Đời và nhạc Trịnh Công Sơn
Trịnh
Công Sơn chánh quán Huế, làng Minh Hương, tổ tiên gốc Trung Hoa. Làng Minh
Hương nay sát nhập vào Bao Vinh thành xã Hương Vinh. Bao Vinh là thương cảng
của Huế ngày xưa.
Anh
sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939, tại Lạc Giao, tỉnh Đắc Lắc, lớn lên trong một
gia đình buôn bán giữa trung tâm thành phố Huế. Nhà đông anh chị em, ba trai
năm gái, mà anh là con trưởng. Tuy có thăng trầm, nhưng nói chung là khá giả.
Trịnh
Công Sơn theo học chương trình Pháp, tại Trung học Pháp tại Huế, đến hết cấp 2.
Năm ấy, 1955, cùng lớp có ca sĩ Kim Tước (Giáo sư Decoux, dạy khoa học, thỉnh
thoảng mang đàn vĩ cầm vào lớp, đàn đệm cho học sinh hát). Lúc này Trịnh Công
Sơn chơi guitare đã hay. Trường giải thể, dời vào Đà Nẵng, Trịnh Công Sơn có
lúc theo học trường Thiên Hựu, Providence ở Huế. Rồi chuyển vào Sài Gòn, học
tại trường Jean Jacques Rousseau. Sau đó vào học trường Sư Phạm Quy Nhơn, rồi
đi dạy học vài năm tại Lâm Đồng.
Anh
tự học nhạc một mình, và đã kể lại :
Thưở
ấy, tôi là một đứa bé thích ca hát. Mười tuổi biết solfège, chép lại những bài hát yêu thích đóng thành tập, chơi
đàn mandolin và sáo trúc. Mười hai tuổi có cây đàn guitare đầu tiên trong đời
và từ đó sử dụng guitar như một phương tiện quen thuộc để đệm cho chính mình
hát.
Tôi
không đến với âm nhạc như một kẻ chọn nghề. Tôi nhớ mình đã viết những ca khúc
đầu tiên từ những đòi hỏi tự nhiên của tình cảm thôi thúc bên trong... Đó là
những năm 56 - 57, thời của những giấc mộng ngổn ngang, của những viễn
tưởng phù phiếm non dại. Cái thời tuổi trẻ xanh mướt như trái quả đầu mùa ấy,
tôi rất yêu âm nhạc nhưng tuyệt nhiên trong tôi không hề gợi lên cái ham muốn
trở thành nhạc sĩ... Dạo ấy ba tôi đã mất ...1
Những
câu hỏi người tò mò có thể đặt ra : một người chỉ học trường Pháp, giáo trình
Việt ngữ rất hạn chế và lỏng lẻo, khi đặt lời ca, sao có thể sử dụng tiếng Việt
điêu luyện đến như thế ? Thỉnh thoảng anh viết truyện ngắn, tham luận, đều xuất
sắc. Bạn bè nhận được thư riêng, đều nhớ rằng Sơn chữ đẹp văn hay.
Tự
học đàn hát, rồi sáng tác một mình, Trịnh Công Sơn không thuộc một nhóm sáng
tác nào, như những người đi trước, như Lê Thương, Hoàng Quý trong nhóm Đồng
Vọng ở Hải Phòng, như Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước trong nhóm Myosotis tại Hà
Nội, nhóm Hoàng Mai Lưu tại Nam Bộ. Cũng như sau này, anh sẽ tự học vẽ một
mình.
Câu
hỏi tò mò thứ hai : tự học nhạc, rồi từ rất sớm đã lao mình vào đời sống sáng
tác và tranh đấu, làm sao anh có thể liên tục sáng tác khoảng 600 ca khúc, phần
lớn được yêu chuộng ?
Nói
rằng Trịnh Công Sơn là thiên tài, cũng dễ thôi. Nhưng trở thành thiên tài trên
một đất nước như Việt Nam, được thừa nhận là thiên tài trong một xã hội như
Việt Nam - nhất là sau cuộc đổi đời 1975 - thật không đơn giản.
Mục
đích của bài này là giải thích sự hình thành của thiên tài Trịnh Công Sơn, giải
mã hiện tượng Trịnh Công Sơn và tìm hiểu vị trí của Trịnh Công Sơn trên những
trầm luân của đất nước, chủ yếu là khúc quanh 1975.
Chúng
tôi cũng muốn cung cấp cho các nhà nghiên cứu về sau một số tư liệu rải rác đây
đó, e mai đây khó kiếm, khi những than khóc và tung hô đã lắng xuống.
Về
hoàn cảnh sáng tác ban đầu, Trịnh Công Sơn đã tuyên bố với Vĩnh Xương, báo Đất
Việt, năm 1985 : " Đến năm 1957, tôi sáng tác, gọi là để bạn bè
nghe chơi. Sau đó thấy có hứng thú sáng tác và thử viết thêm một số bài. Năm
1959, tôi viết bài Ướt Mi và được bạn bè khích lệ. Tôi mới tìm sách nghiên cứu
thêm về nhạc, trao đổi thêm về nhạc lý với bạn bè. Sau đó, tôi phổ nhạc cho
khoảng một chục bài thơ tình yêu (như Nhìn Những Mùa Thu Đi chẳng hạn). Năm 63,
tôi có một số sáng tác khá thành công như Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng. Từ đó,
tôi đi vào con đường sáng tác "2.
Và
từ đó, Trịnh Công Sơn nổi tiếng.
*
Khi
đặt câu hỏi : sao một thanh niên, rất trẻ, chỉ học "trường Tây" mà sử
dụng tiếng Việt tài hoa đến vậy, tôi không có thành kiến - vì bản thân mình
cũng chỉ học "trường Tây"- mà để tìm hiểu nguồn sáng tạo trong ngôn
ngữ.
Trịnh
Công Sơn, có lẽ - đây là giả thuyết dè dặt - không học nhiều văn chương Việt
Nam được giảng dạy ở nhà trường thời đó, nên không bị nô lệ vào những khuôn sáo
trường quy, không suy nghĩ bằng điển cố sẵn có, mà tạo được một hình thức mới
cho lời ca. Lời ca ấy sử dụng nhiều hình ảnh, biểu tượng bị xé lẻ, đi thẳng vào
tâm tưởng người nghe, mà không đòi hỏi họ phải hiểu nghĩa chính xác. Ví dụ bài Tình
Sầu :
Tình
xa như trời / Tình gần như khói mây /
Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
... Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi / Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Tình trầm như bóng cây / Tình reo vui trong nắng /
Tình buồn làm cơn say
... Cuộc tình lên cao vút / Như chim mỏi cánh rồi / Như chim xa lìa bầy / Như chim bỏ đường bay /
Mạch
lạc nội tại (cohérence organique) của ca khúc không dựa vào tương quan ý nghĩa
: "tình xa như trời" thì hợp lý, nhưng gần, sao
lại như "khói mây" ? "Tình lên cao vút", sao
lại "như chim mỏi cánh rồi" ? "Tình reo vui trong nắng",
thì phải đối ngẫu với "tình buồn cơn mưa bay" mới chỉnh, sao
lại say sưa vào đây ?
Thật
ra, mạch lạc nội tại được cấu trúc trên hình thức ngôn ngữ : những từ lặp lại : tình,
chim, như, những vần luyến láy : mây, cây, say, bay, những
từ đối lập : xa/gần, vui/buồn. Hình ảnh nối tiếp nhau,
không cần ăn khớp với lý luận, lại được tiết điệu, âm giai nâng đỡ, bay bổng,
bay thẳng vào tâm tưởng người nghe.
Chúng
ta thử so sánh, để tìm hiểu chứ không phân định hơn thua, một lời nhạc tương tợ
của Đoàn Chuẩn-Từ Linh :
Gửi
gió cho mây ngàn bay
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian ...
Gửi bướm muôn màu về hoa
Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
Về đây với thu trần gian ...
Hai
ca khúc na ná, vì đều là ẩn dụ xâu chuỗi (métaphore filée), nhưng câu sau của
Đoàn Chuẩn và Từ Linh được cấu tứ theo ngữ nghĩa và quy ước, theo điển cố : gió+mây, bướm+hoa, gió+trăng, trăng+thu.
Nét mới là màu xanh lá thư bị xoá nhoè giữa những ước lệ được
liên kết thành một xâu chuỗi kiên cố, chặt chẽ quá làm mất chất thơ. Thêm vào
đó là những câu thất ngôn đường luật rất chỉnh chu :
Bài Gửi
Gió Cho Mây Ngàn Bay rất hay, nhưng hay một cách khác, được yêu chuộng
ở một giới thính giả khác.
Phạm
Duy, thời trẻ, đã có những sáng tạo tân kỳ :
Buồm
về dội nắng đôi vai
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi), 1947
Bao nhiêu màu hoa ngát trên đôi môi
(Tiếng Đàn Tôi), 1947
Sau
đó, anh trở về với ngôn ngữ duy lý :
Bao
giờ em giở lại vườn dâu (hỡi em)
Là
một câu thơ tuyệt vời : vườn dâu là niềm thương nhớ muôn trùng
một nền văn minh đã khuất bóng. Nhưng Phạm Duy lại bồi thêm câu sau :
Để
anh bắc gỗ xây nhịp cầu (anh) bước sang...
(Quê
Nghèo, 1948)
Thì
cái ý đã thu hẹp cái tứ. Câu hát trở thành thô thiển, và giới hạn âm vang.
(Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à ?)
(Tôi đã có dịp trình lên anh Phạm Duy ý này, anh cười vui : thế à ?)
Tác
phẩm Lê Thương uyên bác cả nhạc lẫn lời, đã đựơc người đời yêu thích.
Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương :
Trịnh Công Sơn sẽ không viết được những câu văn vẻ như Lê Thương :
Bên
Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng,
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ...
(Hòn Vọng Phu)
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nơi ngàn trùng ...
(Hòn Vọng Phu)
nhưng
đã viết :
Đàn
bò vào thành phố
Reo buồn tiếng hạt chuông
(...)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn ...
(Du Mục)
Reo buồn tiếng hạt chuông
(...)
Đàn bò tìm dòng sông
Nhưng dòng nước cạn khô
Đàn bò bỗng thấy buồn,
bỗng thấy buồn ...
(Du Mục)
Những
hình ảnh ngoài trí tưởng tượng của Lê Thương - ông vua đặt lời ca - theo sự
đánh giá của Phạm Duy.
Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
Đi vào nền tân nhạc với một tâm hồn mới mẻ, Trịnh Công Sơn đã dần dần xây dựng một nhạc ngữ mới, phá vỡ những khuôn sáo của nền âm nhạc cải cách, thành hình chỉ hai mươi năm về trước.
*
Trịnh
Công Sơn tự học nhạc, chứ không được đào tạo theo hệ thống trường quy. Khi bắt
đầu sáng tác, được khích lệ, mới "trao đổi nhạc lý với bạn bè", anh
không nói rõ là những ai.
Câu
hỏi thứ hai người tò mò đặt ra là : học nhạc một mình, thì vốn liếng nhạc thuật
lấy đâu ra mà sáng tác nhiều, nhanh và hay như thế ?
Nhiều
người cho là tác phẩm anh đơn giản về mặt nhạc thuật, nói là nghèo nàn cũng
được.
Văn
Cao nhận xét : "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm
nhạc cổ điển, theo cấu trúc bác học phương tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm
xúc nhạc thơ tự nó trào ra" 3.
Lối
nhạc hồn nhiên, dung dị này lại đáp ứng lại với nhu cầu thời đại, theo Phạm Duy
:
"Về
phần nhạc, toàn thể ca khúc Trịnh Công Sơn không cầu kỳ, rắc rối vì nằm trong
một số nhạc điệu đơn giản, rất phù hợp với tiếng thở dài của thời đại" 4.
Một
thính giả bình thường, yêu quý Trịnh Công Sơn, đã viết sau khi anh qua đời :
"Xét cho cùng, Trịnh Công Sơn là một nhà thơ. Một nhà thơ lớn. Nhạc là
cái xe tải anh lắp lấy để chở thơ anh đến với chúng ta" (Vũ
Thư Hiên, Varsovie, 4/2001). Nhận xét không đúng nhưng tiêu biểu.
Dù
cho rằng nhạc thuật đơn điệu, thì cũng phải thừa nhận tài năng, có phần học
tập, có phần thiên phú. Hoa hồng đẹp là do cây hồng, nhưng cũng còn nhờ vào đất
đai, phân tro, mưa nắng, người chăm sóc, thậm chí cần cả người ngắm, hoa hồng
mới có giá trị cái đẹp hoa hồng. Dù ở đây chỉ là một đoá vô thường.
Ta
thử nhớ lại thời đại phát sinh tài năng Trịnh Công Sơn.
Năm
anh 15 tuổi, 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, cả hai miền Nam Bắc đều
hoá thân trong hoàn cảnh chính trị và văn hóa mới.
Ở
miền Nam, văn hoá phương Tây tràn ngập thị trường, nhất định phải ảnh hưởng
mạnh mẽ đến tuổi mười lăm.
Sách
báo, đĩa nhạc Pháp du nhập ồ ạt vào Việt Nam hằng ngày, giá thực tế rẻ hơn tại
Paris nhờ trợ cấp hối đoái, và đây lại là thời kỳ phát minh và phát triển của
loại sách bỏ túi và đĩa hát rảnh mịn (microsillon), phát hành rộng rãi, kèm
theo những phương tiện truyền thanh mới. Thời trước, tuy Việt Nam là thuộc địa
Pháp, nhưng văn chương Pháp chỉ du nhập qua nhà trường, giáo trình dừng lại ở
cuối thế kỷ XIX : uyên bác như Xuân Diệu mà không biết Apollinaire. Sau 1954,
văn hoá Pháp - và phương Tây - du nhập thẳng vào thị trường. Công chúng đọc
Françoise Sagan tại Sài Gòn cùng lúc với Paris. Trên hè phố, nhất là tại các
quán cà phê, người ta bàn luận về Malraux, Camus, cả về Faulkner, Gorki,
Husserl, Heiddeger.
Nhà
văn Bửu Ý, bạn Trịnh Công Sơn - học trước Sơn hai lớp tại Lycée Français Huế -
hát Lá Rụng (Les Feuilles Mortes) một lần với Juliette Gréco ; Đời
Hồng Tươi (La Vie en Rose) một lần với Edith Piaff, Barbara
một lần với Yves Montand ; trong khi Thanh Tâm Tuyền dịchBarbaracủa Jacques
Prévert,đăng trên Sáng Tạo và nhà văn trẻ Nguyễn Xuân Hoàng cũng ngân nga Barbara.
Nguyễn Trần Kiềm, bạn cùng lớp với Sơn, đi cyclo che nắng bằng sách của Sartre.
Người
ta thắc mắc về những tên ca khúc Trịnh Công Sơn cầu kỳ như Mưa Hồng, Tuổi
Đá Buồn, trong khi Thanh Tâm Tuyền viết Đêm Màu Hồng, về sau
trở thành phòng trà lừng danh, lại viết thêm Lệ Đá Xanh, được danh
hoạ Đinh Cường, bạn thân Trịnh Công Sơn, vẽ thành tranh trừu tượng, v...v... .
Song
hành với sách báo, các cơ quan văn hoá tây phương mở cửa hoạt động : Phòng
Thông Tin Hoa Kỳ, Pháp, Trung Tâm văn hoá Đức ... dĩ nhiên là với những động cơ
chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà chúng tôi không đề cập ở đây, chỉ
nhấn mạnh ở ảnh hưởng văn hoá phương Tây thời đó trên đời sống trí thức miền
Nam. Những Chiều Chủ Nhật Buồn nằm trong căn gác đìu hiu.. ô hay mình
vẫn cô liêu, rồi đến Ngày chủ nhật buồn còn ai, còn ai : ... Tuổi
buồn Em mang đi trong hư vô, ngày qua hững hờ... Không thể không nhắc
đến bài Chủ Nhật Buồn, Sombre Dimanche của Seress Rejso, nghe nói đã có người
tự tử vì nó. Hay vì những hư vô, cô liêu, hững hờ, thịnh hành một
thời. Trong bài viết "Nỗi lòng của tên Tuyệt Vọng" anh đã tiết
lộ " tôi vốn thích triết học và vì thế, tôi muốn đưa triết học vào
những ca khúc của mình ". Ví dụ như : Vết lăn trầm hằn
lên phiến đá mà anh gọi là di thạch : roche errante, người hát không
hiểu gì, nhưng vẫn thích hát ! Nhưng nói là Rolling Stones cũng không sai.
Ca
khúc Trịnh Công Sơn gợi suy tư, đáp ứng lại nhu cầu trí thức chính đáng ở một
thiểu số và ảo tưởng trí thức thời thượng ở một đa số, trong đó có các cô cậu,
ở mục Tìm Bạn Bốn Phương trên các báo, tự giới thiệu là "yêu màu tím"
và "nhạc họ Trịnh", hay "nhạc TCS" viết tắt.
Thời
kỳ này, Nguyễn văn Trung đã viết bài Ảo Ảnh Thanh Thuý. Nói về ảo ảnh
Trịnh Công Sơn, ông ấy cũng có thể viết một bài hay.
Nhạc
Trịnh Công Sơn đơn giản : một nhược điểm tạo dựng thành công. Phạm Duy nhận xét
về Trịnh Công Sơn " Bài hát
chỉ cần một chiếc đàn guitare đệm theo, nếu hoà âm phối khí rườm rà thì không
hợp với những bài hát soạn theo thể ballade này ". Lại là một yêu cầu khác
của thời đại : những Georges Brassens, Joan Baez lẫy lừng với cây đàn ghi-ta.
Ca khúc Trịnh Công Sơn, có thể hát cho vài người nghe, cho một nhóm, hay trước
quảng đại quần chúng. Nó đi vào quần chúng, nhất là giới thanh niên : Nó khác
với nhạc phòng trà, có giàn nhạc và do ca sĩ hát, và thính giả đi nghe (và
nhìn) ca sĩ nhiều hơn là nghe ca khúc.
Thời
Trịnh Công Sơn cũng là thời của các tác-gia-soạn-giả-trình-diễn (auteur
compositeur interprète) chẳng bao năm mà trở thành huyền thoại : Jacques Brel,
Bob Dylan. Báo chí Mỹ gọi Trịnh Công Sơn là Bob Dylan Việt Nam, vì nội dung
phản chiến, mà còn vì phong cách trình diễn.
Nhạc
Trịnh Công Sơn không phải là nhạc giao hưởng. Những soạn giả bậc thầy của nhạc
lý Việt Nam thời đó, như Vũ Thành, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi không có quần
chúng.
Trịnh
Công Sơn có tài đặt nhạc, soạn lời, lại biết bắt mạch thời đại, sống đúng thế
hệ của mình, trong lòng đất nước, trong nhạc cảnh thế giới. Ngần ấy cái tài dồn
lại, gọi là thiên tài, cũng không quá đáng.
*
Phân
chất những lớp phù sa đã tấp vào dòng nhạc của mình qua những giao lưu văn hoá,
Trịnh Công Sơn có nói đến những ảnh hưởng ngoại lai : " Thưở nhỏ
tôi rất thích nhạc tiền chiến và có nghe một số nhạc nước ngoài. Những năm 60,
tôi có nghe nhạc Blues nói về thân phận của người da đen ở Mỹ. Tôi rất thích
nhạc của Louis Amstrong, D. Ellington... Tôi thấy loại nhạc này gần gũi với
mình và thấy có khả năng muốn lấy nhạc này để nói lên tâm sự của mình ". 5
Và
cũng trên số báo Đất Việt đó, anh cho biết thêm về ảnh hưởng : "
Những năm 64-66, sáng tác có chất Blues, những năm 67-72, lại mang nhiều chất
dân ca ".
"Chất
dân ca" ở đây, phải hiểu theo nghĩa folk songs của Bob
Dylan và Joan Baez thịnh hành thời đó. Cả hai danh ca đều hơn Sơn hai tuổi,
cùng một thế hệ, cùng một lý tưởng chống chiến tranh, cùng một cây ghi-ta, cùng
một điệu hát ; "Dân ca" ở đây không phải là hò mái nhì, hò giã gạo
của quê hương. Nhạc dân tộc trong thời gian đầu, dường như không mấy ảnh hưởng
đến anh. Những bài theo chủ đề ru con của Trịnh Công Sơn không mấy âm hưởng
những bài hát ru em Việt Nam.
Sau
này, thỉnh thoảng người nghe có nhận ra chút âm hưởng hò Huế, như trong "
Thuở Bống là Người ", hay điệu ru dân tộc, như " Lời Mẹ ru Con "
thì cũng chỉ là đôi biệt lệ, không tiêu biểu.
Gần
đây, sách báo thường trích dẫn câu Trịnh Công Sơn :
"
Tôi chỉ là tên hát rong, đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình
về những giấc mơ đời hư ảo ".
Lại
phải hiểu chữ " hát rong " theo nghĩa hiện đại : không phải là ông
sẩm chợ, hát vè Thất Thủ Kinh Đô ở phố Đông Ba mà Huy Cận đã
mô tả, mà hình ảnh người du ca hiện đại, những baladins itinérants trong ca
khúc Bob Dylan, trong quan niệm Nhạc Du Bất Tận, Never Ending Tour (1988). Nhà
thơ Tô Thùy Yên, chuộng thuyết chính danh, nên đã nói rõ điều này và gọi Trịnh
Công Sơn là "người du ca chính hiệu" :
" Người
du ca là một nghệ sĩ đặc biệt đứng giữa âm nhạc và thi ca, đúng hơn, người du
ca là một thi sĩ nhiều hơn là một nhạc sĩ.
Người
du ca thường khi xuất hiện và nổi bật trong những thời đại được coi là u uất
nhiễu nhương, những thời đại mà tiếng nói con người bị lấn át, tự do con người
bị cưỡng chế, giá trị con người bị hạ thấp, hạnh phúc con người bị tước đoạt và
ước vọng con người bị bao vây.
Thành
thử những tác phẩm du ca có thể là những tác phẩm yếu hơi, dễ dãi, sơ sài,
những tác phẩm thành hình trong một thoáng cảm hứng nhất thời, những tác phẩm
như những ký tự ghi chép vội vàng trên một trang giấy tình cờ, và thả bay ngay
theo thời thế ".
Trong Cõi
Tạm, ăn xổi ở thì này, nơi con người chôm liền chộp lẹ mọi cơ hội để mua lẻ
và mua rẻ chút hư danh, có người còn viết được những lời như vậy, là nghiêm túc
và tâm huyết. Nhất là viết cho một người vừa khác phe, vừa khác phái.
Văn
Cao cũng là một người sành chữ nghĩa. Trong câu chuyện thân mật, anh thường nói
"Sơn là một troubadour (kẻ hát rong) có tài". Nhưng khi viết về Trịnh
công Sơn, anh dùng chữ chantre, trang trọng hơn, trong nghĩa "kẻ ngợi
ca" : " bởi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng
của một đứa con biết vui tận cùng những niềm vui, và biết đau đến tận cùng
những nỗi đau của Tổ Quốc Mẹ hiền " 6. Troubadour
hát nhạc mua vui cho trần thế, Chantre hát những Lời Buồn Thánh.
Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn cũng chỉ tự xưng là troubadour, như tên đặt cho phòng
tranh anh triển lãm chung với Đinh Cường, Bửu Chỉ tại Gallery Tự Do, tháng
8/2000.
Năm
1969, bạn anh, họa sĩ Trịnh Cung, đã vẽ bức tranh đẹp, tên là Le
troubadour = Kẻ du ca, hát để kêu gọi hoà bình. Những chuyện này đều tương
quan với nhau.
Khi
Phạm Duy gọi ca khúc Trịnh Công Sơn là những ballades, không
cùng một nguồn gốc với chữ baladin, cũng là có ý trang trọng.
Các
vị ấy tài cao, ý sâu mà lòng thì rộng rãi ; cho nên lời cũng khoáng đạt.
Hôm
qua trăng sáng lờ mờ
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Em đi tát nước, tình cờ gặp Anh
Người
con gái Việt Nam da vàng, ngày xưa, đã
hát như thế trong ca dao, là để che dấu khát vọng tình yêu, chứ trong đời sống
nông thôn thời ấy, làm gì có cái tình cờ.
Đời
sống thế giới hiện nay, nghĩ cho cùng, cũng vậy thôi. Những giai điệu blues,
nhạc phản kháng Bob Dylan, Joan Baez, thơ Prévert, Aragon, Eluard ... Trịnh
công Sơn đã gặp gỡ, trên dòng nhạc, dòng thơ, dòng tâm tư. Và dòng lịch sử, dân
tộc và thế giới. Trong cao trào lớn của loài người, giữa lòng thế kỷ hai mươi :
cao trào giải phóng dân tộc, chủng tộc và giai cấp. Đừng quên việc giải phóng
phụ nữ : người phụ nữ Pháp đi phá ngục Bastille từ 1789, mãi đến 1944 mới có
quyền đầu phiếu.
Người
phụ nữ Việt Nam cũng vậy thôi : sau khi chờ chồng hoá đá, họ bước chân vào thế
kỷ XX, thì ngồi đan áo. Từ Buồn Tàn Thu của Văn Cao, qua Bếp
Lửa của Thanh Tâm Tuyền, thơ hiện đại của Ý Nhi, cho đến năm 2000,
trong ca khúc Đêm Xanh của Bảo Chấn, cô ấy vẫn ngồi đan áo,
trong khi dọc hè phố, áo pull bán rẻ mạt.
Đan
áo là hình ảnh ẩn nhẫn, thụ động mà người đàn ông đòi hỏi. Đan áo cho ai đó,
hay để tưởng nhớ, chờ đợi ai đó. Ca khúc Trịnh Công Sơn, rất nhiều phụ nữ,
nhưng không thấy họ đan áo. Mà chỉ ... ngồi chơi, khi nghiêng vai, khi nghiêng
đầu, khi nghiêng sầu. Ngồi chơi chán rồi thì Đứng lên gọi mưa vào Hạ. Nếu
khóc, cũng chỉ khóc cho những Chiều mưa đỉnh cao.... Mai kia, có ra
đi, thì cũng là Như những dòng sông nhỏ.
Người
đàn bà trong Trịnh Công Sơn đẹp dung dị và tự do bình thường. Tự do với cuộc
đời, với tình yêu, thậm chí với tình dục. Nhạc Trịnh Công Sơn không nói đến
tình dục, vì nói đến ... làm gì ?
Người
phụ nữ nghe và hát nhạc Trịnh Công Sơn thoải mái, vì chỉ hát, hay nghe, mà
không phải làm gì cả, không phải Hái Mơ, Lái Đò, bán Hàng
Cà Phê, Hàng Nước, không phải thay quần áo làm cô Sơn
Nữ, cô Láng Giềng hay mua lấy số phận Người
Yêu của Lính. Và nhất là không phải ... đi lấy chồng : hạnh phúc không thấy
đâu mà chỉ nghe oán trách dài dài suốt nửa thế kỷ : Em đi trên xác
pháo, anh đi trong nước mắt... Em ơi tình duyên lỡ làng rồi, còn
chi nữa mà chờ ... Và, ở một chân trời khác, họ cũng không phải ba đảm
đang, ba sẵn sàng, làm Người Mẹ Cầm Súng, xung phong đi gỡ mìn ở Ngã
Ba Đồng Lộc ...
Sau
1975, khi " Em ở Nông trường, em ra Biên giới " thì
người nghe có cảm giác cô Tấm đã trở thành cô Cám, và Trịnh Công Sơn sẽ gào gọi Bống
hỡi Bống hời, cô Tấm thỉnh thoảng có tái hiện, nhưng cũng đã tân trang
nhiều lắm.
Trong
xã hội Việt Nam, cho đến hôm nay, chưa chắc gì người phụ nữ đã được giải phóng,
và tôn trọng đúng mức. Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, họ được giải phóng và tôn
trọng. Tôn trọng người đàn bà, không phải là tán tỉnh, Trịnh Công Sơn, rất hồn
nhiên đã hiểu ra và nói vào điều đó.
Nhạc
phản chiến, đòi hỏi hoà bình của Trịnh Công Sơn thì nhiều người biết, sẽ có
nhiều người viết về đề tài này. Mới đây, trong buổi tưởng niệm Trịnh Công Sơn,
tại Californie, anh Đỗ Ngọc Yến có nói rõ và nói đúng, khác với Đỗ Ngọc Yến
cách đây 40 năm và 20 năm.
Tôi
không đủ thì giờ viết về đề tài này, nhưng sẽ đề cập đến ở một dịp khác, nay
chỉ vội nói ngay mấy ý kiến chủ quan :
1.-
Dù đánh giá ra sao đi nữa, nhạc Trịnh Công Sơn cũng là sản phẩm của chế độ Việt
Nam Cộng Hoà, trong cả hai mặt tích cực và tiêu cực của chế độ này.
Không
có Miền Nam, cũng có thể có một Trịnh Công Sơn, nhưng là một Trịnh Công Sơn
khác, đại khái như một Phạm Tuyên hay Phan Huỳnh Điểu.
2.-
Chính quyền Cộng Sản, sau 1975, sau những thăm dò, đã lưu dung một phần trong
nhạc phẩm Trịnh Công Sơn và đã khéo sử dụng Trịnh Công Sơn. Có thể nói sau 25
năm chiến thắng, thành công hiếm hoi, nếu không phải là duy nhất, của chính
sách văn hoá của chính quyền cộng sản, là tiếp thu nhạc Trịnh Công Sơn, mà công
đầu là Thành Uỷ TPHCM. Dùng chữ "chính sách", là để nhìn toàn cảnh,
chứ đối với một cá nhân, chắc chỉ có những quyết định cục bộ, nhất thời, bất
thành văn. Dù sao, họ cũng chỉ kế thừa kinh nghiệm Liên Xô vào thời kỳ Tân
Chính Sách Kinh Tế (NEP) những năm 1920, sau cuộc nội chiến, khi Lenine thu
dung những nhà văn, nhà thơ "bạn đường" (Popoutchiki) như Alexis
Tolstoi hay Zamiatine.
Trong
chiến tranh chống Pháp, người Cộng Sản đã không thu phục được Phạm Duy. Sau
1954, họ không thu phục được Văn Cao. Nhưng sau 1975, họ thu hoạch được Trịnh
Công Sơn, như vậy đã là thành công. Thành công về mặt hiện tượng, không phải về
mặt bản chất. Về mặt bản chất, chuyên chính vô sản không bao giờ chấp nhận cái
gì khác họ, không phải do họ tạo ra. Mặt khác, ca khúc Trịnh Công Sơn trước kia
và bây giờ không có "tiêu chuẩn" đáp lại quy luật của hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Cố gắng đến đâu thì cây cam cũng không tạo được quả chanh. Trước
kia "hai mươi năm nội chiến từng ngày" là sai đường lối, bây
giờ hỏi "Em còn nhớ hay Em đã quên"vẫn sai lập trường.
Chấp
nhận - dù trong giới hạn - những dư vang của một chế độ chính trị mà mình cố
công bôi xoá, chính quyền TPHCM, trong chừng mực nào đó, đã nhượng bộ quần
chúng, đã gián tiếp thừa nhận mình thất bại, trong việc ngăn chặn nhạc vàng, và
nhất là trong việc đào tạo một nền âm nhạc mới đáp ứng với quần chúng. Chính
quyền Trung Ương Hà Nội "wait and see" để cho TPHCM "phát huy
sáng kiến" ; nếu rách việc thì ra tay chận đứng một "quyết đinh địa
phương", nếu vô hại thì án binh bất động, và thêm được tiếng là cởi mở,
hoà hợp.
3.-
Về phía Trịnh Công Sơn, anh cũng khéo thoả hiệp với chính quyền mới. Việc anh ở
lại Việt Nam sau 1975, hợp tác với các hội văn nghệ Huế, rồi TPHCM là hợp lý,
sau khi đã sáng tácKhi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm... Đó
là sự chọn lựa tự do của anh. Cũng như Nguyễn Trãi xưa kia, cháu ngoại nhà
Trần, mà không phò tá các phong trào kháng chiến Hậu Trần, lại đi hợp tác với
đám nông dân Lam Sơn. Hay như Ngô Thời Nhậm, nhiều đời ăn lộc chúa Trịnh vua
Lê, mà đã đi hợp tác với nhóm áo vải Tây Sơn. Từ đó người ta có thể thông cảm
khi anh làm một số bài ca ngợi chế độ mới, không hay lắm và ít được hát, ít
người biết : âu cũng là điều may mắn cho anh, vì anh đã có một số câu chữ không
hay và không cần thiết.
Anh
là người được hưởng nhiều bổng lộc của chính quyền, nhiều hơn những cán bộ đã
vào sinh ra tử trong cả hai cuộc chiến tranh. Anh có thể hát Đời Cho Ta
Thế. Thật ra, đời không cho ai cái gì mà chỉ đổi chác ; anh đã phải trả
giá, có khi là giá rất đắt. Anh không trả thì nhiều người khác phải trả. Ý thức
điều đó có lần anh viết : " Tôi không bao giờ có tham vọng trở
thành một người viết ca khúc nổi tiếng. Nhưng đời đã tặng cho tôi món quà ấy
thì tôi không thể không nhận. Và khi đã nhận rồi thì phải có trách nhiệm với
mọi người ".
Nói
thì ngon lành như thế. Thực tế không đơn giản : người ta cho anh bó hoa, chai
rượu. Ai cho anh trách nhiệm ? Anh hát " mỗi ngày tôi chọn một
niềm vui ", khi bạn anh, Thái Bá Vân, phó viện trưởng Viện Mỹ
Thuật Hà Nội than : "một năm không được một ngày vui". Muốn
mua vui, phải vào Sài Gòn ... chơi với Sơn. Nhưng chẳng qua là niềm vui của
phận "chim lồng cá chậu" ; Hiểu như thế, bạn bè không đòi hỏi gì
nhiều ở một nghệ sĩ yếu đuối, sống chết giữa trùng vây như anh.
Người
ta đánh giá một tác giả qua những tác phẩm anh ta đã thực hiện, chứ không qua
những tác phẩm mà "lẽ ra" anh ta phải thực thực hiện. Nhân danh cái
"lẽ ra" ấy, người làm văn học nghệ thuật đã là nạn nhân của bao nhiêu
là oan khiên, oan khốc và oan khuất.
Không
những vì chút tình riêng, nhưng còn vì tình đời, luật công bình, luật tương
đối, luật chơi, chúng ta nên gạt sang một bên nhiều cái "lẽ ra" đối
với Trịnh Công Sơn, mà chỉ xét những cái anh đã làm ra.
4.-
Qua bốn mươi năm truân chuyên, Trịnh Công Sơn đã có những đóng góp lớn lao vào
nền văn học nghệ thuật, vào đời sống xã hội, và lịch sử chính trị. Phần lớn sự
nghiệp anh đã thành hình và thành công dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà, mà mọi
người đã biết. Bài này tạm thời chưa nói đến.
Ngoài
quần chúng cũ, nghe nhạc Trịnh Công Sơn vì yêu thích hay để nhớ lại ngững âm
hao xưa cũ, thì thính giả khác, giới thanh niên Việt Nam ngày nay, hay người
miền Bắc trước 1975, đón nhận ra sao ?
Trong
xã hội Việt Nam ngày nay, ca khúc Trịnh Công Sơn mang lại chất Thơ cho đời
sống. Nhìn qua một số đĩa hát CD, thu nhiều bài của nhiều soạn giả, thì cái tên
chung thường mượn tiêu đề của Trịnh Công Sơn, như Lời Thiên Thu Gọi (Hồng
Nhung), Xin Mặt Trời hãy ngủ yên (Mỹ Linh), những tiêu đề
nhiều âm vang, nhiều thi vị. Những nhạc sĩ khác, Dương Thụ, Phú Quang, Trần
Tiến, Bảo Chấn... đều tài cao, nhưng được đào tạo và trưởng thành trong một xã
hội duy dụng và thực dụng, óc sáng tạo cao siêu của họ không đặt ra những câu
hỏi vớ vẩn như là Sóng Về Đâu ? Vì thực tế : sóng thì
... về đâu ? Trong một mẩu xã hội nào đó, đặt những câu hỏi
như thế, là có cơ nguy bị nhốt vào nhà thương điên.
Chủ
nghĩa hiện thực xã hội rất nghiêm khắc, yêu chuộng văn vần, một loại văn xuôi
diễn ca (prose versifiée), với điều kiện loại văn vần ấy không có chất Thơ. Thi
phẩm của "công thần" Nguyễn Đình Thi còn bị gạt ra nói gì đến
"hàng thần" Trịnh Công Sơn ? Nhưng ca khúc Trịnh Công Sơn đã lọt qua
được các mắt lưới, vì đã cấp thời đáp lại được "lời gọi của khoảng trống"
(l"appel du vide) và ca khúc là một thể loại nhẹ, phù phiếm (genre léger),
chính quyền dung dưỡng vì có khả năng chận đứng bất cứ lúc nào - như đã làm với
nhạc Văn Cao ngày xưa : thậm chí bài Quốc Ca còn bị hăm doạ thay đổi. Và đang
làm với Phạm Duy ngày nay. Trong các CD thu tại Việt Nam hiện nay có ai thấy Giấc
Mơ Hồi Hương, nhạc Vũ Thành ?
Chính
quyền dung dưỡng ca khúc Trịnh Công Sơn không phải vì động cơ nghệ thuật, nhưng
như một thế phẩm (ersatz), trong thời kỳ quá độ, như bác sĩ ban thuốc an thần
cho bệnh nhân mất ngủ. Trong khi chờ đợi, thính giả hưởng lạc khoản, được ngày
nào hay ngày ấy. Họ đang được nghe bài Sóng Về Đâu một trong
ca khúc cuối đời Trịnh Công Sơn :
Biển
sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Đừng xô tôi ngã dưới chân người
Biển sóng, biển sóng đừng xô nhau
Ta xô biển lại sóng về đâu
Sóng bạc đầu và núi chìm sâu
Ta về đâu đó
Về chốn nào mây phủ chiêm bao
Xã hội chủ nghĩa có thể tạo ra nhiều bài hát hay hơn. Nhưng
tạo ra được cái gì na ná như thế thì vô phương. Thiên tài không phải là người
không bắt chước ai, mà là người không để ai bắt chước được mình.
5.-
Chứng từ cho giá trị một tác phẩm nghệ thuật, là khả năng kết hợp rộng rãi và
lâu dài của nó. Nhạc Trịnh Công Sơn được hát rộng rãi ở Miền Nam trước 1975,
chúng ta đã biết. Nhưng trước 1975, Miền Bắc đã nghe và đã thích nhạc này, như
Văn Cao đã kể lại7. Nguyễn Duy kể thêm rằng ở dọc Trường Sơn, bộ đội
miền Bắc cũng đã nghe :
"
Mặt trận Đường Chín-Nam Lào (1971)... trong căn hầm kèo bên dòng sông
Sêbănghiêng ... Nghe, nghe trộm - vâng, lúc đó gọi là nghe trộm - đài Sài Gòn,
tình cờ 'gặp' Trịnh Công Sơn qua giọng hát Khánh Ly... Diễm Xưa... Mưa vẫn mưa
rơi ... làm sao em biết bia đá không đau ... Quỷ thật ! giai điệu ấy và lời ca
ấy tự nhiên 'ghim' lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy. Rồi Như
Cánh Vạc Bay... Quái thật ! ... Cảm nhận bất chợt, những bài hát rất mượt mà,
đắm đuối ấy... ừ thì có buồn đấy, đau đấy, quặn thắt nữa đấy... nhưng còn là
cái gì lành mạnh nảy nở trong đó. Hình như là cái Đẹp... Bảng lảng, lờ mờ, khó
phân định cho đúng nghĩa, nhưng rõ ràng là đẹp, đẹp làm sao... Và cũng hơi ma
quái thế nào ... "8
Người
ác ý có thể ngờ vực : Nguyễn Duy là nhà báo có quyền nghe đài, sau này là bạn
rượu của Trịnh Công Sơn, nên thêm thắt. Thì đây, một chứng từ khác đến từ một
anh bộ đội, không quen biết gì, không điếu đóm gì với Trịnh Công Sơn, nhà văn
Nguyễn văn Thọ, hiện ở Berlin :
" Năm
1972, khi ấy tôi là bộ đội trong rừng Trường Sơn. Thằng bạn tôi, sau chiến dịch
Lam Sơn 719 vớ được cái đài
Sony
rất tốt.
Đêm
Trường Sơn, chờ cho mọi người đi ngủ hết, chúng tôi lén mở đài BBC và cả đài
Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên tôi được nghe tiếng hát Khánh Ly với nhạc Trịnh
Công Sơn.
Chúng
tôi là lớp người lớn lên từ Miền Bắc, thường quen với những khúc thức hùng
tráng. Trong tiếng chộn rộn rú rít của sóng vô tuyến, tôi vẫn thấy một giọng lạ
của một thứ âm nhạc mới. Một thứ nhạc da diết, đầy lãng đãng từ ca từ, tới khúc
thức. Một thứ nhạc xanh không giống bất cứ nhạc xanh nào mà tôi từng nghe, kể
cả trong những đĩa hát quay tay cổ mở suốt ngày rên rỉ ở đầu chợ trời những
ngày sau hoà bình.
Rất
lạ, với tôi khi đó nhạc Trịnh Công Sơn như làn gió khởi từ xa xăm đâu đó, tách
khỏi hận thù trận mạc, tha thiết một tình yêu đồng loại, giống nòi, yêu bè bạn,
hoà bình, đạo lý. Nó lạ, vì lối ca từ phi tuyến tính, không giống cách viết
truyền thống trên những ca khúc của Hà Nội khi đó "
Quý
hoá hơn nữa, anh Thọ đã ghi lại cảm giác khi tiến quân vào Sài Gòn, nghe nhạc
Trịnh Công Sơn hát Nối Vòng Tay Lớn, buổi trưa ngày 30/4/1975, trên
đài Sài Gòn :
" Mặt
đất bao la ... anh em ta về ... gặp nhau trong bão lớn quay cuồng trời rộng ...
Lời
ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như
kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận
và hằn học.
Chúng
tôi tiến vào Sài Gòn...
Nối
Vòng Tay Lớn
Chiến
tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra
cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc
thường dễ nổi cáu và nổi doá.
Đấy
là kỷ niệm thứ hai của tôi về anh "
Tiếng
hát làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hằng triệu con người
nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế không trọng đại hay sao ?
Văn
học nghệ thuật Việt Nam, đã bao nhiêu lần đóng vai trò đó ?
Sau
này, Thọ sang sinh sống tại Đức, theo diện xuất khẩu lao động, vẫn nghe nhạc
Trịnh Công Sơn :
" Ngay
cả sau này, đôi khi tự an ủi mình, nâng đỡ mình, tôi khe khẽ hát "Tôi ơi
đừng tuyệt vọng"... và nhiều bài ca khác trong nhiều hoàn cảnh khác nhau,
nhưng tôi vẫn nhớ từng chi tiết và cám ơn nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ở trưa phát
thanh trên làn sóng Sài Gòn ngày đó "9
Ở
một chân trời khác, nhiều người oán trách Trịnh Công Sơn về việc lên đài hát Nối
Vòng Tay Lớn, trưa ngày 30.4.1975. Thật ra, anh có hát hay không hát,
thì chế độ Việt Nam Cộng Hoà cũng tan rã. Anh có hát, và có hợp tác với chính
quyền mới, âu cũng là một cách cứu vãn vết tích văn hoá của nền Việt Nam Cộng
Hoà đã đào tạo ra anh về mặt tài năng và sự nghiệp, thậm chí tạo ra cả một
huyền thoại Trịnh Công Sơn.
Một
lần nữa, ông Nguyễn Văn Trung, sau Ảo Ảnh Thanh Thúy nếu viết Trịnh
Công Sơn Thực Chất và Huyền Thoại cũng sẽ nghĩ ra nhiều điều hay.
Nếu
có ai đó nói rằng : Trịnh Công Sơn là một khổ nhục kế, để kéo dài hơi thở văn
hoá của một chế độ chính trị đã bị bức tử, thì là lời đại ngôn, duy cảm, nghịch
lý, vớ vẩn.
Vớ
vẩn như một số lời ca trong tác phẩm Trịnh Công Sơn. Nhưng biết đâu chẳng là sự
thực ? Sự thực trong bao nhiêu cái vớ vẩn, kể cả trong lịch sử.
Chế
Lan Viên, năm 1984, đã viết : "
Văn hoá của thực dân mới là con đẻ của chủ nghĩa thực dân mới. Quân sự, chính
trị thực dân mới có chết, có băng hà thì nó cũng truyền ngôi cho văn hoá "10.
Và Chế Lan Viên không phải là người vớ vẩn, viết lách vớ vẩn.
*
"
Không xa đời và cũng không xa mộ người..."
Trịnh
Công Sơn đã xa đời lúc 12 giờ 45 tại Sài Gòn, ngày 01.4.2001.
Đám
tang ngày 4 tháng tư, nghe nói lớn lắm, hàng trăm tràng hoa ngập con hẻm 47 Duy
Tân. Hàng vạn người đưa tiễn, trong đó có thể có người đi tiễn một điều gì
khác, một tâm tình hay u hoài nào đó của riêng mình, chẳng hạn.
André
Malraux có nói đâu đây rằng " trong Thiên Chúa Giáo, chỉ có những pho
tượng là vô tội ". Trịnh Công Sơn đã sống non nửa sau cuộc đời, trong một
chế độ chính trị mà các pho tượng cũng không phải là vô tội.
Những
đoá hoa đặt trên mộ Toa, Sơn ơi, không phải là đoá hoa nào cũng vô tội.
Bây
giờ moa mới khóc Toa đây. Tại nhà moa, ngồi ở chỗ Toa ưa ngồi vẽ, nhìn dòng
sông nhỏ, mà Toa đã gọi là sông An Cựu.
Sơn
ơi, đời này, và sang đời khác nữa, làm gì có đến hai dòng sông An Cựu ;
an
cựu, Sơn ơi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét