Một mùa Xuân , tôi có ý định đem vứt
đi cây Quất già trồng trước cửa, nhưng lần lữa nửa muốn nửa không. Tôi nói điều
đó với chị tôi, chị bảo: “Hoa không phụ người sao người lại phụ hoa”. Vì câu
nói ấy tôi vẫn giữ cây lại. Lạ lùng thay, buổi sáng mùng một Tết, tôi bước ra
hiên và xung quanh tôi thoang thoảng mùi hương thơm từ những chiếc hoa xinh
xinh màu trắng, với những chiếc lộc non trên cành quất xác xơ. Đó là lý do tại
sao tôi đã viết câu chuyện “Giấc Mộng Đêm Xuân”.
Năm nay Xuân về, Tết đến
muộn, đã bước qua tháng hai Dương lịch nên tiết trời thật là ấm áp. Mùa Xuân đã
trải những vạt nắng hồng trên sân cỏ còn ướt sương, bầy chim cũng thức dậy hót
líu lo trước hiên nhà mỗi buổi bình minh.
Trước Tết độ nửa tháng,
Nguyễn, chủ nhân căn chung cư hai phòng ngủ, nhưng hàng hiên rất thoáng và
rộng, đã dọn dẹp mớ cây cảnh trong những chiếc chậu sành tráng men trước cửa
nhà. Tuy chưa đến tuổi điền viên, nhưng mỗi ngày đi làm về, chăm chút mấy cây kiểng
cũng là thú vui của Nguyễn, đỡ phải nghĩ ngợi chuyện đời vốn vui ít, buồn
nhiều
Sống cảnh đời cô độc,
không vợ không con, không họ hàng thân thích, Nguyễn đã quen dần với cái cô
độc, tĩnh mịch của tâm hồn. Có lúc chàng cũng nghĩ đến chuyện ở chung với một
người bạn nào đó, chia nhau chút tiền điện, tiền nước hằng tháng, nhưng chàng
lại vội thôi ngay, vì chỉ sợ sẽ đánh mất cái tự do được yên tĩnh sống một mình.
Có khi chàng tự chế giễu mình, “lòng mình còn không hiểu nổi huống chi lòng
người”. Đây chỉ là lối an ủi của người sống mà không biết rằng mình đang sống,
đau mà cố quên rằng lòng mình đang đau.
Năm nay tự nhiên Nguyễn
có ý định cần phải thay đổi một cái gì, khi nhìn những chậu cây chàng trồng
trước cửa. Hai cây thông đất khỏe mạnh tươi tốt, bất chấp sự thay đổi của thời
tiết, mấy giò phong lan đang trổ hoa rất đẹp dù không được tưới tắm bao nhiêu.
Giống này rất lạ, không ưa nước, Nguyễn tưởng sự chăm sóc sơ sài của mình thì
chẳng hoa nào sống được, vậy mà giờ này nó vẫn đơm hoa. Riêng cây quất nom có
vẻ cỗi, cách đây bốn năm cũng vào dịp Xuân về, vợ chồng người bạn đã mang tặng
chàng, với nhã ý đem cái sung túc, xum xuê, tươi thắm của cây cỏ để chàng khỏa
lấp phần nào nỗi hiu quạnh. Hai năm đầu chàng còn chăm tưới bón, nhưng đến mùa
Xuân thứ ba chỉ còn lác đác dăm quả vàng óng trên cành cây xơ xác cằn cỗi, nhìn
rõ mà phát chán. Nắng hè hừng hực rồi mùa đông giá rét đã cướp dần sinh lực của
cây, như người con gái chỉ vui có một mùa cưới, rồi thì cũng quắt quay với
những tất bật của đời.
Dạo này tự nhiên Nguyễn
hay có những nỗi buồn vô cớ, đến nỗi chểnh mảng cả việc săn sóc cây cỏ. Mỗi độ
Xuân về, Nguyễn lại nghe lòng mình chìm ngập trong một nỗi buồn không đâu. Lắm
khi chàng nhìn đăm đăm vào một chiếc lá xanh, nhìn để mà nhìn chứ hồn chàng dường
như đã gửi vào một nơi chốn rất xa xăm, có thể là một khoảnh đời trong dĩ vãng.
Ở đấy biết bao kỷ niệm buồn vui lẫn lộn, muốn thoát ra rồi lại muốn quay về,
khi con người đến lúc sống bằng những hồi tưởng dĩ vãng. Nhìn hoa, nhìn lá, lắm
khi Nguyễn đã ngậm ngùi nhìn rõ mối tương quan giữa con người và cây cỏ, mới
ngày nào tóc còn xanh mà nay đã sợi đen sợi trắng, mắt đã bớt phần tinh anh,
đuôi mắt thì hệt như một chiếc lá héo. Không có gì chống chỏi nổi với thời
gian, sự luân chuyển của vũ trụ vẫn quay đều, Nguyễn nghe như đời dần dần ngắn
lại
Đêm nay, đêm cuối năm.
Dù chỉ có một mình, Nguyễn vẫn có thói quen bày biện chút bánh trái để cúng Ông
Bà. Trên chiếc bàn con là tấm ảnh của cha mẹ chàng đã ố vàng với thời gian, tấm
hình duy nhất còn lại mà chàng nâng niu gìn giữ, từ khi gom góp mớ hành trang
xuống tàu quyết thoát ra miền quê hương khốn khổ. Trong cái đêm ngày cùng tháng
tận, mùi nhang khói lãng đãng trong không gian, lòng chàng lại chập chùng với
biết bao kỷ niệm buồn vui, rất nhiều lần Nguyễn nghe như có tiếng sụt sùi của
những giọt nước mắt, chảy ngược vào tim khiến chàng xúc động đến run rẩy.
Nguyễn mở hé cánh cửa
kính, một làn hơi mát lạnh từ bên ngoài ùa vào căn phòng vắng, không phải thứ
gió lạnh giữa đêm Xuân, mà nếu nghĩ ngợi thêm chàng cứ ngỡ đó là cái dịu dàng
của dáng Xuân, đang rón rén bước vào, quấn lấy chàng trong một cảm giác kỳ thú.
Đêm dịu dàng vô cùng, dưới sân cây hoa đào cũng đang rung rinh những nụ hoa mới
nở dưới đêm sương, Nguyễn hình dung ra cây cỏ cũng đang nín thở để tận hưởng
chút êm ái của đêm giao mùa.
Tự nhiên Nguyễn lại muốn
nghe một vài bản nhạc Xuân quen thuộc trong một đêm tuyệt vời như đêm nay. Lâu
lắm rồi, năm nào cũng đón Tết một mình, chàng có bao giờ lại có được cái êm ả
như vậy. Chàng mở nhạc rồi lười biếng thả mình trên chiếc “sofa” ngoài phòng
khách, nhắm mắt lại để tận hưởng những âm thanh dặt dìu trong đêm vắng. Trong
lúc mơ màng thả hồn với suối nhạc êm đềm, Nguyễn mơ hồ nghe như có tiếng bước
chân ngoài hành lang, tiếng lá hoa rì rào từ mấy chậu hoa, rồi giọng ngọt ngào
của ai đó gọi tên mình, ngay khi ấy bóng một phụ nữ đã xuất hiện trước khung
cửa. . .
Nàng mặc chiếc áo vàng,
màu vàng tươi thắm làm cho khuôn mặt ửng hồng, nụ cười rạng rỡ trên đôi môi
phơn phớt hồng và từ nơi nàng toát ra mùi hương của hoa cỏ, rất thanh khiết.
Chưa bao giờ Nguyễn thấy một vẻ đẹp nào thanh lịch hơn, không phải nét ngây thơ
nũng nịu của một cô gái mới lớn, cũng không son phấn lả lơi mời gọi của một ả
giang hồ. Từ nơi nàng toát ra một vẻ là lạ khiến chàng phải kính nể. Nàng lên
tiếng, âm thanh cao và trong trẻo:
“Đêm Xuân, đến thăm chủ
nhân lúc này thật là đường đột, mong ông vui lòng thứ lỗi. Gần gũi đây mà mấy
độ Xuân về, không chia xẻ được nỗi niềm với người cùng quê lòng thật là áy náy.
Thôi thì mỗi năm có một mùa, một mùa có một ngày như đêm nay, ông cho phép thì
tôi xin được vào đàm đạo mấy lời.”
Nguyễn thấy thật là lạ
lùng, tuy vậy chàng cũng vẫn giơ tay lịch sự mời khách, cố moi óc để nhớ xem
quanh đây có ai giống nàng, mà nếu có thì chàng cũng chẳng biết, vì ngày nào
cũng đi làm từ sáng tinh mơ, chiều về tưới cây qua quýt rồi lại chúi đầu vào
đọc sách. Khu chung cư lẫn lộn dân tứ xứ, lâu nay cũng thấy có nhiều người Việt
dọn đến rồi dọn đi, Nguyễn cũng chẳng quan tâm. Sự xuất hiện của người thiếu
phụ áo vàng trong đêm nay làm chàng ngạc nhiên, vừa ngạc nhiên lại vừa thích
thú. Hay nàng chỉ là một hồn ma, sự gặp gỡ một bóng ma đẹp trong đêm nay chẳng
thích thú lắm sao!
Nguyễn rót trà mời
khách, bình trà cúng giao thừa vẫn còn ấm, chủ khách nhìn nhau bỡ ngỡ. Chàng
khách sáo mở lời:
“Thật quý hóa quá! Mấy
năm nhà cửa vắng vẻ vì chỉ có một mình, nay có khách đến thăm, lại là một giai
nhân, năm nay chắc may nhiều hơn rủi.”
Thiếu phụ cũng cười,
trông nàng thật có duyên, sắc áo vàng như rạng rỡ theo nụ cười của giai nhân,
khiến nàng bội phần kiều diễm, tuy vậy người đối diện lại vẫn không dám buông
lời bất nhã.
“Cám ơn ông đã quá khen.
Trong phòng này ấm quá, nào nhang thơm, nào trà ngon, chủ nhân thật là tươm
tất. Mùa Đông đã qua, năm nay Xuân về tiết trời ấm áp, người người cây cỏ cùng
rạo rực đón Xuân sang. Riêng chủ nhân, sang năm mới phải tìm một bóng hồng cho
vui nhà, vui cửa.”
Nói xong, nàng nhìn
Nguyễn ý nhị khiến chàng bỗng dưng nghe lòng mình xao xuyến. Chàng thở nhẹ:
“Không dấu gì cô, từ
ngày sang đây đời sất bất xang bang nên chưa dám nghĩ đến chuyện vợ con. Bây
giờ đã qua đi tuổi ấy, ngoảnh lại thấy mình đã già lại càng không dám nghĩ.
Thôi thì “lần lữa ngày qua tháng lại qua”, riêng tôi lại có nỗi niềm riêng,
biết ai là người tri kỷ?”
Thiếu phụ nâng tách trà
nhấp giọng, thanh âm lắng xuống bùi ngùi:
“Biết ông đã mấy năm mà
không chia xẻ được thật là đáng tiếc. Chúng ta cùng gốc gác trời Nam, vì “tai
trời ách nước” mà phải bỏ nước ra đi, mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau
nhưng cũng đồng cảnh ngộ, lưu lạc nơi xứ lạ quê người. Qua xứ này, khác biệt từ
văn hóa cho tới phong thổ, cây cỏ còn héo hắt huống chi con người. Sẵn đây cũng
kể ông nghe, tôi được một người Việt Nam bất đắc dĩ phải bỏ nước ra
đi, mang theo làm bạn cho đỡ nhớ quê cha đất tổ. Tưởng đã bỏ thây nơi lòng đại
dương, ngờ đâu lại được đến nơi này. Đất nước quê người khác đất nước quê mình,
chí lớn không thành, sống một đời cô quạnh, chủ nhân tôi buồn rầu sinh ốm đau,
bịnh tật rồi chết, thân tôi lưu lạc bốn phương. Dù sao, vì vận nước mà phải nổi
trôi đến nơi này, nhưng có sao chăng nữa thì vẫn giữ nguyên cái tình chung thủy
với nước non, cốt cho xứng là người dân nước Việt.”
Nguyễn nghe lòng dạt dào
xúc cảm. Tâm sự của người phụ nữ áo vàng cũng giống như tâm sự của chàng, ngoài
chuyện tình cảm riêng tư thì vẫn mang một nỗi niềm chung, mang kiếp sống tha
hương nơi xứ lạ. Nguyễn thổ lộ, tự nhiên sao đêm nay chàng lại đem nỗi lòng của
mình kể cho người khác nghe, trong khi tính chàng vô cùng kín đáo:
“Cũng chẳng ai muốn bỏ
quê hương mà đi, thưa cô, dù có phải vất vả vì miếng cơm manh áo. Sang bên này,
tuy có được hít thở không khí tự do, nhưng đổi lại cũng mất mát khá nhiều. Tuổi
thanh xuân và tình yêu của tôi đã mất theo những tháng năm tù tội, rồi sau đó
dù ở trong hay ngoài vòng tù tội, tôi vẫn bị ngột ngạt trong cái không khí nặng
nề của sự nghi kỵ. Hơn nữa vợ tôi. . .”
Nguyễn im lặng thở dài.
Chàng tự hỏi không biết có nên nói ra những điều này không? Người phụ nữ vẫn im
lặng nhìn chàng chờ đợi. Nguyễn tiếp:
“Nàng gần giống như cô,
cũng hay mặc màu áo lụa vàng mỗi độ Xuân về. Xin lỗi cô nhé! Đây chỉ là sự
trùng hợp khi đêm nay cô đến đây với màu áo vàng của nàng năm xưa, thuở tôi còn
là một người lính. Nay coi như đã hết, có lẽ nàng đã thay mấy lần áo như hoa nở
mấy lần hoa, nàng còn trẻ quá làm sao chờ đợi được. Tôi không hề trách nàng dù
từ đấy đời tôi không còn có mùa Xuân, sống lêu bêu như cây cỏ, có lẽ cái số của
mình đã vậy, không thay đổi được. Đời lại không lối thoát, tôi muốn hòa nhập
vào xã hội để sống như một người bình thường, nhưng xã hội lại không chấp nhận
mình, vì thế chỉ có một cách là thoát ra thôi cô ạ.”
Thiếu phụ cúi đầu lặng
lẽ, nhưng trong mắt nàng đã rưng rưng hai hạt lệ:
“Tội nghiệp ông, sao đời
buồn thế ông nhỉ? Bao nhiêu năm nhìn ông thui thủi trong căn nhà này, tôi cũng
nghĩ ông có tâm sự gì đó nhưng không tiện hỏi. . .”
Nguyễn gật đầu. Chàng
rót thêm trà vào tách để nén xúc động:
“Thế là tôi vượt biên.
Bao nhiêu ngày sóng gió, đói khát trên biển, cuối cùng cũng đến được nơi đây.
Xã hội này mở cửa cho tôi bước vào, mười năm qua mà cũng chẳng làm được gì.
Cuộc đời thì vẫn những con người bon chen, đố kỵ, tâm hồn nhiều mất mát khiến
tôi chả thiết tha gì nữa, co rút lại trong cái vỏ ốc cô đơn của mình, mãi rồi
không muốn hòa nhập với bên ngoài, dù biết là mình vẫn sống, vẫn ăn, vẫn thở.
Đêm nay cô đến đây, có lòng chia xẻ cái vui của ngày đầu Xuân, tôi vô cùng cảm
kích. Sẵn đây cũng xin được hỏi, chắc là cô cũng ở gần đâu đây?”
Thiếu phụ áo vàng nở nụ
cười kín đáo, vẻ bí mật:
Giọng nàng ra chiều hờn
giỗi, còn Nguyễn lại ngạc nhiên quá sức:
“Thực thế hở cô? Lâu nay
tôi cứ tưởng chẳng ai chú ý đến mình nữa, không ngờ đã phụ một tấm lòng, cô bỏ
qua nhé!”
Giọng nàng thật dịu
dàng, nửa như trách móc, nửa như ủi an:
“Bởi vậy có những việc
ông làm cho người khác ông cũng không để ý làm như thế để làm gì, ông không
lắng nghe lời thì thầm giao cảm giữa đôi bên, thì làm sao thấy được niềm vui
giữa người cho kẻ nhận. Lắm khi ông lại tạo cho mình rất nhiều ngộ nhận, ích
kỷ, vô tình, lãnh đạm, hay có khi người ta cho ông là một kẻ kiêu căng, khối
người đã nghĩ về ông như thế. Riêng tôi thì tôi hiểu, bản thân ông là thiện,
không hề làm hại ai, nhưng sao không mở tấm lòng mình ra cho đời bớt khổ, cứ
phong tỏa lấy mình để rồi chán ngán một mình, cửa cứ đóng thì làm sao ai mở
được.”
Nghe những lời nàng nói,
những nhận xét của nàng chính xác đến nỗi Nguyễn phải giật mình. Quái lạ! Người
đàn bà này là ai sao có thể hiểu chàng thấu đáo, cặn kẽ đến thế. Tự nhiên chàng
ao ước, giá mình có một người bạn đường đáng yêu như vậy thì dẫu chết cũng cam
lòng. Có tới hai mươi năm rồi, từ lúc vợ chàng bỏ đi, mới đầu Nguyễn thấy lòng
đau đớn, tái tê rồi lạnh lẽo hẳn, đối với chàng từ lúc ấy, đàn bà chỉ là sự đùa
cợt, thoáng chút vui cho đời bớt phần tẻ lạnh, không thể biểu hiện cho điều gì
cao cả. Sự xuất hiện đột ngột của người thiếu phụ áo vàng đêm nay, khiến chàng
hiểu mình đã khép kín lòng mình trong hoang tàn, đổ nát, tối tăm. Thiếu phụ lại
nói:
“Ông Nguyễn ạ, có lẽ ông
phải dẹp bỏ mọi thành kiến với phụ nữ và cả với cuộc đời nữa. Tất cả mọi người
đều có giá trị như nhau, mỗi người là một đơn vị trong muôn ngàn đơn vị mà
Thượng Đế đã tạo nên, ta chẳng nên tự tôn mặc cảm hay tự ty mặc cảm. Nếu không
có số 0 làm sao 1 lại trở nên 10, cái này bổ khuyết cho cái kia là vậy. Ông
Nguyễn nghĩ xem, nếu không có người đổ rác, làm gì có sự sạch sẽ để có một môi
sinh tốt đẹp cho người khác hưởng. Ngay cả các triết thuyết của các bậc cao
nhân, cũng trở thành số 0 nếu nó không được cái đám đông của số 0 kia hưởng
ứng. Chúng ta cứ lòng vòng ở những cái tầm thường nhất, để thấy rằng chẳng có
gì là tầm thường cả, phải không ông Nguyễn?”
Nguyễn chỉ im lặng lắng
nghe, khẽ liếc nhìn nàng chờ đợi. Dáng vẻ của nàng trang trọng tuyệt vời, mà
mỗi lời nói lại vô cùng khúc triết:
“Tôi hiểu ông vì giữa
ông và tôi có những cảm nhận giống nhau, tâm cảm thì dường như đồng nhất, nhưng
quan niệm sống của mỗi người lại hơi khác. Cây cỏ mọc ở phương Nam đem
trồng trên đất Bắc, làm sao mà tươi tốt cho được. Con người cũng thế, nhưng nếu
biết thích nghi với hoàn cảnh, biết vượt qua những khó khăn nhất thời, giản dị
tìm cái tương đối của nó thì cuộc sống sẽ trở nên ý nghĩa. Chúng ta vẫn phải
làm một điều gì có thể, dâng hiến cho đời , chia cái Ta có cho Người thì mới
hoàn toàn hạnh phúc, ông có đồng ý vậy không?”
Nguyễn ngạc nhiên đến
thán phục. Những lời người phụ nữ vừa nói ra có một sức thuyết phục mạnh mẽ,
khiến chàng cũng thấy mình cần thay đổi cái nhìn, cũng như những tư duy về cuộc
sống xung quanh. Chàng tỏ vẻ bối rối:
“Vậy mà bấy lâu nay tôi
đã khổ sở với nỗi cô đơn của mình, nếu không có cuộc gặp gỡ đêm nay, biết bao
giờ tôi mới tìm lại được niềm vui của tâm hồn. Không biết thì thôi, biết rồi
thỉnh thoảng mời cô tới đây cùng đàm đạo chuyện văn chương, sách vở. . . “
Nguyễn nói với tất cả
tấm lòng thành thật của mình khiến người phụ nữ áo vàng cũng bùi ngùi xúc động:
“Tôi không biết nói với
ông thế nào, nếu cơ duyên còn gặp lại thì đó là một điều vui, nhưng nếu không
còn gặp nhau nữa thì tôi vẫn luôn luôn nhớ đến ông. Còn phải cảm ơn ông nữa là
khác, như mặc chiếc áo đẹp phải cảm ơn người thợ dệt, người này mang hạnh phúc
đến cho người kia, đó là chân lý của lẽ sống. Ngày nào mình còn làm được điều
gì tốt đẹp ta cứ làm, không mặc cảm mình là người hèn kém hay thừa thãi trong
xã hội. Giống như đêm nay, coi như chúng ta chưa biết nhau, vậy mà tôi vẫn đến
đây, để chúng ta cùng có một đêm Xuân đầy ý nghĩa.”
Nguyễn chỉ thấy ngỡ
ngàng mà không hiểu nàng nói gì. Người thiếu phụ áo vàng đứng dậy, khoát một cử
chỉ tạ từ, giọng nàng lại cất lên trong vắt, âm thanh tươi vui như tiếng hót
của một loài chim:
“Xuân về, mong ông tìm
được niềm vui cho tâm hồn, nhớ chia lại niềm vui ấy cho mọi người và mọi loài
ông Nguyễn nhé!”
Nguyễn chưa kịp nói gì
thì bóng nàng đã thoắt ra cửa, tan dần trong màn sương trắng đục như sữa. Trời
đã ưng ửng sáng, tiếng chim hót líu lo ngoài hiên làm chàng tỉnh giấc, thì ra
chàng vừa trải qua một giấc mộng. Nguyễn thấy tiếc ngẩn ngơ, dường như hương
thơm của người phụ nữ áo vàng còn vướng vít đâu đây.
Nguyễn pha một bình trà
ngon cho buổi sáng đầu Xuân, tách trà thơm như càng ý vị với hình ảnh giai nhân
trong giấc chiêm bao. Chàng mở cửa bước ra hiên, cây cỏ sau một đêm Xuân bừng
bừng sức sống, nắng vàng đã lóng lánh trên những giọt sương đêm. Lạ thay!
Nguyễn chợt nhìn thấy những lộc non đơm đầy trên cành quất xác xơ, bao nhiêu nụ
trắng đang nở hoa, tỏa mùi thơm bát ngát. Chàng nâng nhẹ một nhánh cây, trên ấy
còn sót lại một quả quất vàng từ mùa năm trước. Bỗng một làn gió Xuân làm run
nhẹ những chiếc lá non trên tay chàng, trong một thoáng bâng khuâng, Nguyễn có
cảm tưởng người thiếu phụ áo vàng chính là hồn cây quất trời Nam, đã đến
với chàng trong giấc mộng đêm Xuân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét