Những vầng trăng xưa
Đêm về khuya, ngoài
trời vẫn còn rất lạnh, cái lạnh của vùng đất ôn đới. Không gian về đêm thật yên
tĩnh, huyền ảo... lấp lánh trên nền trời những ngôi sao và trăng treo lơ lửng
như gần như xa, trăng của xứ lạnh, của đồi núi, của rừng cây bắt đầu mùa xuân sau
những tháng ngày bị phủ lấp bởi tuyết trắng. Một thứ ánh sáng trong vắt và tinh
khiết, không lộng lẫy, không kiêu kỳ, đầy sức sống. Cái vẻ đẹp của trăng vào thời
điểm này giống như một cô gái đang dậy thì, bắt đầu làm người lớn, đẹp nhưng
không biết là mình đẹp. Vẻ đẹp không làm cho người ta phải sững sờ nhưng đầy sức
quyến rũ. Cái quyến rũ của sự ngây thơ, trong sáng, mong manh và dễ vỡ. Tiếng
gió đêm vi vu hòa với tiếng lá thông reo. Văng vẳng trong đó những nhịp trầm bổng,
mơ hồ, khói sương... cung đàn, điệu hát, những vầng trăng của ngày tháng xa xưa.
Thuở nhỏ, vào những
đêm trăng sáng, tôi nhìn trăng và tưởng tượng ra bao nhiêu thứ để rồi thắc mắc
đủ thứ: Tại sao trăng sáng mát dịu? Tại sao có lúc trăng tròn có lúc khuyết? Tại
sao có lúc trăng đi đâu mất? Có thêm ai ở trên đó ngoài Hằng Nga, chú Cuội, thỏ
ngọc không?... Tôi hỏi lung tung cho đến nổi mẹ tôi phải nói: "Giống chi
hông giống lại giống cái tính "mê trăng", đa sầu đa cảm khổ lắm đó
con ơi!". Ngày lớn lên, với những kiến thức khoa học tôi đã biết "vầng
trăng tuổi thơ" thật ra chỉ là một tinh cầu, nhưng trong lòng tôi thì vẫn
luôn muốn trăng mãi mãi là một hình ảnh lung linh hư ảo đầy huyền hoặc như lúc
nhỏ khi nhìn trăng và hát nghêu ngao: "Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to,
có thằng cuội già, ôm một mối mơ". Ừ mà phải chi có một phép mầu nào đó để
tôi có thể giữ mãi và tin rằng trăng là cõi thật, trên đó có một cô tiên tên là
Hằng Nga xinh đẹp đang sống, có chú Cuội ngồi ôm gốc đa ...
Sau này có dịp đọc
chuyện thần thoại La Mã và Hy Lạp, tôi khám phá ra là chẳng phải chỉ có người Á
đông mới có những huyền thoại về trăng mà từ hàng ngàn năm qua, con người ở khắp
nơi trên địa cầu cũng đã "mê trăng". Theo huyền thoại La - Hy, trăng
cũng có rất nhiều tên gọi như: Luna, Diana, Cynthia, Phoebe, Selena (hoặc
Selene). Theo thần thoại Hy Lạp, Selene là nữ thần mặt trăng, con gái của các vị
thần Hyperion và Theia. Endymion là một anh chàng chăn cừu rất đẹp trai, hàng
ngày chăn cừu trên đỉnh núi Latmus. Selene đem lòng yêu Endymion và hai người
đã sống như vợ chồng. Sau đó Selene sanh ra cho Endymion 50 đứa con gái. Chắc
lúc ấy, chàng Endymion đã hát nghêu ngao: "Ai bảo chăn cừu là khổ, chăn cừu
sướng lắm chứ!" Tình yêu của hai người làm thần Zeus ghen tỵ, khép tội
Endymion đã dụ dỗ một thần nữ yêu quý của ông và trị tội Endymion bằng cách hóa
phép làm cho Endymion ngủ vĩnh viễn trên đỉnh núi Latmus với tình yêu của
Selena. Theo thần thoại La mã thì Diana là nữ thần mặt trăng, vị thánh tổ của
phụ nữ, của thợ săn và là thần hộ mạng của rừng cây. Diana là biểu tượng của tấm
lòng trinh trắng, tính nết đoan trang của người con gái. Tượng Diana có thân
hình thon thả, vóc dáng thanh nhã, tay cầm cung tên và có một con nai vàng ngơ
ngác đứng bên cạnh. Chắc cũng vì vậy mà ở các xứ Tây phương, chúng ta thấy con
gái tên Diana nhiều hơn tên Selene (hoặc Selena).
Các quốc gia khác
trên thế giới dường như nước nào cũng có truyện cổ tích về trăng. Tôi còn nhớ một
câu truyện cổ tích về trăng của người Đại Hàn như sau: "Ngày xưa có một
chàng tiều phu hiền lành, thật thà và mộc mạc sống với một bà mẹ già ở ven bìa
rừng. Một hôm vào rừng đốn củi, thấy một con nai già đang bị thương năn nỉ cứu
giúp. Với bản tánh hiền lành, thương loài vật, chàng tiều phu bèn để con nai
trong gánh và lấy củi che lại. Lúc người thợ săn đuổi đến và hỏi chàng có thấy
con nai bị thương chạy về hướng nào không? Chàng tiều phu chỉ đại một hướng cho
người thợ săn đuổi theo. Cảm ơn cứu mạng và muốn trả ơn, nai già (là sơn thần
hóa thành) hỏi chàng tiều phu có ước muốn gì không? Chàng cũng thực tình nói là
muốn có một người vợ đẹp, nhưng hoàn cảnh nghèo như vầy thì ai mà ưng. Tưởng
nai già chỉ hỏi chơi, không ngờ nai nghiêm trang nói : "Việc này nai có thể
giúp được". Trước khi từ giã, nai già chỉ cách và phương hướng cho chàng để
tìm đến một suối tiên trong khu rừng và dặn chàng tiều phu đến ngày trăng tròn
hãy đến đó núp kín bên bờ suối thì sẽ thấy nhiều tiên nữ xuống tắm suối. Cứ lén
lấy một bộ xiêm y giấu đi và tiên nữ nào bị mất xiêm y sẽ trở thành vợ của
chàng. Hãy giấu bộ xiêm y đó cho đến khi có đứa con thứ hai mới trả lại.
Vào đêm trăng tròn
sắp tới, chàng tiều phu tìm đến con suối tiên núp bên bờ suối như nai già dặn.
Đêm xuống, trăng lên thì có năm đóm sáng bay từ mặt trăng xuống, hoá thành năm
nàng tiên xinh đẹp, cởi xiêm y máng trên cành cây, xuống suối tắm và nô đùa với
nhau. Chàng tiều phu lấy một bộ xiêm y giấu đi (thật thà thiệt, nếu gặp chàng
nào ma lanh thì chắc giấu hết cả 5 bộ). Các tiên nữ sau khi tắm xong lên bờ tìm
xiêm y mặc để bay về cõi tiên thì thấy mất một bộ. Các nàng tiên quýnh quáng
tìm kiếm, nhưng trăng cũng đã sắp lặn. Không chờ được nữa, 4 nàng tiên đành phải
bỏ bạn lại và hóa thành những đốm sáng bay trở về cung trăng. Nàng tiên còn lại
đang sợ hãi và khóc lóc thì chàng tiều phu rời khỏi chỗ ẩn núp và đề nghị đưa
nàng tiên về nhà mình. Không có cách chọn lựa nào khác nàng tiên đành phải theo
chàng về nhà. Sau đó, họ trở thành vợ chồng và một năm sau họ có đứa con đầu
tiên. Nhưng trong những đêm trăng, thấy vợ thuờng hay nhìn trăng u sầu, chàng
tiều phu không chịu được bèn đưa bộ xiêm y đã giấu ra trả cho vợ. Bộ xiêm y gặp
lại nàng tiên như có sức hút bám chặt vào người nàng và đứa bé, rồi tất cả biến
thành đóm sáng bay về cung trăng.
Chàng tiều phu nhớ
vợ ,thương con ủ rũ, sầu não. Vào rừng đốn củi mà chỉ ngồi than vắn thở dài thì
chợt thấy nai già hiện ra và bảo: Tôi đã dặn kỹ mà ân nhân không chịu nghe lời,
nhưng tôi chỉ có thể giúp được thêm 1 lần này nữa thôi. Từ khi biết suối tiên
đã có con người, các nàng tiên không được phép xuống đó tắm nữa mà chỉ thả cái
gàu xuống lấy nước suối tiên về mặt trăng tắm. Ân nhân hãy tìm cách trốn vào
gàu để lên mặt trăng đoàn tụ với vợ con. Vào đêm trăng tới chàng tiều phu vì
lòng hiếu thảo, không thể bỏ mẹ, nên cõng mẹ theo đến suối tiên chờ. Đến khi
trăng lên, thì quả thật có thấy cái gàu, chàng vội đặt mẹ vào trước và định leo
lên sau, nhưng chiếc gàu tiên đã bị rút lên trước khi chàng kịp leo vào. Chàng
buồn bã trở về nhà định quyên sinh thì chợt thấy một con ngựa đầu rồng, có cánh
từ trên trời bay xuống và bảo chàng tiều phu lên lưng nó chở lên cung trăng gặp
vợ con. Số là mẹ chàng lên cung trăng gặp lại nàng dâu tiên và cháu nội kể lại
câu chuyện. Chúa tiên nghe câu chuyện cảm động vì tình yêu và lòng hiếu thảo của
chàng tiều phu nên cho ngựa đầu rồng xuống đón chàng lên cung trăng sum họp với
gia đình. Người Đại Hàn tin rằng, ánh trăng ngời sáng là do hạnh phúc của gia
đình người tiều phu mang lại.
Khi đọc hai câu thơ
trong truyện Kiều:
"Vầng trăng ai
xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa
soi dặm trường".
Chúng ta nghĩ cụ
Nguyễn Du chỉ dùng ngôn từ ẩn dụ để diễn tả sự chia ly vậy thôi . Nhưng trong
thực tế, người Hồi giáo tin rằng giáo chủ của họ là Mohammed đã sử dụng phép mầu
xẻ trăng làm đôi là thật. Tương truyền rằng Mohammed đưa hai tay lên trời và
làm phép, mặt trăng rơi xuống trên nóc đền thờ cổ xây bằng đá tên là Kaaba nơi
thánh địa hồi giáo Mecca, quay bảy vòng rồi bay đến chui vào tay áo bên phải,
chui ra phía tay áo bên trái. Kế đến, trăng lại chui vào cổ áo, xuống phía
chân, rồi tách ra làm hai bay trở lên trời theo hai hướng đông tây. Sau cùng
hai mảnh trăng mới hợp lại thành một.
Ngày 20/7/1969, phi
thuyền Appollo 11 của Mỹ đã đáp xuống mặt trăng và phi hành gia Neil Amstrong
là người đầu tiên của loài người đã đặt chân trước cửa nhà chị Hằn . Khi trở về
trái đất Neil Amstrong đã nói câu nói nổi tiếng: "Đó là một bước ngắn của
(một) người, một nhảy vọt lớn lao của nhân loại" (that's one small step
for (a) man, one giant leap for mankind). Một câu nói vừa đủ khiêm nhượng, vừa
đầy tự hào cho giới khoa học gia và tràn dư thất vọng não nề cho thi nhân. Mặt
trăng đã bị con người và khoa học kỹ thuật chinh phục. Hình ảnh của trăng, một
thế giới đầy mộng ảo với bao nhiêu huyền thoại diễm lệ truyền kỳ được gìn giữ
nâng niu trong tâm tưởng của con người, trong văn, trong thơ, trong nhạc... tự
ngàn xưa đã bị phá vỡ.
Một nhà thơ đã viết
:
"Người đã mang
về đá mặt trăng
Phi thuyền nào chở
hết ăn năn
Riêng ta hốt hoảng
mê trường dạ
Nguyệt điện đìu hiu
bóng chị Hằng."
(Đá Mặt Trăng -
Vương Đức Lệ)
Một tiếng kêu thảng
thốt, thống thiết và hốt hoảng của thi nhân bị vỡ mộng. Thiệt đúng là thành
công vượt bực của khoa học là thất vọng não nề cho thi nhân. Khám phá về trăng
của khoa học chắc đã làm cho nhiều người ngần ngại và e dè khi ngâm nga
"Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng. Có người thiếu nữ đẹp như trăng... "
(Bản nhạc "Mộng dưới hoa" phổ theo bài thơ "Tự tình dưới
hoa" của thi sĩ Đinh Hùng). Vì người đẹp có thể "hiểu lầm" mình
chê mặt người ta lồi lõm như mặt trăng (mặt rỗ hoa).
Cho riêng tôi, những
lúc như đêm nay, tôi tạm quên sự thật, không muốn nghĩ, không cần nhớ đến những
khám phá của khoa học về trăng, mà thả hồn theo ánh sáng dịu mát của vầng trăng
xứ lạ lúc đầu xuân của miền đất ôn đới để tìm về quá khứ thăm những vầng trăng
tuổi thơ, những vầng trăng quê hương, những vầng trăng ký ức... Những hình ảnh
huyền ảo, mơ mộng... của trăng lúc có lẽ sẽ mãi mãi bất diệt trong tôi.
"Hỡi cô tát nước
bên đàng
Sao cô múc ánh
trăng vàng đổ đi" ( Bàng Bá Lân).
Đừng nhé cô tát nước!
Và ước chi khoa học để yên cho vầng trăng mơ của tôi. Dù biết rằng "người
ta không thể nào tắm hai lần trên cùng một dòng sông" nhưng thỉnh thoảng,
như đêm nay, tôi vẫn mơ được đắm mình lại trong ánh sáng của những vầng trăng
ngày xa xưa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét