Quan niệm “Ông Trời” của người Việt
Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã có nhiều ý niệm về “Ông Trời”.
Những ý niệm đó đã được bộc lộ qua các câu ca dao tục ngữ hoặc trong thi phú
của giới trí thức nho học uyên thâm mà ta thường gọi là “văn chương bác học”.
Tuy nhiên, muốn hiểu ý nghĩa thật sự của Ông Trời Việt Nam chúng ta cần phải
khảo sát văn chương bình dân vì chỉ trong văn chương bình dân tâm hồn chất phác
của nông dân Việt Nam mới được thể hiện trọn vẹn và trung thực. Đối với các nhà
nho chịu ảnh hưởng văn hóa Trung quốc thì Ông Trời là “Ngọc Hoàng Thượng Đế” mà
người Hoa thường lập bàn thờ để thờ, hoặc có thể là “Hoàng Thiên” như trong câu
“Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân”. Điểm khác biệt giữa quan niệm của người Tàu
về Ngọc hoàng Thượng đế (hoặc Hoàng Thiên) với quan niệm về “Ông Trời” của
người Việt Nam là người Việt không tôn trọng Ông Trời. Ngay cách gọi
Trời bằng “Ông” cũng đã là một cách diễu cợt. Người Việt Nam coi Trời
không hơn ông hàng xóm: “Bắc thang lên hỏi ông trời!”.
Có lẽ chỉ có người Việt nam “dám” gọi Trời bằng Ông mà thôi vì chúng ta
không hề thấy một cách gọi tương đương trong các ngôn ngữ khác. Chúng ta không
hề thấy người Tàu gọi “Ngọc hoàng Thượng đế” là Ngọc hoàng tiên sinh, Thượng đế
tiên sinh hoặc Hoàng thiên tiên sinh.... Chúng ta cũng không hề thấy người Anh
hoặc người Pháp gọi Thiên Chúa là Mr. God! Monsieur Dieu!.... Hơn thế nữa,
người Việt Nam còn tỏ thái độ xem thường ông Trời qua cách gọi Trời là “Con
Tạo” hoặc “Trẻ Tạo Hóa”, thậm chí còn gọi con cóc là cậu ông trời!
- “Con cóc là cậu ông trời
Hễ ai đánh nó thì trời đánh cho” (Ca dao)
- “Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán” (Nhị Độ Mai)
- “Đố kỵ sá chi con tạo
Đối với người Việt Nam bình dân, “Ông Trời” cũng tương tự như “Ông Trăng”
“Ông Sao” mà thôi, tuyệt nhiên không hề có ý nghĩa là Đấng Tối Cao hoặc Đấng
Toàn Năng theo quan điểm của Kitô giáo.
Một sĩ phu nổi tiếng trong Phong trào Cần Vương là Trần cao Vân đã lột tả
quan niệm của ông về “Ba Ngôi” trong vũ trụ là: Trời, Đất, Người (Thiên - Địa
–Nhân) có mối tương quan đồng cảm và đồng dẳng qua bài thơ sau đây:
Trời đất sinh ta có ý không?
Chưa sinh trời đất, có Ta trong
Ta cùng Trời Đất, ba Ngôi sánh
Trời đất sinh ta một chữ Đồng
Đất nứt ta ra, Trời chuyển động
Ta thay trời mở đất mênh mông
Trời che đất chở, ta thong thả
Trời, Đất, ta đây đủ hóa công.
Đối với Hồi giáo, Do thái giáo và Ki tô giáo, các tín đồ đều được gọi là
“những kẻ kính sợ Chúa” (God-fearers). Trái lại, người Việt Nam bình
dân không hề “sợ Trời”. Họ tin rằng nếu con người cố gắng phấn đấu cũng có thể
“thắng trời” như thường
- Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều!
hoặc cứ liều làm theo ý mình và mặc cho trời muốn làm gì thì làm:
- Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Thử xem Con tạo xoay vần đến đâu. (Nguyễn Du)
Ý niệm thông thường nhất của người Việt Nam về “Ông Trời” chính
là bầu trời xanh vật chất ở trên đầu chúng ta. Đó là môi trường thiên nhiên của
mọi biến chuyển về thời tiết như mưa nắng, gió bão v.v... thể hiện nổi bật ý
niệm này là bài thơ “Vịnh Ông Trời” của Nguyễn Khuyến (1835-1909):
Cao cao muôn trượng ấy là Tao
Dẫu pháo thăng thiên chẳng tới nào
Nhắn bảo dưới trần cho chúng biết
Tháng ba, tháng tám tớ mưa rào.
Khi người Việt nam nói “trời mưa”, “trời nắng” thì chỉ có nghĩa là thời
tiết mưa hay nắng chứ không hề có nghĩa là “Đức Chúa Trời mưa” hay “Đức Chúa
Trời nắng”!
Nguyễn Bính có hai câu thơ rất hay:
Nắng mưa là bệnh của trời
Trời của Nguyễn Bính trong câu thơ trên cũng chỉ là thời tiết mà thôi.
Trong những trường hợp khác, Trời được hiểu là Luật thiên nhiên trong vũ trụ
như:
- Cha mẹ sinh con, trời sinh tính
- Trời sinh, trời dưỡng
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ
Người Việt nam bình dân cũng quan niệm “Ông Trời” như số mệnh của con
người hoặc số phận được quyết định bởi những yếu tố vuợt quá tầm kiểm soát của
con người, chẳng hạn như:
Ngẫm hay muôn sự tại trời (số mệnh !)
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong tràn
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
Nguyễn Du
hay:
Trời sao ăn ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra
Ông Trời cũng có thể được hiểu là luật Nhân Quả, nếu ta cố gắng tu thân
và có lòng nhân ái, chắc chắn sẽ gặt kết quả tốt:
Trời sinh, trời ắt đã dành phần
Tu hãy cho bền, dạ có nhân
Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Có trời mà cũng có ta
Tu là cõi phúc, tình là dây oan (Nguyễn Du)
Trên đây là những ý niệm của người Việt nam về ông Trời đã được thể hiện
qua ca dao, tục ngữ và văn chương bác học, tuyệt nhiên không có ý nghĩa là Đấng
Tòan Năng hoặc Thiên Chúa của đạo Kitô. Ông Trời trong tâm thức của người Việt
nam luôn luôn chân chất hồn nhiên và rất hiền hòa, hòan tòan trái ngược với
Thiên Chúa trong Kinh thánh Cựu ước là một ác thần hay đúng hơn là một ác quỷ.
Vả lại, nước ta vốn là một nước nông nghiệp, truyền thống dân giả Việt
nam vốn tin vào Trời như sự tuần hoàn tự nhiên của vũ trụ thiên nhiên. Người
nông dân luôn luôn phải quan sát thiên nhiên để đoán trước các biến chuyển về
thời tiết hầu ứng dụng vào công cuộc trồng cấy:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mưa, trông gió, trông ngày trông đêm
Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng
Khi thấy người dân Việt nam hay nói đến Trời, các mục sư Tin lành và các
tu sĩ Công giáo mừng khấp khởi như bắt được vàng. Các vị này đã hết sức trổ tài
hùng biện để chứng minh rằng: Mỗi khi người Việt nam kêu “Trời ơi!” chính là
lúc họ kêu cứu một đấng Thiên Chúa đang làm chủ trên vòm trời xanh
Họ trí trá ca ngợi cái kho tàng bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc Việt
nam có một giá trị cao quí nhất là niềm tin vào ông Trời. Các mục sư Tin lành
và các linh mục Công giáo truyền đạo ra sức gò ép ý niệm Ông Trời Việt nam vào
ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô. Đây là một thủ đoạn gian trá nhằm vào mục đích
xiềng xích trì trệ chất phác của người dân quê Việt nam vào những cái khung
cứng ngắc của niềm tin giả tạo vào Thiên Chúa của họ.
Những hành động này hoàn toàn tương phản với tâm hồn chất phác của người
dân Việt vốn chỉ tin tưởng vào Thiên Nhiên và Định Mệnh con người mà thôi.
Có nhiều trí thức và tu sĩ Công giáo khai thác ý niệm Ông Trời Việt nam
để truyền đạo. Chúng ta có thể nêu lên một số trường hợp điển hình sau đây:
1. Linh mục (Lm) Trần cao Tường: Trên báo “Thế kỷ 21” số 125
tháng 9/99 có đăng bài “Đạo kính tổ tiên, điểm gặp gỡ chung cho các tín ngưỡng
Việt” của Lm Trần cao Tường. Trong bài này, Lm Tường cố ý xuyên tạc đạo hiếu và
Ông Trời để phục vụ cho mục tiêu truyền đạo. Lm Tường viết: “Có thể nói, niềm
tin vào ông Trời đã có sẵng trong tâm thức người Việt trước cả khi các tôn giáo
du nhập...” Cuối cùng, Lm Tường cố ý gán ghép ý niệm Ông Trời (tức Thiên Nhiên)
của dân tộc Việt với ý niệm Thiên Chúa của đạo Kitô (The Christian God). Khi
gán ghép như vậy, Lm Tường đã tự tố cáo sự hiểu biết nông cạn của mình vì thực
sự ông ta không hiểu gì về sự khác biệt như nước với lửa giữa Ông Trời Việt nam
và Thiên Chúa ba ngôi của đạo Kitô. Tôi sẽ phân tích rõ về sự khác biệt ở phần
cuối bài này.
2. Trí thức Công giáo Nguyễn huy Lai: Ông lai là một trí thức
Công giáo sinh trưởng tại Hà nội. Cuối thập niên 1920 ông du học tại Paris và
đậu tiến sĩ luật năm 1935. Trong đầu thập niên 1930, ông viết sách “La
Tradition Religieuse Spirituelle Sociale auVietnam” (Truyền thống Tôn giáo Tâm
linh Xã hội tại Việt nam) nhưng đến năm 1981 sách này mới được xuất bản lần đầu
tại Pháp. Ông Lai qua đời năm 1992 tại VN, thọ 84 tuổi.
Báo Đất mẹ (số 103, tháng 2/2003, trang 23) trích dịch một phần sách của
ông Lai, trong đó có đoạn viết: “Ông Trời được người Việt nam tôn kính không
phải là một ông thần hộ mệnh mà là một Thiên Chúa Ngôi vị (Dieu personnel /
Thiên Chúa Ba ngôi) ngự trị trên các tầng trời”. Trường hợp của trí thức Công giáo
Nguyễn huy Lai cũng như Linh mục Trần cao Tường nói trên, cả hai đều không nhận
ra sự khác biệt sâu xa giữa Ông Trời Việt nam và Thiên Chúa của đạo Kitô (tức
Thiên Chúa Ba ngôi). Đây là sự khác biệt như hai thái cực tương phản khiến cho
không một ai có thể đồng hóa được.
3. Linh mục Giuse Trương đức Kỷ tức Cao phương Kỷ, giáo sư
môn thần học tại nhiều chủng viện Việt nam và Hoa kỳ, tác giả sách “Thiên Chúa
giáo và Tam giáo”, 536 trang, xuất bản tại Mỹ năm 2000. Đây là một cuốn sách
triệt để khai thác và xuyên tạc ý niệm Ông Trời để phục vụ cho nhu cầu truyền
đạo Kitô.
Trong Lời giới thiệu, Lm Trần công Nghị (thuộc Hội đồng Chỉ đạo Liên tôn)
đã viết về tác giả của cuốn sách như sau: “Sọan giả nêu ra những chân lý chung
làm nền tảng mà bất cứ giáo phái nào cũng công nhận... mẫu số chung cho các tín
ngưỡng của người Việt nam là niềm tin ở Ông Trời, tức Đấng Siêu Việt”.
Rõ ràng một điều là cả Lm Trần công Nghị lẫn Lm Cao phương Kỷ đã cương ẩu
vì trong ca dao tục ngữ cũng như trong thi phú Việt nam chẳng có câu nào ca
ngợi Ông Trời là “Đấng Siêu Việt” cả. Ngay danh xưng “Ông Trời” cũng đã hàm ý -
phủ nhận cái ý nghĩa “Đấng Siêu Việt” rồi, vì liệu Lm Cao phương Kỷ có thể gọi
Đấng Siêu Việt là “Ông Siêu Việt” được không? Nếu coi Trời là Đấng Siêu Việt thì
tại sao người Việt nam lại gọi Trời là Con Tạo, Trẻ Tạo Hóa, con cóc là cậu ông
Trời? Chẳng lẽ con cóc là cậu của Đấng Siêu Việt?
Nơi trang 4 sách dẫn chiếu, Lm Cao phương Kỷ ca ngợi cố đạo Alexandre de
Rhodes là người am trường tín ngưỡng đặc biệt của Việt nam: “Cha Đắc Lộ đề cao
niếm tin cổ truyền ở một Vị Thần Siêu Việt mà dân chúng thường kêu xin là Ông
Trời.”
Quả thật, Đắc Lộ đã sáng tác ra danh từ “Đức Chúa Trời” và y là người đầu
tiên xử dụng danh từ này trong nhiều trường hợp:
- Đắc Lộ lập ra hội “Nhà Đức Chúa Trời” có mục tiêu đào tạo các thầy
giảng cho giáo hội Việt nam.
- Đắc Lộ dịch sách giáo lý bằng tiếng La-tinh “Cathéhismes” ra tiếng
Việt, đó là sách “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo
thánh Đức Chúa Trời.”
- Đắc Lộ thay thế tiếng “Chúa Dêu” phiên âm từ tiếng La-tinh “DEUS” bằng
danh từ “Đức Chúa Trời” trong các bài kinh nguyện của Việt nam. Thí dụ như kinh
Kính Mừng trước kia được phiên âm từ tiếng La-tinh như sau: “Ave Maria, đầy
ga-ra-xi-a, Đức Chúa Dều ở cùng bà...”.
Đắc Lộ là người đầu tiên đưa đạo Công giáo hội nhập vào văn hóa Việt nam
bằng cách mô phỏng danh từ “Ông Trời” để sáng chế ra danh từ “Đức Chúa Trời” đã
trở thành rất thông dụng trong quần chúng Công giáo Việt. Nhưng Đắc Lộ đã thất
bại khi gò ép chứng minh Ông Trời là “Vị Thần Siêu Việt” mà Linh mục Cao phương
Kỷ muốn chúng ta hiểu là Thiên Chúa của đạo Kitô (Christian God).
Trong thực tế, Matteo Ricci ở Trung-Quốc và cố đạo Đắc Lộ tại Việt
nam đều không dám đề cập đến Thiên Chúa của đạo Kitô là Thiên Chúa
Ba ngôi (Christian Gos is Trinity God) trong các sách giáo lý của họ. Bởi lẽ
Thiên Chúa Ba ngôi là một thứ “toán học kỳ quặc”: Ba là Một, Một là Ba. Jesus
là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, đồng thời cũng là Đức Chúa Cha tạo
thành vũ trụ vạn vật và cũng là Đức Chúa Thánh thần, chồng của mẹ ông. Nói đúng
hơn, Thiên Chúa Ba ngôi là một quái thai tư tưởng mà bản thân Matteo Rici và
Alexandre de Rhodes cũng không hiểu nổi và cũng không thể giảng giải cho người
khác hiểu được. Vì thế họ đành phải câm miệng. tuy nhiên, Alexandre de Rhodes
nhận thấy người Việt có phong tục ăn mừng suốt ba ngày trong dịp tết Nguyên đán
nên y thực hiện quỉ kế là khuyên giáo dân dành ba ngày tết để tôn thờ Thiên
Chúa Ba ngôi: Ngày mồng một tết tôn thờ Đức Chúa Cha, ngày mồng hai tôn thờ Đức
Chúa Con (tức Jeus) và ngày mồng ba tôn thờ Đức Chúa Thánh thần. Trải qua trên
ba thế kỷ, nhiều giáo xứ Công giáo Việt nam hiện vẫn còn giữ tập tục tôn thờ
Thiên Chúa Ba ngôi trong ba ngày tết. Hành động này đã khiến cho giáo dân Việt
nam mặc nhiên chấp nhập tín điều Thiên Chúa Ba ngôi mà không cần phải dùng lý
trí để phân biệt đúng sai.
Tiếp tục tán láo trong chiều hướng gò ép nhằm cưỡng chế người đọc phải
hiểu Ông Trời là Thiên Chúa, Linh mục Cao phương Kỷ viết: “Theo truyền thống cố
hữu của dân tộc Việt nam thì niềm tin vào một Đấng Bề Trên đã được biểu lộ
trong nghi lễ tế tự, ca dao tục ngữ, văn thơ và đặc biệt trong lời kêu cứu cầu
xin chân thành đặt hết ước vọng của cuộc đời vào sự quan phòng của Ông Trời
(sđd, Thiên Chúa giáo và Tam giáo, trang 387); “con người hướng tâm linh lên
một Quyền lực Thiêng liêng làm chủ tể muôn loài.... đầy tình thương xót, có thể
lắng nghe những lời cầu kinh:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy dầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.”
(sđd, trang 392)
Linh mục Cao phương Kỷ đã trắng trợn cưỡng đoạt bài ca dao Việt nam “Lạy
Trời mưa xuống” và biến nó thành một bài kinh nguyện (prayer) của đạo Công
giáo!
Linh mục Kỷ nên nhớ rằng: tuyệt đại đa số dân Việt là những nhà nông,
chuyện nắng mưa là vấn đề sinh tử đối với họ. Bài ca dao nói trên chỉ mô tả ước
vọng của nông dân Việt nam mong sao cho mưa thuận gió hòa để họ được mùa và có
gạo mà ăn. Đơn giản chỉ có vậy thôi! Khi người nông dân Việt nam nói: “Lạy Trời
mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày...” họ không hề quì gối chấp
tay với nét mặt thẩn thờ mất trí như khi người Công giáo đọc kinh cầu Chúa. Vậy
không thể nói người nông dân Việt nam “cầu kinh” với ông Trời!
Trong suốt cuốn sách dầy trên 500 trang, Linh mục Cao phương Kỷ luôn luôn
bẻ cong ngòi bút để viết những lời cường điệu thô bỉ khiến người đọc phải “lợm
giọng”. Tôi thật sự phải “lợm giọng” khi đọc những dòng sau đây:
“Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử Cứu Độ, vì tất cả mọi
sự hiện hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế thì không
có vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại, nhân sinh.” (Sách
đã dẫn, trang 113)
Tôi không biết trình độ trí thức của Linh mục Cao phương Kỷ tới mức nào
mà viết lời ca ngợi Jesus như lời của một kẻ mê sảng: “Tất cả mọi sự hiện hữu
đều do Jesus mà có”. nếu quả thật như vậy thì chuyện Jesus chết trên thập giá
chỉ là một trò hề vì cây thập giá và đoàn quân La mã đóng đinh y trên núi Sọ
đều là những sản phẩm do y tạo ra, tất cả đều do Jesus sinh ra và do y hoàn
toàn làm chủ. Vậy làm sao y có thể là một nạn nhân phải chịu cực hình để chuộc
tội thiên hạ? Ngay cả mẹ của Jesus cũng do Jesus đẻ ra hay sao?
Tôi mong Linh mục Cao phương Kỷ và Linh mục Trần công Nghị (cả hai đều là
tiến sĩ thần học) hãy bình tâm coi lại Thánh kinh Tân ước, chỉ cần tìm ra vài
câu nói điển hình của Jesus cũng đủ thấy Jesus là một kẻ khùng:
Nếu không phải là kẻ khùng thì tại sao Jesus lại dạy tín đồ: “Phúc cho ai
không thấy mà tin”? Cái giá trị cao nhất khiến con người “linh ư vạn
vật” là trí tuệ, vậy muốn xứng đáng làm người thì phải biết xử dụng trí tuệ suy
xét mọi việc trước khi tin vào bất cứ điều gì. Jesus dạy tín đồ vứt bỏ cái giá
trị quí báu nơi con người là trí tuệ để nhắm mắt tin bừa vào những điều y nói.
Vậy y chẳng phải là một kẻ khùng hay sao?
Phải chăng hai tiến sĩ thần học Cao phương Kỷ và Trần công Nghị đã vâng
theo “Lời u mê” mà vất bỏ trí tuệ của mình để viết nên cuốn sách “Thiên Chúa
giáo và Tam giáo” và viết lời giới thiệu cho cuốn sách “cỏ rác” này?
Truyền thống cao quí của dân tộc Việt nam từ xưa đến nay là Đạo Hiếu. Nói
đúng hơn, đó là truyền thống biết ơn các đấng sinh thành, các bậc tổ tiên và
còn nới rộng ra tới các vị anh hùng dân tộc nữa. Vì thế mới có bàn thờ gia tiên
trong mỗi gia đình, có đền thờ tổ, đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ Đức Thánh Trần
v.v... Nhưng Jesus hoàn toàn không biết đến đạo hiếu là gì. Jesus đã
công khai dạy các tín đồ của y như sau: “Bất cứ kẻ nào đến với ta mà không thù
ghét cha mẹ vợ con và anh chị em, thậm chí không ghét bỏ cuộc sống của chính
nó, thì không thể là môn đệ ta” (If any man comes to
me and hate not his father, and mother, and wife, and children, and brother,
and sisters, yea, even his own life, he can not be my discipline – Luke 14:26)
Vậy những kẻ tự xưng là tín đồ đạo Kitô (Christians) phải là những kẻ đại
bất hiếu vì nếu không thù ghét cha mẹ thì không thể là môn đệ của Jesus! Chẳng
những thế, họ còn phải thù ghét vợ con (bất nghĩa) và ghét cả anh chị em họ
hàng (bất nhân) nữa! Thiên Chúa của đạo Kitô dạy các tín đồ những điều
vô giáo dục như vậy sao? Vậy chính Jesus là tác giả của lời dạy đó là người như
thế nào, nếu không phải là một người vô giáo dục? Theo tôi, nếu
Jesus quả thực đã thốt ra những lời như vậy thì ông là một kẻ khốn nạn
Ngoài ra, Jesus còn tuyên bố: “Ta không đem hòa bình cho thế gian nhưng
chỉ mang gươm giáo mà thôi” (I came not to send peace to the
world, but a sword – Revelation 22:11). Riêng về điều này thì Jesus
nói đúng vì từ ngày có đạo Kitô đến nay, trên 200 triệu người đã bị giết chết
bởi những dàn hỏa, các cuộc thập tự chinh và các cuộc chiến tranh do
Kitô giáo trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra (Deceptions and Myth of
the Bible – Lloyd M. Graham, p. 463).
Jesus đã hiển nhiên là một kẻ khùng, và là một kẻ gieo tai họa cho nhân
loại như lời tự thú của chính hắn. Vậy Jesus có đáng được chúng ta tôn thờ hay
chỉ đáng cho chúng ta “phỉ nhổ”?
Tôi yêu cầu Linh mục Cao phương Kỷ hãy lên tiếng trả lời câu hỏi này. Nếu
linh mục khẳng định “Jesus đáng cho chúng ta tôn thờ” thì ông là một người đã
mất hết lý trí và niềm tin của ông chỉ là một đức tin mù (a blind faith)
! Thật sự ông chỉ là một kẻ đáng thương hại mà thôi. Dầu sao chăng nữa tôi cũng
nhận thấy Lm Cao phương Kỷ là một “trí thức” rất thông thạo Anh ngữ vì ông đã
từng là giáo sư thần học tại nhiều chủng viện Công giáo Hoa kỳ nên tôi khuyên
ông hãy tìm đọc cuốn sách best-seller của sử gia nổi tiếng Lloyd M. Graham, đó
là cuốn Deceptions and Myths of the Bible. Mong ông hãy bình tâm suy nghĩ về
những lời khuyên chí lý và chí tình của tác giả:
- “Hiểu đúng là do biết đúng chứ không do lòng tin” (Right
understanding comes from knowing, not just believing. Page 419).
- “Cái gọi là Đức Tin chỉ là niềm tin vào cái không biết. Cái không biết
cũng là cái không có thật. Đức tin vào cái không biết và không thật là sự điên
rồ. Đó chỉ là niềm tin vào những sự phỏng đoán ngu ngốc của kẻ khác” (Faith
is belief in the unknown. But since the unknown is likely the unreal also.
Faith in the unknown is foolishness, only belief in other believers’ ignorant
asumptions – page 413).
Nếu ông còn chút lương tri, chắc chắn ông sẽ nhận ra Lloyd M. Graham là
vị thầy dạy về Đức Tin Thông Minh (Intelligent Faith) còn Jesus là một “kẻ khốn
nạn” đã dậy các tín đồ và tông đồ của nó một thứ Đức Tin Mù (Blind Faith):
“Phúc cho ai không thấy mà tin”!
(Web GĐ lược bỏ hai trang viết tay, độc giả có thể tìm đọc trong bài
viết Công giáo là Đạo Thờ Bò Cải Biến trong cuốn “ Thực Chất Đạo
Công giáo và các Đạo Chúa” do GĐ xuất bản, Xuân 2003 - từ các trang 89-111;
hoặc trên websites GĐ trong tháng 6/2003 -Giao Điểm).
Lịch sử đã chứng minh: Thiên Chúa Ba Ngôi là sản phẩm của công đồng Nicea
nhằm tôn Jesus lên làm Ngôi Hai Thiên Chúa. Chính cái tín điều quái gở này đã
phát sinh ra hai hệ quả sau đây:
1. Về ngoại hình, Thiên Chúa là một “quái vật ba đầu” gồm có đầu bò El
(Chúa Cha) đều Jesus (Chúa Con) và đầu con chim bồ câu (Chúa Thánh Thần).
2. Về đức hạnh, tín điều Thiên Chúa Ba ngôi đã biến Jesus thành một đứa
con loạn luân với mẹ ruột y. Chẳng cần phải tìm bằng cớ ở đâu xa: Trong sách
Chứng nhân Hy Vọng (trang 293) tác giả là Hồng y Nguyễn Văn Thuận đã viết về
mối tương quan giữa bà Maria với ba ngôi Thiên Chúa như sau:
“Là nữ tử của Thiên Chúa Cha, Đức Mẹ đã trở thành mẹ của Ngôi Lời Nhập
Thể (Jesus / Chúa Con) và là hiền thê của Chúa Thánh Thần”. Vì cả ba ngôi chỉ
là một Thiên Chúa Duy Nhất (Tam Vị Nhất Thể) nên cùng một lúc bà Maria là con
gái, mẹ, và vợ của Jesus. Ngược lại Jesus cùng một lúc vừa là Cha, là Con và là
chồng của bà Maria. Nếu đã tin vào tín điều Thiên Chúa Ba ngôi thì đương nhiên
phải tin Jesus là một thằng con mất dạy vì y đã loạn luân với mẹ ruột của y.
Tôi thách đố toàn giáo hội Công giáo Việt nam phản bác lại điều này.
Ngoài ra, theo đúng tinh thần của Cựu ước thì Chúa Cứu Thế phải là người
thuộc dòng dõi của vua David. Nếu Jesus là Chúa Cứu Thế thuộc dòng dõi David
thì không thể là Con của Chúa Thánh Thần. Nếu thuộc dòng dõi vua David thì
Jesus phải là con ruột của Giuse và như vậy thì bà Maria đã bị mất “chữ trinh
đáng giá ngàn vàng” !
Ngược lại, nếu Jesus là con của Chúa Thánh Thần thì y không thể là Chúa
Cứu Thế vì y không thuộc dòng David. Và như vậy Jesus cũng chẳng phải là Thiên
Chúa mà chỉ là người thường như chúng ta. Vậy tại sao phải tôn thờ Jesus?
Tục ngữ Việt nam có câu “dấu đầu hở đuôi” để lột tả cái hậu quả đương
nhiên của những kẻ chuyên môn dối trá bịp bợm. Dù sớm hay muộn, những điều dối
trá cuối cùng cũng bị lật tẩy mà thôi.
Công cuộc lật tẩy mọi dối trá bịp bợm của Kitô giáo - gồm cả Công giáo
lẫn Tin lành – là nhiệm vụ hàng đầu của mọi chiến sĩ văn hóa chân chính của dân
tộc Việt nam trong giai đoạn hiện tại. Phơi bày bộ mặt thật, bỉ ối của Kitô
giáo trước công luận rộng rãi trong và ngoài nước là một phương cách hữu hiệu
để cứu nguy dân tộc và bảo vệ tiền đồ văn hóa của Tổ quốc.
Một trong những thái độ cần thiết của người chiến sĩ văn hóa là phải tự
coi mình như một người lính gác giặc, luôn luôn đề cao cảnh giác để kịp thời
phát hiện mọi tên gián điệp văn hóa của địch. Trong số các chiến sĩ văn hóa
hàng đầu trong lãnh vực này, chúng ta phải kể đến nhà nghiên cứu văn hóa chính
trị Lê trọng Văn qua nhiều tác phẩm của ông, đặc biệt là cuốn “Lột Mặt Nạ Những
Con Thò Lò Chính Trị”, 455 trang, do tác giả xuất bản tại hải ngoại năm 1991.
Tác giả đã dành ra 100 trang sách để lột mặt nạ tên gián điệp đội lốt thầy tu
là Linh mục Lương kim Định trong nhiệm vụ thực hiện y khuôn sách lược lừa bịp
của Vatican. Tác giả đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái thủ đoạn rất quen
thuộc của bọn gián điệp là “tìm cách hòa đồng để rồi đồng hóa”. Điểm mặt những
tên gián điệp văn hóa theo những tiêu chuẩn nói trên, tôi nhận thấy có hai tên
đáng chú ý là:
1. Linh mục Cao phương Kỷ thuộc Dòng Đồng Công ở Carthage, bang Missouri,
Mỹ, tác giả cuốn “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” mà tôi đã trình bày sơ lược ở
phần trên của bài viết này. Nhân tiện tôi cũng xin nói thêm vài điều về Dòng
Đồng Công. Dòng tu này được thành lập tại Bùi Chu vào đầu thập niên 1940 do lệnh
của Giáo hoàng Pio XII. Chúng ta đã biết Pio XII đã nối tiếng là tên tội phạm
chiến tranh đứng hàng thứ hai sau Hitler. Tên giáo hoàng phát xít này rất muốn
công bố tín điều: “Đức Mẹ Đồng Công cứu cuộc” (the dogma of Co-Redemtrix) nhưng
y đã không thực hiện được vì gặp phải những phản ứng mãnh liệt của Anh giáo,
Chính thống giáo và các giáo phái Tin lành. Họ lý luận rằng: Chỉ một mình Jesus
Christ có tư cách Thiên Chúa cứu chuộc loài người và Chúa không cần tới sự cộng
tác của bất cứ ai, kể cả bà Maria, để hoàn thành công cuộc Cứu độ. Tín điều
“Đức Mẹ Đồng Công cứu chuộc” đã làm hạ giá Chúa Jesus và là “chiếc đinh cuối
cùng đậy nắp hòm của sự hòa giải giữa các giáo phái Kitô” (Newsweek số ra ngày
25-8-1997).
Do đó, Vatican đã phải tạm hoãn việc công bố tín điều Đức Mẹ
Đồng Công nhưng đồng thời tìm nhiều phương cách chuận bị dư luận để sẽ công bố
tín điều đó khi có cơ hội. Một trong những phương cách chuẩn bị dư luận là
Vatican chỉ thị cho địa phận Bùi Chu lập ra dòng tu mang danh hiệu “Đức Mẹ Đồng
Công Cứu chuộc”, gọi tắt là dòng Đồng Công – Pio XII và đồng bọn tại Vatican
trong thời kỳ Đệ nhị Thế chiến đa số là người Đức rất hiếu chiến và cuồng tín
cực đoan.
Tập đoàn phe cực đoan của Pio XII đã bị Gioan XXIII loại trừ khỏi giai
cấp lãnh đạo chóp bu ở Vatican trong Công đồng Vaticano II năm 1962.
Dòng Đồng Công là cặn bã của phe Pio XII còn rơi rớt lại đến ngày nay. Mặc dầu
như rắn mất đầu nhưng những thày tu của dòng này vẫn giữ nguyên bản chất cuồn
tín cực đoan rất nguy hiểm trong nghề gián điệp văn hóa. Tôi thiết nghĩ việc
loại trừ mọi sinh hoạt của dòng Đồng Công dưới bất cứ hình thức nào tại Việt
nam là điều cần thiết. Cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của Cao phương
Kỷ là một sản phẩm văn hóa của dòng tu phản động này.
2. Linh mục Trần công Nghị là người viết Lời giới thiệu cho cuốn sách của
Cao phương Kỷ nói trên. Nghị sinh tại Phát Diệm, được gửi đi du học tại Rome
năm 1967, thụ phong linh mục năm 1971 cũng tại Rome và được gửi đi du học tiếp
tại Mỹ, sau đó trở lại Rome để lấy bằng Tiến sĩ Thần học. Trong thập niên 1990,
Lm Nghị được cử làm đại diện cộng đồng Công giáo Việt nam tại địa phận Los
Angeles. Từ 1997, Lm Nghị trở thành chủ nhiệm báo Dân Chúa kiêm Giám đốc
VietCatholic Network (vietcatholic.net) với sự cộng tác của trên 200 linh mục
và trí thức Công giáo (báo Công giáo Viet Tide số 55 tháng 8/2002, trang 20).
Để kết thúc bài viết này, tôi xin minh xác với quí vị độc giả về ba điều
sau đây:
Như đã nói ở đoạn trên, chiến sĩ văn hóa Lê trọng Văn đã chỉ cho chúng ta
thấy thủ đoạn quen thuộc của bọn gián điệp văn hóa của Vatican là “Tìm Cách Hòa
Đồng Để Rồi Đồng Hóa”. Linh mục Cao phương Kỷ đã áp dụng đúng thủ đoạn này
trong cuốn sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo” của y: Trước hết, y
vận dụng và xuyên tạc ca dao tục ngữ Việt nam để ngụy biện cho rằng Ông Trời
Việt nam là Đấng Siêu Việt. Bước kế tiếp, y xử dụng môn thần học nhảm nhí của Vatican để
chứng minh Jesus chính là Đấng Siêu Việt đó:
- “Tất cả vạn sự vạn vật đều vận chuyển theo một chiều hướng là quy tụ
lại nơi Chúa Cứu Thế (tức Jesus) như tâm điểm và tuyệt đỉnh của vũ trụ”, trang
168.
- “Chỉ nhờ vào đời sống và sự chết của Chúa Jesus mà nhân loại được tha
tội và hy vọng được hưởng phúc trường sinh”, trang 171.
- “Nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản vị hóa và đang đồng
qui vào ngôi Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu thế (tức Jesus)”, trang
351.
- “Lịch sử của vũ trụ, của nhân loại cũng là lịch sử cứu độ vì tất cả mọi
sự hiện hữu đều do Đấng Cứu Thế (Jesus) mà có. Không có Đấng Cứu Thế (tức không
có Jesus) thì không có vũ trụ, không có lịch sử, không có nhân loại”, trang
113.
Tất cả những lý luận thần học ngu xuẩn nói trên chỉ là những lời nói vu
vơ và hoàn toàn rỗng tuếch vì không có một cơ sở lý luận nào cả và tuyệt nhiên
không có bằng cớ nào để chứng minh.
Có gì chứng minh là “vạn sự vạn vật đều qui tụ vào Chúa Cứu
Thế Jesus như tuyệt đỉnh của vũ trụ”? Liệu có gì chứng minh là Jesus hiện đang
còn sống để cho “vạn vật qui tụ” vào y như tâm điểm? Lịch sử khách quan chứng
minh rằng: Tất cả các tử tội do La mã xử tử bằng cách đóng đinh trên thập giá
đều bị vứt xác cho kên kên, ác thú và chó rừng ăn thịt. Tuyệt đối không có một
xác tử tội nào được trao cho người nhà đem về chôn. Việc chôn xác Jesus trong
hang đá rồi sau đó vài ngày Jesus sống lại lên trời để rồi sẽ xuống thế gian
lần thứ hai trong ngày tận thế ... là chuyện hoang đường tồi tệ và khốn nạn
nhất trong lịch sử văn hóa của nhân loại.
Cái tư tưởng ngu xuẩn cho rằng “vạn vật đều qui tụ vào Jesus như tâm điểm
vũ trụ” hoặc “nhân loại và vũ trụ đang biến hóa theo chiều bản-vị-hóa và đang
đồng qui vào Ngội Vị Tối Cao, chính là Chúa Cứu Thế Jesu”.... chỉ có thể có
trong những đầu óc thần học như Cao phương Kỷ, Trần công Nghị. Đầu của bọn ngu
xuẩn này chẳng khác gì đầu tôm vì không có óc mà chỉ có phân mà thôi.
Bọn gián điệp ngu xuẩn này chẳng có một mục tiêu nào khác hơn là xử dụng
các ngôn từ thần học hoang tưởng nhằm lường gạt những đồng bào ngờ nghệch dại
khờ để xiềng xích trí tuệ của họ vào niềm tin Jesus là Đấng Siêu Việt và cũng
là Ông Trời Việt nam.
Để đập tan luận điệu thần học vu vơ hoang tưởng của tên gián điệp Cao
phương Kỷ, tôi đã chứng minh ca dao tục ngữ Việt nam không có một câu nào nói
Ông Trời là “Đấng Siêu Việt”. Đồng thời tôi cũng chứng minh rằng: Jesus chẳng
bao giờ là Đấng Siêu Việt, trái lại Jesus chỉ là một kẻ khùng, một kẻ khốn nạn,
một kẻ mất dạy loạn luân với mẹ của y, một kẻ ngu như bò và y cũng là một kẻ
gieo tai họa lớn nhất cho nhân loại.
Bọn linh mục ngu xuẩn làm gián điệp văn hóa cho Vatican xử dụng
tòan những ngôn từ trống rỗng và vô nghĩa để lừa gạt những người nhẹ dạ cả tin.
Trái lại, tôi xử dụng những ngôn từ thoạt đầu nghe chói tai nhưng nghĩ cho kỹ
sẽ thấy những ngôn từ đó phản ảnh sự thật:
- Phúc âm Tân ước Mattew 1:18-24 nói về thiên thần Gabriel đến báo tin về
việc giáng sinh của Jesus: “Này, một trinh nữ sẽ mang thai và sẽ sinh ra một
con trai và sẽ được đặt tên là Emmanu-El” (Behold, a vurgin shall be with child
and shall bring forth a son and they shall call his name Emmanuel).
Theo ngôn ngữ tiếng Hebrew thì Emmanuel có nghĩa là “Con bò El ở cùng
chúng ta” (El with us – xin đọc thêm “Công giáo là đạo thờ bò cải
biến” trên trang nhà GĐ tháng 6/2003). Chính Kinh thánh của đạo Kitô đã xác
nhận Jesus là một con bò . Dù là bò đực, bò cái, bò mộng hay bò thần thì cũng
là bò. Vậy tôi nói “Jesus là một thằng ngu ‘như bò’ vẫn còn nhẹ hơn là ‘một con
bò ở cùng chúng ta : Emmanu-El)!
- Khi trình bày về mối tương quan giữa bà Maria và Thiên Chúa Ba ngôi ở
đoạn trên, chúng ta đã thấy Jesus cùng một lúc vừa là cha, vừa là con và cũng
là chồng của bà Maria! Vậy, theo đúng giáo lý Kitô giáo, Jesus đích
thị là một đứa mất dạy loạn luân với mẹ. Nếu tín đồ Kitô giáo nào muốn phủ nhận
cái sự thật đáng xấu hổ này thì họ chỉ có một con đường duy nhất là phủ nhận
Thiên Chúa giáo ba ngôi và phủ nhận tính cách Thiên Chúa của Jesus, ngoài ra họ
không còn con đường nào khác!
- Tôi đã căn cứ vào những lời của Jesus ghi trong Tân ước như: “Phúc cho
ai không thấy mà tin”, “Ai không thù ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình thì
không xứng đáng là môn đệ ta....” Tôi khẳng định những lời
trên đây đã thốt ra từ một thằng khốn nạn, một đứa vô giáo dục hoặc nhẹ nhất là
thằng khùng! Tôi thách thức bất cứ ai không đồng ý với những ngôn từ tôi xử
dụng để phản ảnh những thuộc tính của Jesus theo “Thánh kinh” hoặc giáo lý của
đạo Kitô... thì xin hãy lên tiếng. Tôi thật sự cầu mong có một cuộc tranh luận
rộng rãi về vấn đề này để mọi sự thật về Kitô giáo, cũng như về cá nhân Jesus,
sẽ được sáng tỏ hơn nữa trong dư luận quần chúng trong và ngoài nước.
Điều
thứ hai: Xác định giới hạn cho công việc truyền đạo của các người truyền giáo
Kitô.
Khi nói “các người truyền giáo Kitô” là tôi muốn nói đến tất cả các tu sĩ
Công giáo, các mục sư và các người làm công tác truyền giáo của đạo Tin lành
(missionaries). Chúng ta cần nói cho họ biết: mọi người đều có quyền tự do tín
ngưỡng nghĩa là muốn tôn thờ ai thì thờ, nhưng tự do tín ngưỡng không có nghĩa
là tự do truyền đạo. Rất nhiều nước đã ban hành những đạo luật nhằm hạn chế
việc truyền đạo, nhất là đối với Công giáo và Tin lành. Chẳng hạn như ở Nga
thời Yelsin đã có đạo luật cấm truyền đạo Công giáo và Tin lành. Do thái cấm
truyền đạo Kitô với hình phạt dành cho người vi phạm là 5 năm tù và 4200 đôla
tiền phạt. Mới đây nhất, tại Ấn độ là nước có đa số dân theo Ấn giáo, mới ban
hành đạo luật cấm cải đạo sang Kitô giáo (New anti-conversion laws in Hindu –
majority India – Houston Chronicle, Saturday April 19, 2003, page 6E).
Các người Công giáo hay Tin lành muốn đưa Jesus lên Ngôi Hai Thiên Chúa
hoặc đấng Siêu Việt, đấng Toàn Năng v.v... là quyền của họ. Nhưng những người
truyền đạo Ktiô không có quyền bóp méo, xuyên tạc ý niệm Ông Trời của người
Việt nam để cuối cùng gán ghép Ông Trời với Thiên Chúa Siệu Việt của đạo Kitô.
Các người không được phép xử dụng những ngôn từ thần học mập mờ, huênh hoang,
lươn lẹo để lừa gạt đồng bào và lôi kéo họ vào bóng tối tâm linh để cuối cùng
biến họ thành tay sai mù quáng cho ngoại bang. Tất cả các âm mưu đen tối của
các người đều sẽ bị các chiến văn hóa yêu nước theo dõi, phát hiện và sẽ giáng
trả bằng những đòn đích đáng.
Điếu
thứ ba: Xác định thái độ kiên quyết, không khoan nhượng đối với bọn gián điệp
văn hóa lưu manh và ngoan cố.
Luôn luôn đề cao cảnh giác để sớm phát hiện những âm mưu phá hoại của bọn
gián điệp là điều cần thiết tiên quyết nhưng sau đó chúng ta lại ngập ngừng hay
e dè chẳng làm gì cả hoặc chỉ hành động hời hợt thì kết quả cũng chỉ là con số
không. Chúng ta cần phải khẳng định rằng: bọn gián điệp văn hóa của Vatican hay
của đế quốc Tin lành đều là bọn Việt gian cuồng tín, vọng ngoại, chuyên dùng
các thủ đoạn lưu manh lừa gạt đồng bào để mở rộng nước Chúa, thực chất là mở
rộng lãnh thổ của đế quốc. Bọn chúng đều là những kẻ thù nguy hiểm của dân tộc
Việt nam. Do đó, thái độ thích hợp nhất đối với kẻ thù là chúng ta phải đấu
tranh với chúng một cách kiên quyết không khoan nhượng nhằm mục đích cuối cùng
là loại trừ hết mọi thứ “độc tố văn hóa” mà bọn chúng đã gieo rắc trên đất nước
ta từ trước tới nay.
Chúng ta không nên nhẹ tay đối với bọn gián điệp văn hóa, bởi lẽ chúng
tuy rất lưu manh trong hành động nhưng lại là những kẻ ngủ mê trên phương diện
tâm linh. Nếu chúng ta đối xử với chúng bằng thái độ lịch sự nhẹ nhàng thì
chẳng khác nào gãi ngứa cho chúng và chúng sẽ ngủ mê hơn nữa. Muốn đánh thức
chúng dậy trong cơn ngủ mê chúng ta phải xối một thùng nước lạnh vào mặt chúng
hoặc đập vào người chúng một cú thật mạnh như trời giáng thì may ra chúng mới
tỉnh ngủ để nhìn thấy sự thật dưới ánh sáng mặt trời.
Câu hỏi trước nhất được đặt ra là: Làm thế nào để nhận diện một tên gián
điệp văn hóa lưu manh và nguy hiểm? Đó là những tên đã được bọn đại
lưu manh quốc tế ở Rome huấn luyện nhồi sọ và cấp cho học vị “tiến sĩ
thần học”. Điển hình là những tên như Linh mục Cao phương Kỷ và Lm Trần công
Nghị. Bọn này thực hiện đúng theo sách lược xâm lăng văn hóa Á châu củaVatican (Tông
huấn Ecclesia in Asia của John Paul II).
Trong sách “Thiên Chúa giáo và Tam Giáo”, Cao phương Kỷ lươn lẹo ca ngợi
Ông Trời là Đấng Siêu Việt, và dùng lý luận thần học nhảm nhí chứng minh Đấng
Siêu Việt đó là Thiên Chúa Ba ngôi của đạo Kitô. Mục tiêu cuối cùng của họ là
tạo cho đồng bào nhẹ dạ có ảo tưởng rằng: Thiên Chúa của đạo Kitô chẳng phải là
ai xa lạ mà chính là “Ông Trời Siêu Việt” của mình và Đạo Kitô cũng không phải
là một món hàng ngoại nhập mà là một niềm tin đã tiềm ẩn từ lâu đời trong lòng
dân tộc Việt nam.
Đây là một thủ đoạn vô cùng thâm độc của Vatican do bọn tham mưu đại lưu
manh nghiên cứu từ lâu và chỉ thị cho bọn gián điệp văn hóa thi hành.
Ngoài việc khai thác ý niệm Ông Trời phục vụ cho nhu cầu truyền đạo, Cao
phương Kỷ còn xuyên tạc Tam giáo (Phật, Khổng, Lão) là các đạo đều có niềm tin
vào Đấng Tối Cao như Kitô giáo. Việc đánh lận con đen Tam giáo với Kitô giáo là
một chuyện hàm hồ đáng bị vạch mặt: Trước hết, cả ba đạo Phật,
Khổng, Lão đều là những đạo của lý trí, nói đúng hơn thì đó là ba triết lý sống
hoặc ba cách sống (ways of life). Cả ba không hẳn là ba tôn giáo vì không có
giáo hội, không có giáo đồ và nhất là không có giáo điều (tín điều). Cả ba đạo
Phật, Khổng, Lão đều coi trọng lý trí và khuyên mọi người phải vận dụng lý trí
để suy xét mọi điều trước khi tin vào điều đó. Sở dĩ có “tam giáo đồng lưu” tại
nước ta vì người dân Việt nam đã vận dụng lý trí để phân biệt những giá trị
chung của cả ba tôn giáo để dung nạp vào văn hóa dân tộc và để cuối cùng làm
thăng hoa đời sống của dân tộc.
Khác hẳn với đặc tính căn bản của Kitô giáo là loại bỏ lý trí (Phúc cho
ai không thấy mà tin - lời của Jesus).
Toàn bộ hệ thống giáo lý của Kitô giáo là hàng loạt các tín điều được đưa
ra để buộc các tín đồ phải chấp nhận vô điều kiện. Do đó, cái gọi là Đức Tin
Kitô hoàn toàn chỉ là Đức Tin Mù. Trái hẳn với đức tin Tam giáo là đức tin sáng
suốt vì là sản phẩm của lý trí.
Hậu quả của đức tin mù là các tín đồ Kitô luôn luôn phải sống trong mặc
cảm tội lỗi, luôn luôn tự xưng là kẻ có tội nên cần có Chúa và bọn tu sĩ lưu
manh cứu giúp!
Bọn lãnh đạo Kitô giáo trở thành những kẻ ngạo mạn kiêu căng, lúc nào
cũng nghĩ rằng tôn giáo của mình là độc tôn và là duy nhất đúng. Điều này hàm ý
rằng các tôn giáo khác với mình đều phải chết.
Trong thực tế của lịch sử dân tộc, Tam giáo đã góp phần củng
cố nền độc lập của nước nhà, trong khi đó Kitô giáo đã đưa dân tộc vào vòng nô
lệ thực dân Pháp hơn 80 năm và hiện nay một bộ phận của dân tộc (Công giáo) vẫn
là những kẻ nô lệ tinh thần của đế quốc Vatican. Các vụ nổi loạn của những
người thiểu số Tin lành ở miền cao nguyên chứng tỏ những tín đồ Kitô giáo luôn
luôn làm nội tuyến cho ngoại bang và đi ngược lại quyền lợi thiêng liêng của tổ
quốc.
Tất cả những tai họa đó đều do bọn gián điệp văn hóa gây ra.
Cho nên thái độ cần thiết và cấp bách của các chiến sĩ văn hóa yêu nước là phải
cương quyết chiếm lãnh thế chủ động trên diễn đàn văn hóa để giáng trả bọn kẻ
thù của dân tộc những đòn đích đáng, buộc chúng phải câm miệng, cúi mặt gục đầu
và không dám ngóc đầu dậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét