Người từ bên kia núi ấy trở về
KHUẤT BÌNH NGUYÊN
Nguyễn Đình Thi không có
cái may mắn của Tô Hoài. Đến lúc cuối đời có đủ thời gian tâm sự cởi mở một đời
văn chương. Một đời nghệ sỹ. Lại chiêu tuyết cho không ít người lăn lội cả đời
trong chốn bút nghiên.
Tháng 4-2013, Nguyễn
Đình Thi đã về cõi âm được 10 năm rồi. Người nghệ sỹ vào loại tài danh bậc nhất
thế kỷ 20 có bao nhiêu tâm sự đường đời, đường văn. Chắc là viết ra cũng nhiều
khúc đoạn trường lắm đây. Ở ông, tôi thấy có hai điều trăn trở lớn nhất đã day
dứt sau nhiều năm cầm bút, những điều thôi thúc sự nghiệp văn nghệ của ông.
Điểm xuất phát của sự trăn trở ấy không phải từ bản thân mình. Mặc dù ông là
một tài năng lớn. Nguyễn Đình Thi xuất phát điểm từ lịch sử đất nước mình, từ
truyền thống dân tộc mình. Ông nói: “Dân tộc Việt Nam ngoài lịch sử chống ngoại
xâm, dân mình còn nhạy cảm với bi kịch làm người”. Trong dòng chảy của hưng
vong đất nước, nền văn nghệ Việt Nam không thiếu tài năng. Nhưng “không có nhà
văn dẫn dắt cho loài người sống”. “Ta là ai đây. Ta có cái gì. Ta có thể đóng
góp cho nhân loại cái gì”. Điều thứ hai này, tôi cho rằng, thế kỷ 20 là sự kiểm
chứng gần nhất. Và đó là hai điều trắc ẩn phủ một khoảng sáng mênh mông đầy ám
ảnh toàn bộ thế giới tinh thần Nguyễn Đình Thi trên các lĩnh vực nghệ thuật,
trong đó có thi ca.
Lịch
sử thi ca 2000 năm sau công nguyên, người Việt mất hẳn đi 1000 năm đầu tiên
không có thi ca của riêng mình bằng chữ viết. 1000 năm tiếp theo đã có 900
năm thi ca Việt được viết bằng chữ Hán theo niêm luật của người phương Bắc và
viết bằng chữ nôm. Thứ chữ được xác âm định nghĩa trên tiết tấu của chữ Hán.
Mặc dù vậy, 9 thế kỷ ấy, Thi ca là khúc ca bi tráng chủ yếu được viết trên mình
ngựa chiến chống xâm lược, bảo vệ non sông và ấp ủ, hy vọng những nỗi niềm trắc
ẩn về bi kịch làm người, thấm đẫm chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa nhân văn.
Thiên niên kỷ thứ hai chỉ còn 100 năm mà cũng đã đủ mở ra và hoàn thiện một
cuộc cách mạng thi ca mau lẹ - Thơ ca viết bằng chữ quốc ngữ, chuyển tải sâu
sắc và đầy nhạy cảm cốt cách và tinh thần Việt Nam thời hiện đại. Nguyễn Đình Thi
là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của nền thơ ấy.
Nguyễn Đình Thi
tiêu biểu cho thế hệ trí thức trẻ giầu hoài bão lý tưởng đi cùng Cách mạng,
mang theo cả nền học vấn uyên bác và hiện đại vào những năm sục sôi lửa đạn
giữa lòng thế kỷ trước. Họ giống như những người khổng lồ của thời đại phục
hưng. Khát khao vì độc lập tự do của tổ quốc. Vì vậy ý kiến bảo Nguyễn Đình Thi
là người khách sang trọng của cuộc đời này chưa hẳn đã đúng. Ông đã dấn thân
vào cuộc Cách mạng của dân tộc với một lòng tin vào sự chiến thắng của chính
nghĩa. Và trước sau ông tự nguyện là người lính binh nhì của lịch sử.
Có
lần Nguyễn Đình Thi nói: “Tôi không phải nhà văn viết sau Cách mạng”. Ở lĩnh
vực thi ca thì đúng là ông chỉ viết sau Cách mạng tháng 8 thành công và những
năm đầu kháng chiến chống Pháp trở đi. Vào thời điểm sau Cách mạng tháng 8, hầu
hết các nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ Mới đều trải qua một sự nhận
đường mau lẹ về mặt tư tưởng như bất kỳ người Việt Nam nào. Từ thân phận nô lệ
của một đất nước chịu sự cai trị trực tiếp của ngoại bang trở thành công dân tự
do của nước nhà độc lập. Mặc dù vậy, các nhà thơ của phong trào Thơ Mới, không
dễ dàng thực hiện ngay những biến đổi trong sáng tạo thi ca. Trên phương diện
này, Nguyễn Đình Thi có thuận lợi hơn họ. Ông tham gia văn hóa cứu quốc từ năm
1943; Từng nghiên cứu triết học và những tư tưởng mới của Cách mạng trước khi
có cuộc Cách mạng. Nguyễn Đình Thi cùng Khuất Duy Tiến tham gia Quốc dân đại
hội tại Tân Trào tháng 7 năm 1945. Ông là đại biểu quốc hội khóa 1 của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946. Tôi thật bất ngờ khi biết chính con người
có khuôn mặt chữ điền điển trai như trang nam tử trong thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc
Tử lại đã từng giao súng ngắn cho nhạc sỹ Văn Cao đi diệt ác trừ gian thời tiền
khởi nghĩa. Nguyễn Đình Thi đã sớm đến với chính trị theo cách của người nghệ
sỹ. Cuối năm 1947, ông đã viết tiểu luận Nhận đường như một
định hướng chung cho anh em văn nghệ: “Tiếng súng kháng chiến nổ. Đường
chúng ta thật rõ ràng, tất cả cho kháng chiến, tất cả cho dân tộc”. Vì vậy
những năm đầu kháng chiến, trong khi các thi sỹ còn đang tìm đường cho sự đổi
mới thi ca; Có một số người đã tìm về với thơ ca dân gian. Nguyễn Đình Thi bằng
bản lĩnh và tài năng, trên đà thành tựu của thi ca thế kỷ 20, đã chủ trương và
sáng tác thơ không vần. Bây giờ, câu chuyện về thơ tự do không vần tưởng như xa
xôi, lung linh sương khói như hình ảnh chiếc áo trấn thủ của anh vệ quốc đoàn
thời ấy. Thế nhưng vào năm 1949, còn là quá sớm để thảo luận thơ không vần, thơ
Nguyễn Đình Thi. Bởi lẽ những thi phẩm của ông theo hướng này lúc đó chưa phải
là nhiều và theo cách nói của các nhà kinh viện, những sáng tác đó còn trong
giai đoạn thử nghiệm và chưa đến giai đoạn “chín” theo phương thúc trái cây và
mùa vụ. Xét trên phương diện ấy, Thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi làm
nổi sóng thi đàn mà không phải là “khoảng lặng của sự chuyển tiếp giữa hai nền
thơ mà giai điệu chính là cái tôi và cái ta”. Các bài thơ không vần đem ra thảo
luận lúc đó như Đường núi, Không nói, Sáng mát trong in trên
Văn Nghệ chưa là những bài thơ hay nhất… Phải đợi đến từ 1950 trở đi khi
có Quê hương Việt Bắc… thì cuộc thảo luận đã đi qua mất rồi. Vì
vậy, không ít những nhà thơ nổi tiếng và kể cả một số người làm công tác lãnh
đạo văn nghệ không thích đến mức muốn đuổi cổ thơ không vần ra khỏi thơ ca
kháng chiến. Thì cũng phải thôi. Truyền thống của thơ Việt Nam là thơ có vần.
Vần là một thế mạnh để xâm nhập vào số đông của người đọc Việt Nam vào thời
điểm đó. Nhưng lịch sử thi ca hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh điều Nguyễn Đình
Thi làm là đúng. Thơ không vần không phải văn xuôi. Càng không phải là lối văn
biến ngẫu cổ điển. Thơ không vần không bị ràng buộc lối bắt vần trong thơ ca cổ
điển hay dân gian, không theo vần theo kiểu thơ của phong trào Thơ Mới 1930-1945.
Thơ không vần của Nguyễn Đình Thi là những cảm xúc trữ tình cuốn theo nhịp điệu
của cuộc sống, tạo nên một giọng thơ với nhịp đi dõng dạc và hào sảng không lẫn
với ai được, nhất là khi ông dùng thể thơ 6 chữ xen lẫn những câu 7 chữ hoặc
ngắn hơn.
Lạng Sơn những đồi lộng gió
Những đêm vang tiếng cọp gầm
Sông Kỳ Cùng ào ào sóng đổ
Những ngày mải miết hành quân.
Đến những năm
cuối của thế kỷ 20, thơ không vần không phải là vấn đề tranh luận nữa. Đó là
thể thơ tự do, không bắt vần theo các thể thơ truyền thống mà xuất phát từ mạch
đập của đời sống, nhịp điệu thơ được hình thành một cách tự nhiên theo sự thăng
hoa của nội dung cảm xúc, đa dạng mà biến hóa, không hình thành vần thơ theo
kiểu cặp đôi 6-8 hay cách bắt vần trong thơ 7 chữ, 8 chữ v.v…
Nguyễn
Đình Thi đã xuất bản 6 tập thơ. Người chiến sỹ. Bài thơ Hắc Hải. Dòng
sông trong xanh. Tia nắng. Trong cát bụi. Sóng reo. Đời thơ của ông để
lại cho thế kỷ 20 những bài thơ vào loại hay nhất và số đó không phải là nhiều.
Đó là các bài: Quê hương Việt Bắc. 1950. Bài thơ viết
cạnh đồn Tây. 1951. Nhớ. 1954.Đất nước. 1948.
1955. Em bảo anh (không ghi năm sáng tác). Chia tay trong
đêm Hà Nội. 1967.Tia nắng (không ghi năm sáng tác).Lá đỏ. 1974.
và Vào mùa thu. (không ghi năm sáng tác).
Đất nước, tình
yêu và những nẻo đường thêu nắng là những cảm xúc và hình tượng đẹp nhất trong
thơ Nguyễn Đình Thi.
Với
Nguyễn Đình Thi, đất nước hiện lên lung linh màu sắc trong tiếng ca hát của
tình người .
Lòng ta không ngừng ca hát
Ôi những núi chàm sáng ngời
Ta yêu những rừng Việt Bắc
Nơi ta khôn lớn nên người.
Đất
nước chịu bao gian khó. Thương đau, vất vả in trên mặt quê hương và trên mặt
mỗi con người.
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn.
Đất
nước là một trong số những bài thơ hay nhất của Nguyễn Đình Thi và của thi ca
Việt Nam hiện đại về chủ đề này. Đất nước với những hình ảnh tươi sáng và rạng
rỡ, lòng tự hào về núi sông tươi đẹp, về truyền thống lịch sử của những ngày
xưa vọng nói về, đêm đêm vẫn rì rầm trong tiếng đất; đất nước của những truyền
thống quật khởi trong đau thương chiến đấu vẫn ngời lên nét mặt quê hương. Sự
đứng đậy của nước Việt Nam mới là hình tượng đẹp nhất về tổ quốc trong thi ca
Việt Nam hiện đại.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Một đặc điểm nổi
bật thơ Nguyễn Đình Thi viết về đất nước là cảm hứng bi tráng lịch sử luôn hòa
quyện với sự tha thiết của tình yêu con người và hạnh phúc lứa đôi. Sự gắn bó
tự nhiên của hai luồng cảm xúc ấy làm cho thơ ông vừa hào hùng vừa thân thương
gần gụi. Và cũng chỉ những cây bút tài năng như Nguyễn Đình Thi mới làm nên sự
giao hòa một cách tự nhiên hai tình cảm xuất phát từ niềm trắc ẩn của ông về
vinh quang với nhạy cảm của bi kịch làm người như là cỗi rễ nhân văn làm nên sự
hài hòa ấy. Ở đất nước khói cam tuyền mờ mịt thức mây gần hết thế kỷ. Hàng
triệu người đi ra chiến trường mà nhiều người trong số họ không trở về nữa thì
vinh quang và khổ đau ngấm vào từng thước đất, bờ cây ngọn cỏ, vào từng thân
phận của mỗi một con người, vào từng mái nhà, bếp lửa. Không có một ai ở ngoài
cuộc cả. Và do đó không ai có quyền quên lãng. “Ta không quên từng đêm lặng ánh
đèn. Giọt nước mắt người rơi xa vắng. Những nẻo đường khuya sớm. Bấy nhiêu năm
gió bụi chiến trường. Mưa nắng lăn mình trong lửa”, để tất cả vì tổ quốc bình
yên.
Khóm cúc bên đường nghiêng ngả
Dòng sông cuộn mãi hiền từ.
Đã
có một lúc trong kháng chiến chống Pháp, người ta “dị nghị” với ông về việc
viết thơ tình! Mặc dù thơ tình của ông viết ra không phải là nhiều. Nhưng bốn
bài thơ tình đặc sắc của Nguyễn Đình Thi đã sống trong sổ tay riêng tư của
nhiều thế hệ người đọc Việt Nam thời hiện đại. Nhớ (gửi M), Em
bảo anh, Chia tay trong đêm Hà Nội và Lá đỏ.Thơ tình yêu của Nguyễn Đình
Thi trở nên gần gụi với mọi người vì gắn bó cái riêng có của ông vào cái chung
muôn thuở của cuộc đời. Soi cái tình riêng vào cái tình chung của đất nước quê
hương. Gửi M:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn.
Từ đất nước, tình
yêu đến những dải đường thêu nắng như những gì đẹp nhất, thiêng liêng nhất để
thi sỹ bày tỏ tâm tình. Nắng trong thơ Nguyễn Đình Thi như có hồn người phát
sáng. Nắng là màu sắc của tình yêu đất nước và sự thủy chung của mỗi cuộc đời.
Việt Nam đất nắng chan hòa
Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh
Mắt đen cô gái long lanh
Yêu ai yêu chọn tấm tình thủy chung.
Đó là
tình yêu thanh khiết nhẹ nhàng như nắng của người con gái làm cho cuộc đời này
trở nên tươi sáng hơn.
Em đấy ư, tia nắng đến khẽ
trong căn nhà nghèo nàn của anh
Mỗi hạt bụi bay thành hạt vàng.
Và nắng như một khải
huyền của mùa Thu bất tử, tiềm ẩn những giấc mơ về hạnh phúc đời người.
Như có vàng bay trong nắng
Những hàng cây sáng trên cao.
Những năm cuối đời. Đoạn đường ngắn mà cũng thường dài nhất của các thi nhân.
Nguyễn Đình Thi thấy gì? nghĩ gì? - không có gì khác. Tình yêu thương và nắng
ấm. Ông tự đặt câu hỏi cho mình trong Niềm nhớ: “Hỡi người sắp đi
xa, người có muốn đem theo gì nữa không”. Và ông tự trả lời: “Tôi chỉ mong được
một vài ánh mắt nhìn quyến luyến”. Tiếp theo là câu hỏi cuối cùng: “Người có
muốn gửi lại gì không?”. Tôi chờ đợi câu trả lời này của Nguyễn Đình Thi cái gì
đó thật triết học, thật lớn lao của người nghệ sỹ đa tài ấy? Nhưng không. Đó
chỉ là một điều giản dị mà bất kỳ ai sống trên thế gian này đều có. Đó là xuất
phát điểm cũng là lâu đài ánh sáng cuối cùng trên dương thế của một đời người:
“chút nắng ấm cho người tôi yêu thương”. Và từ đấy tôi mới hiểu tại sao những
năm cuối đời Nguyễn Đình Thi còn nghe được tiếng ầm ì của “Núi gầm vào mùa
Thu”; Còn nhìn thấy được ánh lửa xa xôi của tình yêu tha thiết “mùa thu vàng
hoe đôi mắt xa, anh ngồi giữa đáy buổi chiều, lúa ào vào mặt”; Còn cảm thấy
được đêm mưa ở bài thơ cuối cùng đứng trong toàn tập chân dung người nghệ sỹ
bạc trắng mái đầu mà tình yêu cuộc đời vẫn ướt đẫm nhành lan tím trên bàn tay
mưa… Vào năm 1990, ông đã gửi lời chào tạm biệt cuộc đời, khi đứng dậy đi theo
cái bóng của mình đến hẹn đã lên. Bao nhiêu bề bộn, ngổn ngang của cuộc đời còn
để lại “Mong anh em hiểu đừng cười. Tôi gửi lại đây chìa khóa. Tất cả cửa nhà
tôi đó. Ngổn ngang qua tạm cuộc đời”.
Không thể không
nói những bài thơ không hay của một thi tài. Nói ra để thấu hiểu trong cõi thơ
mênh mông của cuộc đời này, còn lại ít lắm những vần thơ để lại cho đời sau;
càng ít hơn những vần thơ dẫn dắt cho loài người sống như trăn trở của Nguyễn
Đình Thi. Để hiểu thời đại mà ông đã sống. Nghệ thuật nói chung và thơ ca nói
riêng không chấp nhận tồn tại lâu dài của cái trung bình. Sự sàng lọc tàn nhẫn
của lịch sử và thời đại không để cho những trường ca và thi sỹ trung bình trên
giá sách của thời gian. Nhưng sẵn sàng để lại, dù chỉ một câu thơ thôi, nếu đó
là trác tuyệt.
Vào những năm đầu của thơ ca kháng chiến chống Pháp và kể cả sau này trong thời
chống Mỹ, không ít nhà thơ, thậm chí là những nhà thơ nổi tiếng, trên con đường
tìm tòi khám phá đầy gian khó và vật vã, đã để lại những sản phẩm, những đứa
con tinh thần mà chính những cha đẻ của nó sau một thời gian cũng không muốn
nhìn nhận nữa. Đến giữa tháng 8-1995, sau gần 15 năm đổi mới, Nguyễn Đình Thi
tâm sự: “T. C nói: bây giờ đến củ khoai còn thiếu, còn thơ anh Thi thì như kem
nước đá”… Sau đó tôi đi cải cách và viết Mẹ con đồng chí Chanh được
in nhiều lần, tái bản 6 lần và đem bán lẫn với hàng ở cửa hàng xén. Khương Hữu
Dụng bảo: “ông Thi mà phải làm thế này thì liệu mà viết”. Đọc lại Mẹ
con đồng chí Chanh và một số bài thơ không hay khác vào lúc thế kỷ 21
đã đi được hơn 10 năm rồi mà vẫn thấy một số bài thơ ông viết theo phong trào
quả là không hay thật. Nó không có trên giá sách của thời gian. Bài Vè
du kích viết năm 1949. Thơ vè quá hóa vè thật. Bài thơ dài Mẹ
con đồng chí Chanh. Tư tưởng rất sáng. Nhưng tiếc thay tác giả tập Kiều nôm
na quá, quên mất cảm xúc và hình tượng thơ. Nôm na đến mức ông đã làm người đọc
cứ tưởng già Lê, một ông lão khi ẩn khi hiện trong bài thơ ấy là vãi Giác Duyên
của Truyện Kiều… Một số bài thơ sáng tác những năm 1970 như Đồng đội.
1972. Bay đêm. 1972.Chị huyện ủy đến thăm sân bay. 6-1972…
Dường như cũng viết theo phong trào. Lúc đó ông đã tạm quên niềm trắc ẩn và bản
lĩnh của một nhà thơ lớn?
Hàng triệu
độc giả mê Nguyễn Đình Thi không chỉ ở văn nghiệp mà cả cái chất nghệ sỹ hào
hoa phong nhã của ông. Mùa hè năm 1970, Nguyễn Đình Thi đến khoa Văn Đại học
Tổng hợp Hà Nội nói chuyện văn chương. Ông diện chiếc áo sơ mi cộc tay màu xanh
da trời, có hai túi nắp trên ngực. Vừa trẻ trung vừa thanh lịch. Cái miệng cười
rộng rãi, để lại ấn tượng mãi không quên. Hàng trăm sinh viên dán mắt nghe ông
diễn thuyết. Giữa lúc cao trào, Nguyễn Đình Thi tay đang cầm điếu thuốc lá hút
dở, vô tình đưa nhầm phía đầu thuốc than đen đã tắt lửa vào đầu môi. Hút… Hội
trường nổ một hồi vỗ tay dài… Sinh viên mà lại, chúng tôi cho đấy là dấu hiệu
đãng trí của thiên tài… Từ dạo ấy, mỗi khi đọc Nguyễn Đình Thi. Văn Xuôi. Kịch.
Thơ. Lý luận phê bình. Tôi có cảm giác quên đi con người cụ thể của ông. Chỉ
thấy dặng núi chàm sáng ngời trước mặt. Thế hệ ông như những người từ bên kia
núi ấy trở về. Theo tiếng gọi rầm rì của Đất. Và lịch sử không có sự lặp lại y
nguyên như thế nữa.Hà Nội 8-2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét