Hoài
Thanh
Do
ảnh hưởng của Thi nhân Việt Nam quá lớn, người ta thường chỉ
nói đến nhà phê bình văn học lỗi lạc Hoài Thanh mà quên rằng ông còn là nhà lí
luận văn học xuất sắc bậc nhất của thế kỉ XX.
Hoạt
động lí luận của Hoài Thanh chủ yếu diễn ra trong khoảng bốn, năm năm từ 1935
đến1939, thời gian tuy không nhiều nhưng đã để lại một ấn tượng và thành tựu
đáng nhớ của thế kỉ. Ông không chỉ là người khởi xướng và tham gia vào cuộc
tranh luận nghệ thuật có tầm vóc to lớn nhất trong thế kỉ, mà còn là đề xướng
nhiều tư tưởng văn học tiến bộ để lại những trang văn sâu sắc và tinh tế có
tính chất cổ điển.
Là
một nhà văn, cuộc đời của Hoài Thanh gắn bó sâu sắc với tiến trình văn học Việt
Nam trong quá trình hiện đại hoá đầu thế kỉ XX, là nhân vật xuyên qua hai giai
đoạn văn học hiện đại Việt Nam và ở giai đoạn nào ông cũng có những đóng góp
quan trọng cho sự nghiệp văn học của đất nước. Trong bài phát biểu ngắn này tôi
chỉ xin nói một điều, đó là: Hoài Thanh là người đầu tiên khẳng định bản chất
thẩm mĩ của văn học, một yêu cầu hàng đầu của tính hiện đại.
Trước
khi trở thành nhà phê bình văn học nổi tiếng với Thi nhân Việt Nam (1941),
Hoài Thanh đã xuất hiện trên văn đàn như một nhà lí luận văn học, một người
viết tiểu luận về nghệ thuật. Những tiểu luận lí luận văn học được ông viết đều
đặn từ năm 1935 (12 bài), năm 1936 (cuốn Văn chương và hành động, 8 bài báo).
Từ năm 1939 ông chuyển dần sang viết phê bình văn học. Nhưng đáng tiếc là cho
đến nay nhắc đến Hoài Thanh trước 1945, ngoài nhà phê bình lỗi lạc, tinh tế,
hầu như ít người nghĩ rằng ông là nhà lí luận văn học, bởi họ vẫn còn ám ảnh
định kiến xem ông chỉ là người chủ trương một lí thuyết sai lầm là thuyết “nghệ
thuật vị nghệ thuật”, một đối tượng đáng phê phán của nhà văn cách mạng Hải
Triều! Cách nhìn nhận có tính chất áp đặt như thế đã xảy ra từ lâu và mặc dù
Hoài Thanh đã phản đối, nhưng vì một lối phê bình dựa theo công thức hơn là
xuất phát từ tình hình thực tế, người ta vẫn cứ quy ông vào phái “nghệ thuật vị
nghệ thuật” trong cuộc đối đầu mang nội hàm ý thức hệ. Ngày nay nhìn lại, ta
cần từ bỏ lối phê bình xuất phát từ các công thức có sẵn, mà xuất phát từ từng
trường hợp cụ thể, phân tích thấu đáo, nhìn nhận cho đúng mức thực chất tư
tưởng của từng người, trong đó có Hoài Thanh trước Cách mạng tháng Tám. Trên
thực tế Hoài Thanh không phải là người chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, mà
chỉ là người đi tìm đặc trưng của nghệ thuật, phân biệt nó với các loại hoạt
động xã hội khác mà thôi. Và ở đây vai trò đóng góp của Hoài Thanh về lí luận
lớn hơn nhiều so với người ta tưởng.
Giữa
lúc nhiều nhà văn có xu hướng bảo thủ như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học hay nhà văn
cách mạng như Phan Bội Châu đều chỉ nhấn mạnh tới chức năng giáo hoá, học thuật
của văn chương, mà thực chất là chưa phân biệt được đặc trưng văn học so với
các sáng tác học thuật và giáo huấn, thì Hoài Thanh lại quan tâm xây dựng lí
luận về đặc trưng của nghệ thuật, một vấn đề rất mới mẻ ở xứ ta. Trong bài báo Hai
cái quan niệm về vănchương (2.1935) và một số bài khác Thiếu Sơn cũng
đã sớm đề cập tới đặc trưng của văn nghệ, quan niệm của ông là quan niệm hiện
đại, chống lại quan niệm văn dĩ tải đạo và thực dụng cũ kĩ, nhưng còn thiếu hệ
thống và về sau lại chuyển sang bàn về đặc trưng của thể loại tiểu thuyết. Hoài
Thanh trái lại, không trích dẫn, nhưng ông đưa ra một quan niệm văn chương đã
được suy nghĩ có hệ thống. Ông bắt đầu từ mối quan hệ thẩm mĩ giữa văn học và
đời sống để lí giải văn học. Theo ông cuộc mưu sinh theo đuổi những lợi ích vật
chất, như tấm màn đen che mất tri giác con người với Thâm chân mà ông hình dung
như là thế giới của cái thật và cái đẹp, vì thế, nhiệm vụ tối cao của nghệ
thuật là “tìm những cái hay, cái đẹp, cái lạ trong cảnh trí thiên nhiên và
trong tâm linh người ta, rồi mượn câu văn, tấm đá, bức tranh, làm cho người ta
cùng nghe, cùng thấy, cùng cảm”. Nghệ thuật không chỉ đi tìm mà còn sáng tạo:
“tạo ra sự sống, tạo ra những thế giới khác, những người, những vật khác”. Sáng
tạo một thế giới sống khác không có trong đời thực mới là thiên chức của nghệ
sĩ. Mà muốn thế nhà văn trước hết phải có tài. “Vì nếu không sẵn sàng có tài,
có tính do thiên nhiên phú bẩm thì không sao tìm được những lời có âm hưởng
trong lòng người ta”. Ông tỏ ý “muốn cho cái tài một địa vị danh dự” và cực lực
chống lại sự “khinh thường”, “kiềm chế và vùi dập cái điều đáng quý nhất ở đời
là cái tài”. Đã thừa nhận tài năng thì phải thừa nhận vai trò của cá nhân và cá
tính của nhà văn. Giống như Montaigne, ông nói: “Cây trên rừng muôn ngàn lá
không có hai lá giống nhau. Trong rừng người cũng vậy, chưa từng thấy hai người
hình dung giống hệt như nhau”. “Nhà văn không có phép thần thông để vượt ra
ngoài thế giới này, nhưng thế giới này trong mắt nhà văn phải có một hình sắc
riêng”. Phải có cái hình sắc riêng thì mới có nghệ thuật phong phú. Hoài Thanh
đã khẳng định một cách mạnh mẽ: “Một dân tộc khinh miệt cá nhân, không biết đến
cá nhân, không thể có được một nền văn chương phong phú là sự tất nhiên vậy”.
Mà muốn cho các yếu tố ấy được phát huy thì phải đề cao tự do và thành
thực. Hoài Thanh đã nói một cách dứt khoát: “Tự do và thành thực, hai
điều kiện cốt yếu để dựng nên một nền văn chương phong phú”. Đúng như vậy,
có tự do mới có thành thực, mà có thành thực thì mới phát hiện được điều gì khả
dĩ thực sự mới mẻ. Vì vậy ông nói: “Hai chữ thành thực, ta sẽ cho nó một địa vị
danh dự trong quan niệm văn chương”. Văn chương mà không thành thực thì không
còn gì để nói cả. Ông quan niệm: “Nếu bây giờ ta muốn cho văn chương ta ngày
một thêm phong phú, cần nhất phải để cho nhà văn đuợc tự do”. “Chúng tôi muốn
dư luận hết sức rộng rãi với nhà văn… Rộng rãi nghĩa là không bắt buộc nhà văn
phải bó mình trong một đạo đức, một tôn giáo hay một đảng phái”. Điều này ngày
nay có vẻ khó được chấp nhận, song xét riêng về phương diện đặc trưng nghệ
thuật thì nó rất cần thiết. Tìm hiểu đặc trưng văn chương, Hoài Thanh muốn xây
dựng cơ sở cho phê bình, thưởng thức văn học đúng theo đặc trưng của nó. Ông
viết: “Khi thưởng thức một tác phẩm của nghệ thuật, lẽ cố nhiên phải để nghệ
thuật lên trên”. Hoài Thanh có quan niệm rõ ràng về tác dụng thẩm mĩ của nghệ
thuật đối với tinh thần con người và ông khẳng định: “Nhà nghệ sĩ có thể có ảnh
hưởng lớn lắm vậy”. Có thể nói vào thời điểm của những năm ba mươi thế kỉ XX,
khi xã hội Việt Nam chưa thoát khỏi quan niệm văn học phong kiến, xu hướng bảo
thủ còn nặng nề, thì đó là một quan niệm văn học khá sâu sắc và toàn diện. Nó
có tính chất khai sáng, có tính phản phong, phản đế, nó tiếp thu bao nhiêu tinh
hoa tiến bộ của lí luận văn nghệ dân tộc và thế giới đương thời. Quan niệm văn
học của Hoài Thanh tiêu biểu cho tư tưởng hiện đại hoá văn học đương thời, là
phát biểu sáng tỏ nhất cho tính hiện đại của văn học đương
thời.
Chính
từ quan niệm văn chương đó mà Hoài Thanh đã đứng lên phê phán quan niệm nghệ
thuật vị nhân sinh của Hải Triều thể hiện trong bài phê bình cuốn truyện Kép
Tư Bền của Nguyễn Công Hoan. Phải nói ngay rằng khẩu hiệu văn học vị
nhân sinh gắn liền với nội dung văn học bình dân, với chủ nghĩa hiện thực. Có
thể nói Hải Triều đã tổng hợp các tư tưởng đó để nêu ra khẩu hiệu nghệ thuật vị
nhân sinh của ông. Nghệ thuật vị nhân sinh mà Hải Triều nêu ra cũng là một yêu
cầu thiết yếu của tính hiện đại, song đáng tiếc cuộc đấu tranh ý thức hệ đã đem
đối lập hai nội dung hiện đại ấy với nhau, tạo thành những tính hiện đại phiến
diện mà phải hơn nửa thế kỉ sau chúng ta mới thấy rõ là cần thống nhất chúng
lại với nhau.
Hoài
Thanh, là một người tuy có tâm lí ghét lí luận nhưng lại có tư duy lí luận sắc
bén, không phải là một chuyện ngẫu nhiên, mà vì ông muốn tìm quy luật của hoạt
động văn nghệ, muốn làm học thuật, Hoài Thanh muốn nhận rõ đặc trưng nghệ thuật
trong tương quan với các lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Ông quan niệm “Cái đặc
tính của sự tiến hoá về tư tưởng là biết phân biệt” (T.Đ.S. nhấn
mạnh), tức là nhận thức được tính đặc thù, đặc trưng của các hoạt động tinh
thần của con người, trong đó có nghệ thuật. Trong một bài đáp lại Hải Triều,
Hoài Thanh có nói rõ: “Tôi nhận rằng một quyển sách có tính cách văn chương vẫn
có thể đèo thêm nhiều tính chất khác nữa như chính trị, xã hội, đạo đức, tôn
giáo… Tôi chỉ muốn người ta phân biệt các tính cách ấy (T.Đ.S.
nhấn mạnh, hai chữ tính cách ở đây chính là cái “đặc trưng” như ngày nay ta
nói) ra và trong lúc xét quyển sách về phương diện nghệ thuật, phải để ý đến
tính cách khác”. Theo chúng tôi, chính sự quan tâm tính đặc thù – “sự phân
biệt” đã thúc đẩy Hoài Thanh viết bài Văn chương là văn chương để
phê bình Hải Triều chứ không phải vì một lí do nào khác. Ngày nay chúng ta
không thể không đồng ý với Hoài Thanh: “Một cái đầu đề của tôi: Văn
chương là văn chương với mấy chữ: nghệ thuật vị nghệ thuật đã
khác xa rồi”. Một đằng nêu cứu cánh của nghệ thuật, một đằng nêu đặc trưng của
nghệ thuật, phân biệt với các hình thái hoạt động khác. Sau đó, khi kết thúc
quyển Văn chương và hành động, trong mấy dòng Kết
luận ông viết: “Chúng tôi nhận rằng nhà văn cũng phải hành động như
mọi người: hành đông bằng việc làm và hành động bằng ngòi bút. Nhưng đến đây
cần phải phân biệt: người ta có thể viết những điều không có tính cách văn
chương, và trái lại. Chính ở chỗ “trái lại” này chúng tôi muốn nhà văn được tự
ý”. Thế là đã rõ, nhà văn muốn hành động bằng văn chương thì phải tôn trọng
tính đặc thù của văn chương. Đó là tính thẩm mĩ, tính sáng tạo, cá tính, sự tìm
tòi hình thức, sự thành thực và tự do. Không phải ngẫu nhiên mà nếu như bỏ được
các định kiến, thì ta sẽ thấy Hoài Thanh là nhà văn đã để lại nhiều ý kiến hay
bậc nhất về đặc trưng văn học nghệ thuật vào thời ấy. Mỗi ý kiến của ông đều là
kết quả của sự thể nghiệm và nghiền ngẫm sâu sắc. Chẳng hạn ông viết: “Không! Văn
nghệ không làm – hay không phải chỉ làm công việc một tấm gương”. Một ý kiến
tưởng như vừa phát biểu vào thời kì Đổi mới năm 1986! Hoặc như những câu sau
đây: “Điều cốt yếu trong văn chương là tinh thần sáng tạo, là tự do, là không
ngờ, là linh động, là sống vậy”. “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không
có, luyện những tình cảm ta sẵn có; cuộc đời phù phiếm và chật hẹp của cá nhân
vì văn chương mà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm nghìn lần”, “Người ta
có thể vượt ra ngoài giai cấp mình. Một người không ăn cắp bao giờ vẫn có thể
thích nghe nhà văn kể chuyện một thằng ăn cắp. Vì thằng ăn cắp khi đã đưa vào
trong một tác phẩm nghệ thuật, nó không còn là thằng ăn cắp nữa, nó là Người
(chữ Người viết hoa) và có tính cách vĩnh viễn”. Điều này trước đây nói ra sẽ
bị gây nhiều phiền phức vì “tính người chung chung”, song ngày nay ai cũng thấy
có biết bao sự thật văn học của nhân loại chứng minh cho nó! Về tác động thẩm
mĩ của văn học ông viết: “Có kẻ nói từ khi các thi sĩ ca tụng cảnh núi non, hoa
cỏ, núi non, hoa cỏ trông mới đẹp; từ khi có người lấy tiếng chim, suối chảy
làm đề ngâm vịnh, tiếng chim, tiếng suối nghe mới hay. Lời ấy tưởng không có gì
quá đáng” Kẻ nói đây thiết nghĩ là Oscar Wild. Chúng ta còn có thể trích ra
nhiều câu như thế nữa. Phân biệt tính cách văn chương và tác dụng thẩm mĩ của
văn học là một ý tưởng lí luận quan trọng của Hoài Thanh trước năm 1945. Và các
nhận thức của ông về đặc trưng văn học như tính cách đẹp, hình thức đặc thù, sự
thể hiện của tài năng, tinh thần sáng tạo, tính cá nhân, cá tính, đòi hỏi một
sự thành thực và môi trường tự do, phân biệt văn học với báo chí (thông tấn)
phải nói là những nhận thức đúng đắn về lí thuyết. Sự phát triển tiếp theo của
lí luận văn học phương Tây những năm 60, 70 thế kỉ XX về tính văn học, về hình
thức độc lập (như hình thức trần thuật), khép kín (hệ thống kí hiệu riêng),
tính sáng tạo của nghệ thuật… đều đã xác nhận tính đúng đắn của những tiên liệu
đi trước thời gian của Hoài Thanh. Ngày nay chúng ta có thể và cần lấy đó làm
một điểm xuất phát để phát triển lí luận văn học hiện đại của chúng ta. Đó là
những điểm thiết nghĩ không nên quy vào cái ô nghệ thuật vị nghệ thuật để
phủ nhận, tự làm nghèo truyền thống lí luận văn học Việt Nam vốn không lấy gì
làm phong phú.
Xét
từ phương diện này, cuộc tranh luận giữa Hoài Thanh và Hải Triều có phần không
phải là sự đối đầu giữa nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, mà
trước hết là sự đối lập giữa hai cách tiếp cận trong phê bình: một bên nhấn
mạnh tính đặc thù, một bên nhấn mạnh sự phụ thuộc của văn học vào xã hội, chức
năng xã hội, chính trị của văn học. Nếu tỉnh táo nhìn nhận thì đó sẽ là hai
quan niệm bổ sung cho nhau, tạo thành một quan niệm toàn diện về nghệ thuật. Sự
thắng thế của Hải Triều tuy đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh xã
hội, song tiềm ẩn một nguy cơ nghiêm trọng là chủ nghĩa công lợi thực dụng, chủ
yếu chỉ coi trọng nội dung xã hội, chính trị, coi nhẹ hình thức và đặc trưng
nội dung của văn nghệ, một khuynh hướng tồn tại kéo dài trên nửa thế kỉ và cho đến
ngày nay chưa thể nói là đã được giải quyết hài hoà. Nguy cơ ấy không thể nói
là không có ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng nghệ thuật của sáng tác.
Khẳng
định quan niệm sâu sắc của Hoài Thanh về đặc trưng văn chương nghệ thuật, không
có nghĩa là xoá bỏ những hạn chế, thậm chí sai lầm trong quan niệm văn học của
ông. Định nghĩa của ông về nghệ thuật là “Đi tìm cái đẹp trong tự nhiên” cũng
rất hạn hẹp. Quả đúng “Văn chương là văn chương”, nó có tính độc lập, nhưng
“thuần tuý” thì không, bởi nó phải hướng về xã hội, đem những tư tưởng xã hội,
lịch sử, chính trị, luân lí, đạo đức, triết học biến thành máu thịt hữu cơ của
mình. Nếu nghệ thuật chỉ hướng tới cái đẹp thuần tuý mà toàn bộ cuộc sống nhiều
mặt của con người bị mờ nhạt thì còn đâu sức hấp dẫn? Có thể nói quan niệm văn
học của Hoài Thanh ở đây đã chịu ảnh hưởng ít nhiều của chủ nghĩa duy mĩ. Vào
thời ấy Hoài Thanh không đơn độc trong quan niệm của mình. Nguyễn Tuân, Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên… đếu có quan niệm ấy. Quan niệm phân biệt văn học với báo chí của
Hoài Thanh căn bản là đúng. Sau này, khi đã trải qua thời gian dài thể nghiệm
loại thơ phản ánh hiện thực “chân chân chân, thật thật thật”, nhà thơ Xuân Diệu
đã giác ngộ ra và đã nêu lại sự phân biệt thơ ca và thông tấn trong bài tiểu
luận nổi tiếng Lượng thông tin và những kĩ sư tâm hồn ấy. Tuy
nhiên Hoài Thanh đã đối lập văn học và báo chí một cách quá ư tuyệt đối, hầu
như không thể dung hoà giữa cái nhất thời và cái vĩnh viễn, xem nội dung xã hội
của văn học chỉ có tính cách phụ, và nhà văn nếu hướng tới hiện thực chỉ là sự
tình cờ. Ở đây không thể nói là không có ảnh hưởng của quan niệm ảo tưởng về
“văn học thuần tuý”. Thật khó tán thành với Hoài Thanh khi ông cho rằng, khi
nhà văn “bênh vực kẻ yếu, chống lại với sức mạnh của tiền tài của súng đạn” thì
lúc đó nhà văn không làm văn nữa mà “chỉ làm cái phận sự một người cầm bút mà
thôi”. Vậy biết bao thơ của Đỗ Phủ, của Nguyễn Du chỉ là thơ của người cầm bút
hay sao? Thơ văn đâu chỉ “khiến cho khách giang hồ quên những nỗi nhọc nhằn mà
trong chốc lát hưởng những phút say sưa” mà còn hun đúc chí khí, tâm hồn con
người, giúp họ cảm được những nỗi đau thương thành thực của loài người như
chính Hoài Thanh đã không ít lần nhắc đến. Cái quan niệm xem mối quan hệ
chính trị, đạo đức, tôn giáo với nghệ thuật chỉ là quan hệ “tình cờ” cũng không
phù hợp với thực tế văn học xưa nay. Mặc dù đây đó còn phiến diện, ảo tưởng và
mâu thuẫn, song Hoài Thanh vẫn là nhà lí luận Việt Nam đầu tiên nêu ra một cách
sâu sắc vấn đề đặc trưng, bản chất thẩm mĩ của văn học, một vấn đề cốt tử của
lí luận văn nghệ mà đời sau vẫn phải còn tốn nhiều công sức và tâm huyết mới
mong giải quyết. Cuộc tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật với nghệ thuật vị
nhân sinh” tất nhiên vẫn còn trong lịch sử văn học như một cuộc biểu dương quan
niệm Mác xít trong văn nghệ, chuẩn bị cho những bước phát triển về sau của quan
niệm văn nghệ cách mạng, và Hoài Thanh vẫn có những điểm để người ta liên hệ
ông với chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật, song xét về thực chất, sự mâu
thuẫn của Hoài Thanh với Hải Triều qua những bài tranh luận đương thời chủ yếu
chỉ là mâu thuẫn của hai cách tiếp cận đối với văn học. Lịch sử hiện đại đã cho
thấy nhiều cuộc tranh luận văn học đã bị chính trị hoá, làm che lấp mất hạt
nhân học thuật của nó, phải một thời gian rất lâu sau người ta mới nhận ra. Nếu
nhìn kĩ về mặt học thuật ta sẽ thấy cả hai khẩu hiệu đều có ưu điểm và khuyết
điểm. Quan điểm vị nhân sinh thấy được mối liên hệ khăng khít giữa văn học
với cuộc sống, song nó dễ dàng rơi vào chủ nghĩa thực dụng, coi nhẹ đặc trưng
văn nghệ. Ngược lại quan điểm vị nghệ thuật tuy nhận rõ đặc trưng văn nghệ, coi
trọng tính độc lập của văn nghệ, song nó lại dễ dàng thoát li hiện thực. Vì thế
không nên xem quan niệm nghệ thuật vị nhân sinh là quan niệm tuyệt đối đúng và
hoàn toàn khoa học. Bởi vì suy cho cùng cái gì mà chẳng vị nhân sinh? Hoài
Thanh là người có khuynh hướng học thuật. Trong bài báo Vấn đề học
thuật nước ta chỉ là một vấn đề tâm líviết năm 1936 Hoài Thanh đã nêu rất
cao vấn đề học thuật, tuy có phần cực đoan. Ông viết: “Nếu dân tộc này không
bao giờ tự mình dựng lên được nền học thuật thì chẳng nói hai mươi triệu, có
đông đến hai trăm triệu cũng là một dân tộc bỏ đi, một dân tộc không có tên
trong pho lịch sử văn minh loài người”. Điều kiện để có một nền học thuật ông
viết: “Về học thuật cũng vậy. Nếu ta đặt cho học thuật một cái mục đích ngoài
học thuật thì chẳng nên mong gì chuyện thành đạt”.Có thể xem đó như một lời
nhắn lại cho những ai còn tha thiết với nền học thuật nước nhà, rằng nếu đồng
nhất học thuật với những vấn đề chính trị, ý thức hệ thì sẽ làm mất đi khả năng
giải quyết và đánh giá đúng các vấn đề học thuật.
Nguồn:T.c NCVH(8/2009)
Văn hóa Nghệ An
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét