Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014

Kể chuyện về nhạc sĩ Su-be

Kể chuyện về nhạc sĩ Su-be

Phrăng Su-be (1797-1828) - nhạc sĩ người Áo - là thiên tài âm nhạc ở thế kỉ 19. Ông là người mở đường cho sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn trong âm nhạc. Trong cuộc sống ngắn ngủi của mình (ông mất khi 31 tuổi), Su-be đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ở các thể loại: giao hưởng, Sô-nát, nhạc kịch, ca khúc... Riêng lĩnh vực ca khúc, Su-be viết hơn 600 tác phẩm, vì thế ông được mệnh danh là  “Ông vua ca khúc”.
Phrăng Su-be sinh ngày 31.1.1797 ở vùng Lich-ten-tan ngoại ô thành Viên trong một gia đình nhà giáo đông con, am hiểu âm nhạc. Từ nhỏ, Su-be đã có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc và hiểu biết sâu sắc về nền âm nhạc châu Âu.
Trong gia đình, Phrăng Su-be học chơi đàn violon và piano qua người cha và người anh cả. Về sau, nhạc sĩ - nhà chỉ huy hợp xướng Xôn-xe tiếp tục dạy Su-be chơi đàn và truyền thụ cho cậu những kiến thức về sáng tác âm nhạc. Cũng thời gian này, những sáng tác đầu tay của Su-be đã ra đời. Năm 1812, theo ý nguyện của gia đình, Su-be học trường sư phạm Côn-vin ở Viên. Lúc bấy giờ, thành Viên là thủ đô của nền âm nhạc thế giới. Các nhạc sĩ lớn thường đến đây để biểu diễn trong những phòng hoà nhạc sang trọng. Ngoài việc học kiến thức văn hoá, Su-be còn thường xuyên tiếp xúc với không khí âm nhạc của thành Viên qua sáng tác của các nhạc sĩ đi trước như Hay-đơn, Mô-da, Gơ-luých, Bét-tô-ven... Anh tham gia trong dàn nhạc học sinh, đôi khi còn chỉ huy dàn nhạc và là thành viên của dàn hợp xướng. Nhạc sĩ Ru-gi-ca là người đã nhận ra tài năng của Su-be và đưa khả năng sáng tác của Su-be được phát triển toàn diện. Trong thời gian này, Su-be đã sáng tác nhiều bản nhạc có giá trị.
Năm 1815, Phrăng Su-be tốt nghiệp trường Côn-vin, khi đó anh đã là tác giả của nhiều tác phẩm như khúc Phăng-tê-di cho piano, bốn bản U-véc-tuya, những tứ tấu và nhiều ca khúc.
Sau khi có bằng sư phạm, Phrăng Su-be làm giáo viên dạy môn toán cho một trường Tiểu học. Ngoài lúc đi dạy học, anh dành hầu hết thời gian rảnh rỗi để sáng tác âm nhạc. Chính niềm say mê sáng tác đó đã tạo nên đổi thay trong cuộc đời nhạc sĩ.
Một buổi sáng, Phrăng Su-be vừa đi vừa nhẩm một giai điệu âm nhạc. Trong giấc ngủ chập chờn đêm qua, khi cảm nhận được một nét nhạc thoáng qua, anh liền thức dậy và ghi nó lên bìa một cuốn sách trên bàn. Giờ đây giai điệu đó đang vang lên trong đầu, khiến Su-be cảm thấy rất phấn chấn trên đường đến trường.
Vào lớp học, Phrăng Su-be nhắc lũ trẻ chuẩn bị sách vở môn toán để thực hiện một vài bài tập, anh cầm sách lên và định chép đề bài lên bảng. Giai điệu trên bìa sách hiện lên trước mắt Su-be, anh lẩm nhẩm khẽ đọc nó và chợt nghĩ, mình phải phát triển giai điệu này. Và thế là thay việc chép bài tập toán lên bảng, Su-be lại kẻ khuông nhạc và viết những nốt nhạc lên đó.
Lũ học trò nhỏ rất ngạc nhiên khi thấy thầy giáo dạy toán bỗng dưng kẻ khuông nhạc và mải miết ghi chép. Đầu tiên chúng yên lặng và tò mò nhìn người thầy giáo trẻ, rồi một vài đứa bắt đầu phá lên cười. Lát sau, những đứa nghịch ngợm tung cặp sách, trèo lên bàn mà hò reo. Nhưng dường như Su-be không nghe thấy gì, tâm trí anh đã hoàn toàn bị cuốn hút vào bản nhạc.
Nghe tiếng cười đùa, la hét, ông hiệu trưởng đang ngồi trong phòng mình vội đi ra cửa. Ông thấy một số đứa bé từ lớp học chạy ra chạy vào, đuổi nhau dọc hành lang. Vội tới lớp này, nhìn qua cửa sổ, ông vô cùng ngạc nhiên khi thấy thầy giáo dạy toán Su-be đang mê mải chép nhạc trên bảng, lớp học thì vô cùng ồn ào, lộn xộn. Lại gần, ông kêu lên: “Thầy Su-be, ông đang làm gì vậy?”. Su-be giật mình quay ra, ngỡ ngàng vì sự có mặt của ông hiệu trưởng, anh bối rối và vội xoá những nốt nhạc chi chít trên bảng.
Cuối buổi học, Su-be được mời lên phòng hiệu trưởng, và thật đáng buồn, anh đã phạm phải một điều không thể tha thứ. Anh bị  nhà trường cho thôi việc.
Sự việc này đã làm gia đình Su-be, đặc biệt là người cha rất thất vọng. Để tránh không khí căng thẳng trong gia đình, Su-be theo một người bạn vào thành Viên. Anh tìm được công việc mới, đó là chơi đàn piano vào buổi tối cho quán rượu Hoàng hôn. Ban ngày, Su-be ở nhà trọ và sáng tác âm nhạc. Tối tối, anh đến quán chơi đàn phục vụ những vị khách cho đến tận đêm khuya bằng chính những bản nhạc của mình. Khách đến quán Hoàng hôn không phải là những người sành âm nhạc, họ không thấy tài năng trong những sáng tác của Phrăng Su-be .
Cho đến một buổi tối, có vị khách ghé vào quán Hoàng hôn, ông ta trông sang trọng và khá đặc biệt. Những bản nhạc mang phong cách sáng tạo mới mẻ của chàng thanh niên ngồi chơi piano đã thu hút sự chú ý của ông ta. Anh chàng đeo cặp kính cận có dáng thật hiền lành, ẩn sau cặp kính là đôi mắt sáng đầy vẻ chân thành. Lựa lúc Su-be ngừng chơi đàn, vị khách lại gần và giới thiệu mình là Hen-rích - một bá tước sống ở Man-hai-mơ, ông nhã nhặn đưa danh thiếp và mời Su-be ghé thăm nhà mình khi có dịp. Su-be cám ơn và nhận lời.
Ít ngày sau, Phrăng Su-be đến lâu đài của bá tước. Qua chuyện trò, Su-be thấy Hen-rích là một người am hiểu về âm nhạc. Anh trình bày những sáng tác mới của mình, Hen-rích chăm chú nghe và cho rằng, cách sáng tác của Su-be dường như đang hình thành một hướng đi mới trong âm nhạc. Đặc biệt, ông rất thích một bản nhạc Su-be mới sáng tác và có dự định viết thành bản giao hưởng. Bá tước cũng cho biết, ông sắp khánh thành phòng hoà nhạc trong lâu đài. Nhà quí tộc mời Su-be đến trình diễn bản nhạc này và Su-be đã đồng ý.
Trong phòng hoà nhạc tại lâu đài của bá tước Hen-rích, nhiều nghệ sĩ tên tuổi có mặt và trình diễn những tác phẩm đang được ưa chuộng. Lát sau, bá tước đứng lên giới thiệu về một sáng tác mới của chàng trai trẻ tên là Phrăng Su-be. Cúi chào mọi người, Su-be ngồi vào đàn, đặt bản nhạc trước mặt và chơi những nốt đầu tiên. Bản nhạc gồm 4 chương, Su-be trình bày chương I với nhiều sự mới mẻ, táo bạo. Chương nhạc này không mang phong cách của trào lưu âm nhạc thời bấy giờ, khi chủ nghĩa cổ điển đang chiếm ưu thế. Gian phòng chìm trong sự tĩnh lặng, bản nhạc dường như đã chinh phục được ngay cả những người khó tính và sành nhạc nhất. Dưới những ngón tay của Su-be, dòng âm thanh như đang tuôn trào, những giai điệu chứa đầy cảm xúc sâu sắc, những nỗi dằn vặt, những niềm lạc quan và cả những ước mơ cháy bỏng được diễn tả hết sức tinh tế.
Khi Phrăng Su-be đang chơi chương II của bản nhạc thì cửa phòng bật mở, một vị khách bước vào. Đó là một cô gái trẻ xinh đẹp. Cô mặc một bộ đồ đi ngựa, mang chiếc mũ rộng vành và vẫn cầm chiếc roi da trên tay. Một cô gái quí phái và đầy vẻ tự tin. Vị khách đến muộn không ngồi ở hàng ghế sau, cô ngẩng cao đầu, kiêu hãnh bước đi giữa căn phòng, rồi ngồi xuống chiếc ghế còn trống phía sau Su-be. Sự xuất hiệncủa cô gái không làm Su-be chú ý. Tất cả tâm trí anh đang dồn vào bản nhạc, căn phòng vẫn chìm trong tiếng nhạc êm đềm, mọi người vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng cô gái thì không chú ý đến điều đó. Quay sang người đàn ông ngồi bên cạnh, cô chỉ tay vào Su-be và hỏi: “Ai vậy? Thưa ngài!”. Người đàn ông nghiêng đầu khẽ đáp: “Su-be”.
Không hiểu vì cớ gì, cô gái cất tiếng cười. Phrăng Su-be thoáng nghe thấy sau lưng mình tiếng cười của một người phụ nữ. Thật là khiếm nhã, nhưng Su-be vẫn kiên nhẫn chơi tiếp khúc nhạc của mình trong tiếng cười chưa dứt. Để thể hiện sự khó chịu, Su-be bấm tay mạnh hơn xuống phím đàn, trong khi lẽ ra đây là khúc nhạc có sắc thái êm dịu. Trong phòng, những tiếng xì xào nổi lên, phản đối sự mất lịch sự của cô gái. Vẫn chưa đủ, tiếng cười tắt đi giây lát, rồi lại tiếp tục vang lên.
Lúc đó, Phrăng Su-be đã chơi hết chương II của bản nhạc. Dừng tay trên phím đàn, ngồi thẳng người, mắt nhìn phía trước, anh không hề quay lại để xem ai là người đã làm dang dở khúc nhạc của mình. Su-be cố gắng chờ đợi thêm giây lát nhưng tiếng cười vẫn không sao dứt được. Bực mình, anh gập bản nhạc lại, đứng lên và bước ra khỏi phòng. Bá tước Hen-rích rảo bước theo, ông nói với vẻ mặt của người có lỗi: “Xin thứ lỗi, Su-be, đó là cháu gái tôi, Ca-ren. Anh hãy ở lại, tôi sẽ bảo nó sang phòng khác”. Nhưng Su-be đã khước từ và xin phép cáo lui.
Sau sự việc này, Phrăng Su-be lại trở về với việc chơi đàn tại quán Hoàng hôn. Khoảng hơn một tháng sau, Su-be nhận được một lá thư gửi từ Hung-ga-ri. Đó là lời đề nghị của quận công Uy-lem, ông ta mời Su-be sang Hung-ga-ri làm gia sư, dạy âm nhạc cho hai người con của mình, kèm theo là lời đảm bảo về điều kiện sống, điều kiện làm việc và mức lương khá tốt so với thu nhập hiện tại của Su-be. Sau khi suy tính, Su-be nhận lời và viết thư hẹn sẽ thu xếp sang Hung-ga-ri.
Một cuộc hành trình dài bằng xe ngựa đã đưa Phrăng Su-be từ áo sang Hung. Anh đến thủ đô Bu-đa-pét vào một ngày mưa lạnh. Cỗ xe đưa anh tới một toà lâu đài sừng sững trên ngọn đồi. Người đánh xe cho Su-be biết đây là gia đình quí tộc rất giàu có và nhiều thế lực ở vùng này.
Quận công Uy-lem tiếp Phrăng Su-be trong phòng khách của lâu đài, sau khi sai người xếp phòng cho anh, ông giới thiệu với Su-be về hai người học trò tương lai của anh, đó là hai người con của ông - hai cô gái rất xinh đẹp, Ca-ren 18 và Sten-li 16 tuổi. Cái tên Ca-ren nghe quen quen, gợi cho Su-be nhớ tới cô gái đã làm dở bản nhạc khi anh biểu diễn trong lâu đài của bá tước Hen-rích. Su-be không biết rằng, thực ra đó không phải là sự tình cờ, sau khi nghe Su-be đàn tại lâu đài của người chú, cô gái đã yêu cầu cha mình mời Su-be sang dạy đàn cho hai chị em. Gặp Su-be tại nhà mình, Ca-ren đã không còn vẻ kiêu hãnh như lần trước. Cô khiêm nhường cúi chào Su-be, người gia sư mới trong gia đình.
Trong thời gian Phrăng Su-be làm gia sư cho gia đình quận công Uy-lem, anh cố gắng cư xử đúng mực và làm tốt mọi bổn phận của mình. Cô em Sten-li tỏ ra có năng khiếu âm  nhạc và học đàn rất tốt, còn Ca-ren thì không được như vậy, cô hay trêu đùa Su-be và cũng chểnh mảng khi tập đàn. Nhưng tuổi trẻ có những qui luật riêng của nó, cái gì đến sẽ phải đến. ít lâu sau, tình cảm giữa Su-be và Ca-ren không chỉ đơn giản là tình thầy trò nữa, giữa hai người đã nảy nở một tình yêu. Mối tình đầu với cả hai người, một nhạc sĩ trẻ người áo với cô gái quí tộc Hung-ga-ri, đó là tình yêu rất chân thành và trong trắng. Trong cảm xúc dâng trào của tình yêu đầu tiên, họ không biết che dấu tình cảm của mình. Quận công Uy-lem sớm nhận ra và không thể đồng ý với việc này. Con gái ông- Ca-ren - một cô gái quí tộc giàu có và xinh đẹp lại có thể yêu một anh chàng nhạc sư nghèo và chưa có tên tuổi được ư. Gia đình ông đang nắm giữ nhiều quyền lực, con gái ông phải kết hôn với một chàng quí tộc người Hung-ga-ri, con của một gia đình cũng giàu có và quyền lực như thế. Không cần suy nghĩ lâu, quận công Uy-lem quyết định không để Su-be tiếp tục dạy đàn cho hai cô con gái nữa. Và Su-be được mời ra khỏi lâu đài. Tuy nhiên, anh vẫn ở lại Bu-đa-pét.
Trong thời gian ở Hung-ga-ri, Phrăng Su-be đã nếm trải những sự ngọt ngào và cả những nỗi niềm cay đắng của mối tình đầu vô vọng. Anh vùi đầu vào sáng tác. Đôi khi anh cũng được gặp nàng, ấy là khi Ca-ren tự tìm đến. Thời gian này, Su-be sáng tác rất nhiều, trong đó có tập liên khúc Cô chủ cối xay xinh đẹp, phổ thơ của Sin-le với ý định tặng Ca-ren. Anh là  nhạc sĩ đầu tiên sáng tác thể loại liên ca khúc. Trong tập Cô chủ cối xay xinh đẹp, Su-be đã ví mình là anh thợ xay nghèo, làm thuê cho cô chủ xinh đẹp. Anh thợ xay thầm yêu cô chủ nhưng không được đáp lại. Còn chàng quí tộc người Hung-ga-ri, xuất hiện trong tập bài hát qua hình ảnh người thợ săn.
Thấy con gái mình vẫn còn lưu luyến với Phrăng Su-be, quận công Uy-lem cho người sang Áo, yêu cầu cha mẹ Su-be viết thư gọi con trai về. Su-be phải từ giã Ca-ren để trở về quê hương.
Ở Áo, Phrăng Su-be lại lao vào sáng tác để quên đi mối tình đầu. Thời gian này, Su-be hoàn thành bản giao hưởng số 8 - bản nhạc mà anh đã trình diễn lần đầu trong lâu đài của bá tước Hen-rích. Vài năm sau, Su-be nhận được một lá thư từ Hung-ga-ri, Ca-ren báo tin cô sắp lấy chồng và mời Su-be tới dự đám cưới. Là người sâu nặng với mối tình đầu, Su-be thu xếp đi Hung-ga-ri lần nữa.
Phrăng Su-be đến Bu-đa-pét lần thứ hai cũng vào một ngày trời mưa, buồn và lạnh lẽo. Anh xuống xe và dừng lại bên đường, nhìn những cỗ xe ngựa sang trọng từ nhà thờ đi ra. Đây là một đám cưới được tổ chức rất linh đình, bởi cả hai bên đều là những gia đình quí tộc giàu có. Ngồi trên xe cùng chồng, Ca-ren vẫn dõi ánh mắt xuống đường, cô mong được thấy bóng người yêu cũ - giờ đã là một nhạc sĩ tài năng. Bất chợt, cô thấy Su-be đứng ven đường giữa những người khác. Ca-ren yêu cầu dừng xe, cho người xuống mời Su-be lên cỗ xe khác để cùng tới lâu đài, nơi tổ chức đám cưới.
Giữa rượu, hoa và những lời chúc tụng, Ca-ren vẫn không giấu được nét u buồn, trên môi cô phảng phất một nụ cười cay đắng. Cô lại gần Phrăng Su-be và nói:
- Nhiều năm trước, tôi đã một lần làm dang dở khúc nhạc của anh. Không hiểu anh có tha thứ cho tôi chưa? Nhưng hôm nay trong ngày cưới của mình, tôi mong được nghe lại bản nhạc này lần nữa.
            Trước lời yêu cầu tha thiết của Ca-ren, Su-be đã cố gắng dẹp đi tâm trạng đau buồn. Anh ngồi vào đàn piano và dạo những nốt nhạc đầu tiên. Người ta nói âm nhạc có thể xoa dịu được những nỗi đau, nhưng không phải bao giờ cũng đúng. Đến chương II của bản nhạc, ở chỗ mà lần trước Ca-ren cất tiếng cười, thì lần này giữa dòng âm thanh dịu dàng đó, nhìn Su-be chơi đàn, bỗng nhiên cô khóc nức nở. Căn phòng lặng đi. Su-be vẫn lặng lẽ chơi đàn. Cô dâu vẫn khóc. Chú rể bước ra phía cửa sổ. Chẳng có một lời nào an ủi Ca-ren.
            Hết chương II, Phrăng Su-be dừng tay rồi yên lặng nhìn bản nhạc. Anh thầm hỏi liệu bản nhạc này có phải là nguyên nhân gây nên những xáo động trong cuộc sống của anh và nàng. Rồi Su-be đứng lên, chậm rãi cầm bản nhạc tách làm đôi, tay cầm chương III và IV mà đã hai lần bị bỏ dở. Ngập ngừng giây lát, anh tiến lại phía lò sưởi, đưa tập nhạc vào ngọn lửa. Nhìn ngọn lửa đốt cháy bản nhạc, Su-be thầm nghĩ có lẽ anh đã tự thiêu cháy nửa sau của cuộc đời mình, nửa sau của những ước mơ không có hi vọng trở thành hiện thực? Anh lặng lẽ rời khỏi căn phòng, chỉ mang theo hai chương đầu của bản nhạc. Su-be cô đơn đi giữa tuyết trắng và giá lạnh của đất nước Hung-ga-ri.
            Trở về Viên, Su-be tiếp tục hoàn thành những tác phẩm khác. Nhưng giao hưởng số 8 - bản nhạc dang dở - là định mệnh của cuộc đời ông. Bản giao hưởng này là kỉ niệm về mối tình đầu dang dở của Su-be. Bản nhạc rất hay, sâu sắc và thấm đượm tình yêu cuộc sống, nó là một tuyệt tác âm nhạc của Su-be. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau khi bản nhạc này được trình diễn lần đầu tiên, Su-be đã qua đời.
Phrăng Su-be mất ngày 19 tháng 11 năm 1828 tại Viên. Ông để lại một tài sản âm nhạc vô giá cho đời sau, với khoảng hơn 1500 tác phẩm, trong đó có 9 giao hưởng và hơn 600 ca khúc. Trên ngôi mộ của Phrăng Su-be, tấm bia được nhà thơ vĩ đại người áo là Glin-pac-xe đề tặng: “Thần chết đặt tại đây một kho tàng quí báu, nhưng quí báu hơn là những hi vọng tươi đẹp của ông”.

                              Theo http://www.music.edu.vn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người đàn bà bên kia sông

Người đàn bà bên kia sông Làng tôi nằm sát con sông Thương. Từ chân đê vào làng đi qua một con đường đất nhỏ, hai bên trồng phi lao, cắt q...