽ phúc đáp Gogol thế nào, nếu ông nhận được bức thư này: đối với
Belinski những năm cuối đời, vấn đề “dân quốc trên trời” không tồn tại nữa, ông
chỉ sống với thế giới ở bên này và đấy là nét phiến diện, nông cạn nơi ông.
Song trong quan điểm của Gogol rõ ràng cũng có khuynh hướng cực đoan phiến
diện. Có thể vì chức phận của người công dân trên trời mà sao lãng nhiệm vụ của
người công dân trên mặt đất này, bằng lòng với hiện trạng quá ư bất ổn của xã
hội loài người. Việc Gogol không thấy cần phải xóa bỏ chế độ nông nô và nhà
nước quân chủ chuyên chế ở nước ông là một biểu hiện điển hình. Bi kịch cá nhân
của Gogol còn ở chỗ ông đã đi từ một quan niệm quá cao về vai trò sứ mệnh của
nhà văn, cụ thể là sứ mệnh của chính ông ( ta nhớ lại đoạn ngoại đề trữ tình
nổi tiếng ở cuối tập một Những linh hồn chết) đến thái độ hồ nghi sâu sắc ích lợi của sự nghiệp sáng tác của
mình. Mong muốn tìm được một người hướng đạo tinh thần sáng suốt có thể giúp
ông vượt qua những mâu thuẫn, xung đột nội tâm, ông đã tự chọn một giáo sĩ (cha
Matvei Konstaninovski) có tầm nhìn quá hạn hẹp, không yêu mến văn chương và
không cảm thông với nhu cầu sáng tác ở một thiên tài như Gogol. Tất cả cái đó,
cùng nhiều nguyên nhân khác, đã dẫn đến cái kết cục bi đát của đường sáng
tác và đường đời Gogol mà chúng ta đều biết.
Bi kịch của Gogol tuy vậy không
mang tính cá biệt và đơn nhất. Nó đã thu hút vào trong nó nhiều mâu thuẫn sâu
sắc của thời đại mới của lịch sử thế giới, mà đặc trưng nổi bật là sự phân hóa
đời sống xã hội thành rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác biệt, mỗi lĩnh vực theo
đuổi những mục đích riêng rất nhiều khi trở nên tự thân, mà không có một trung
tâm tích hợp chung, bảo đảm ý nghĩa nhân loại thực thụ cho mọi hoạt động con
người. Cuộc khủng hoảng sáng tác triền miên của Gogol dường như báo trước tình
trạng bế tắc chung, trong sự phát triển phong phú đa dạng, của văn học-nghệ
thuật thế giới thế kỷ vừa qua - nó đã và đang ngày một mất đi cái vị trí cao
quý và thiết yếu xưa kia của nó trong đời sống nhân loại. Một trong những người
đã nhìn thấy sớm nguy cơ ấy là Lev Tolstoi - ông gọi Gogol, tác giả Trích thư từ gửi bạn bè, Gogol im lặng tu hành tại gia trong năm năm cuối đời là một
Pascal của nước Nga. Giữa số phận của Pascal với số phận của Gogol quả thật có
nhiều nét tương đồng giàu ý nghĩa. Những tư tưởng minh triết của Pascal mãi hơn
hai thế kỷ sau khi ông qua đời mới bắt đầu thấm vào tâm thức của người châu Âu
vẫn quen ái mộ thiên tài khoa học và văn chương của ông. Cùng với sự có mặt đầy
hiệu năng của nhà văn Gogol trong văn học thế giới ngày nay, sự phát hiện Gogol
- nhà tư tưởng, với những anh minh và những hạn chế , những gì thuộc về tương
lai và những gì là của quá khứ nơi ông, hiện nay đang diễn ra sôi nổi ở nhiều
nơi, trước hết trên đất nước của ông, hứa hẹn đem lại cho những người yêu mến
nhà văn này nhiều nhận thức mới.
(*) Một số người ở Ucraina mang óc dân tộc hẹp hòi cho đến giờ vẫn
không tha thứ được cho Gogol cái “tội” này!
(*) Sự học tập này khó thấy hơn ở Kafka, nhưng ít nhất có thể nói về
những cú hích tuyệt vời mà tác giả Hóa hình và Lâuđài đã nhận được từ tác giả Cái mũi và Chiếc áo khoác. Kafka đọc đi đọc lại Gogol và Dostoievski và đã để lại cảm tưởng
về họ trong nhật ký của mình. Còn Akutagawa và Lỗ Tấn thì công khai thừa nhận
đã chịu ảnh hưởng tác thành của Gogol. Họ không ngần ngại mượn tên hai truyện
của nhà văn Nga để đặt cho hai tác phẩm đầu tay xuất sắc của mình: Cái mũi(Akutagawa), và Nhật ký người điên (Lỗ Tấn). Như ta biết, Lỗ Tấn hâm mộ Gogol đến nỗi cuối đời, đã là
nhà văn số một của Trung Hoa mới, ông đã bỏ nhiều công sức để dịch lại Những linh hồn chết và Cái mũi ra tiếng Trung Quốc.
(*) Nếu những hình tượng ăn uống ở nhà văn hào này quả đòi hỏi những
khảo cứu chuyên sâu, thì Mê cung tình dục của Nikolai
Gogol (tên một công trình hàn lâm của học giả
Mỹ S.Karlinsky) quả là sản phẩm của những hư cấu tùy tiện và thô thiển, được
che đậy bằng hệ thuật ngữ khoa học.
(*) Gần nhất về thời gian với thiên truyện của Gogol, hình tượng
Philémon và Baucis được Goethe làm sống lại trong bi kịch Faust (Phần II, hồi 5). Ở đây, tổ ấm
xây dựng suốt đời của cặp vợ chồng nông dân lý tưởng này đang bị đe dọa phá hủy
do ý chí chinh phục thiên nhiên cuồng say của Faust.
(*) Dưới ánh sáng mỹ học tiếp nhận, sẽ là lý thú so sánh Nhật ký người điên của Gogol với truyện cùng tên của Lỗ Tấn, nhưng việc ấy đã vượt ra
khỏi nhiệm vụ của bài viết này.
(*) Chúng tôi đành phải dịch từ “Poshlost” trong tiếng Nga thành ba từ
Việt. Nabokov cũng không tìm được một từ tương đương trong tiếng Anh.
(*) Bản dịch tiếng Việt hiện hành nhiều chỗ đã bào văn phong Gogol cho
đỡ gồ ghề và nội hóa hình tượng nhân vật. Thí dụ, câu vừa dẫn được dịch như
sau: “Khi cảm thấy dạ dày đã đầy, bác đứng dậy...”.
(*) Cuộc “phong thần” này là hết sức thiết yếu đối với tác phẩm, để
nối lại mối quan hệ bị cắt đứt có dụng ý giữa nó với thánh truyện làm “cổ mẫu”
cho nó, giữa Akaki - con người tha hoá, với Akaki - con người hiển thánh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét