Tết
Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống lớn nhất trong năm của Việt Nam. Ngày
Tết không những là ngày thiêng liêng của người Việt mà nó còn mang sắc thái văn
hóa đặc thù của dân tộc ta. Trên bầu trời cao, những cánh én đã về, mùa
Xuân đã trở lại với vạn vật. Những cành lá trơ trụi của mùa Đông đã chuyển
mình với những mầm non, với lá xanh mơn mởn. Trong bốn mùa, Xuân
là mùa của ngàn hoa tươi thắm, với những cành lộc non xanh tươi vì thế mùa Xuân
được người đời ưa chuộng hơn cả. Trong niềm rạo rực đón Xuân, Hàn Mặc Tử
đã sáng tác bài “Mùa Xuân Chín”, xin hãy nghe:
Trong làn nắng ửng khói
mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm
vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo
biếc,
Trên giàn thiên lý – bóng
xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới
trời,
Bao cô thôn nữ hát trên
đồi;
Ngày mai trong đám xuân
xanh ấy,
Có kẻ theo chồng
bỏ cuộc chơi.
Tiếng ca vắt vẻo lưng
chừng núi,
Hổn hển như lời của nước
mây.
Thầm thì với ai ngồi dưới
trúc,
Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa gặp lúc mùa xuân
chín,
Lòng trí bâng khuâng sực
nhớ làng.
“Chị ấy năm nay còn gánh
thóc,
Dọc bờ sông trắng nắng
chang chang?”.
Cứ mỗi lần Tết đến, cảm thấy lòng nao nao nhớ lại những mùa Xuân êm đềm mang nhiều kỷ
niệm và cảm thấy thấm thía qua những vần thơ Xuân của
Nguyễn Bính:
Bốn biển vẫn chưa yên
sóng gió,
Xuân nầy em chị vẫn tha
hương.
Vẫn ăn cái Tết ngoài
thiên hạ,
Son sắc say hoài rượu bốn
phương.
Em đi non nước xa khơi
quá,
Nỗi độ Xuân về bao nhớ
thương.
Mỗi độ Xuân về em lại
thấy,
Buồn như tên lính ở biên
cương.
Chữ
Tết Nguyên Đán mang các nghĩa: Tết do chữ Tiết, có nghĩa là ngày lễ; Nguyên có
nghĩa là bắt đầu; Đán có nghĩa là buổi sớm mai.
Đúng ra phải dùng cả ba
chữ Tết Nguyên Đán, nhưng người Việt ta có tính giản dị nên chỉ gọi Tết hay
Ngày Tết. Chữ Tết được dùng trong nhiều thành ngữ như: Ngày Tư Ngày Tết, Năm
Hết Tết Đến, Sống Tết Chết Giỗ, Tết Nhất, Chợ Tết, Ăn Tết, Chúc Tết, Thiệp Tết,
Quà Tết, Lương Tết, Tết Thầy, Tết Xếp... Ngày Tết mang rất nhiều phong tục
cổ truyền và các phong tục này đã thấm nhuần trong lòng người Việt Nam từ
xưa đến nay.
Sửa Soạn Tết
Ngay
từ đầu tháng Chạp, ở thôn quê cũng như thị thành, thiên hạ đã bắt đầu sửa soạn
Tết. Nhà nhà lo mua heo, bò, gà, vịt để sẵn, rồi còn mua nếp, đậu hầu chuẩn bị
gói bánh chưng, bánh tét. Ngoài ra còn muối dưa, nén hành, may sắm quần áo
mới, sơn phết trang hòang nhà cửa, lau chùi bàn thờ, mua tranh, pháo, câu đối,
cùng các loại bánh mứt, trái cây, trà, rượu... Còn những người thích chơi
cảnh, chơi hoa như các loại hoa hải đường, hoa mai, bích đào, thủy tiên... phải
lo vun trồng, cắt xén để hoa kịp nở vào đầu Xuân. Đa số người Việt Nam chỉ
lo ăn Tết có 3 ngày, tuy nhiên nhiều gia đình, nhất là những gia đình
khá giả chuẩn bị Tết trong nhiều tháng trước.
Chợ Tết
Khoảng
trung tuần tháng Chạp, phố xá, chợ búa bắt đầu thêm nhộn nhịp, nhất là các buổi chợ cuối năm càng
tưng bừng tấp nập, đông đúc kẻ bán người mua. “Đông như chợ Tết”. Vào những ngày chợ Tết
hàng hóa tràn ngập, nhiều gấp bội ngày thường, nào gian hàng vải, gian hàng
bánh mứt, hàng hoa, hàng trái cây, dưa hấu bày bán la liệt. Thấy dưa hấu
là thấy Tết. Dưa hấu lềnh khênh, chất cao thành đống. Khách mua cố lựa
những trái dưa khi cắt ra ruột đỏ tươi vì người ta cho rằng mua dưa đầu năm lựa
đuợc những trái dưa ruột đỏ thắm thi suốt năm gặp tòan những điều may mắn. Còn
những người bán thì trưng bày những trái dưa mẫu ruột đỏ au để chiêu dụ khách
hàng. Đặc biệt là vào những ngày cận Tết, ta thấy các ông đồ Nho râu tóc
bạc phơ gò mình trên những tờ giấy hoa ở vỉa hè hay góc chợ, múa bút viết những
câu đối với những nét chữ “Rồng bay, Phượng múa” để bán cho những khách hàng
mua về dán ở nhà hay ở bàn thờ.
Một
trong những cổ tục của ngày Tết là đưa ông Táo về Trời. Ông Táo là cái bếp
nấu cơm trong mọi gia đình. Người ta tiễn ông Táo về Trời bằng bánh mứt,
thèo lèo, trà và pháo. Theo truyền thuyết, cứ mỗi năm vào ngày 23 tháng
Chạp, ông Táo cỡi cá chép bay về Trời để “báo cáo” với Ngọc Hoàng mọi chuyện
xảy ra dưới trần gian trong suốt năm qua.
Cây Nêu
Nói
đến Tết, theo truyền thống, người Việt nghĩ ngay đến bốn thứ điển hình là Cây
Nêu, Hoa Mai, Bánh Chưng với Tràng Pháo:
Ở
thôn quê, thiên hạ bắt đầu dựng cây nêu vào ngày 27 tháng Chạp, trễ lắm là vào
buổi chiều ngày 30 Têt, nếu tháng thiếu là ngày 29 và hạ nêu vào ngày mồng 7
tháng Giêng. Nêu là cây tre dài chặt tới gốc còn đủ ngọn lá, được dựng ở trước
sân với một cỗ mũ nhỏ và một tảng vàng buộc ngang thân, có nơi treo trên ngọn
mấy chiếc khánh và bùa chú mà người ta tin tưởng rằng có thể ngăn cản, xua đuổi
tà ma xâm nhập vào nhà để quấy phá gia chủ trong những ngày Tết. Riêng ở thành
thị vì nhà cửa phố phường san sát không tiện trồng cây nêu nên ta thường buộc
cành đa, lá dứa ngoài ngõ. Có nơi thiên hạ rắc vôi ngoài sân, ngoài cổng
với hình bàn cờ, cây cung cùng tên bắn ra đằng trước và hai bên, ngụ ý trấn giữ
nhà cửa ngăn chận tà ma.
Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông mau đến Tết dựng
nêu ăn chè.
Vật
điển hình thứ hai của Tết là hoa mai. Mai vàng là màu sắc đặc thù của ngày
Tết, thấy mai là thấy Tết và mai vàng tạo niềm rạo rực, rộn ràng trong lòng mọi
người. Cho nên, dù giàu, dù nghèo thiên hạ nhà nào cũng tạo cho được một
cành mai. Giàu có, khá giả không những tạo một nhành mai mà còn rước cả
một cây mai to lớn đầy hoa về để trang trí nhà cửa trong những ngày Xuân. Còn
nghèo khó không mua nổi một nhánh mai tươi thì cũng phải sắm cho được một cành
mai giả để cũng có màu sắc Tết cho gia đình.
Tết không mai không ai
biết Tết,
Mai không Tết chẳng thiết
khoe vàng.
Vật
điển hình thứ ba của Tết là bánh chưng. Tùy theo tục lệ từng miền, người
ta có bánh chưng hay bánh tét, đó là hương vị không thể thiếu được của mọi gia
đình trong những ngày Tết. Bánh chưng, bánh tét thường được ăn với thịt mỡ, dưa
hành hay củ kiệu. Trong lúc nhìn mai vàng nở trên cành, nghe những
tràng pháo Tết rộn rã mà ăn một lát bánh chưng hay một khoanh bánh
tét với một cục thịt mỡ và một miếng dưa hành là nuốt cả một mùa Xuân dân tộc
vào tâm hồn ta vậy.
Vật
điển hình thứ tư của ngày Tết là pháo. Pháo là âm thanh, âm điệu rạo rực
nhất của ngày Xuân. Nghe
pháo nổ là nghe như Tết đang reo vang trong lòng mọi người. Pháo bắt đầu
nổ lác đác từ chiều 23 tháng Chạp, ngày đưa ông Táo về Trời. Rồi đến Giao Thừa
pháo càng rộ lên cùng một lúc, xen lẫn trong những tràng pháo chuột là những
tiếng pháo đại nổ chát chúa, vang rền như những quả đạn pháo kích. Tết
đến, từ các cơ sở thương mại cho đến tư gia, nhà nào cũng đốt một vài phong
pháo để đón Chúa Xuân. Người ta đốt pháo từ lễ Giao Thừa và vào sáng mồng
một, mồng hai, mồng ba. Ngoài ra khi người bạn quý đến “xông đất” chủ nhà cũng
mang ra một phong pháo đốt để “nghinh tân” ngược lai, người bạn cũng đốt một
phong pháo để “Chúc Xuân” gia chủ. Còn các cơ sở thương mại, những nhà
giàu có vào ngày Tết đốt pháo thường có múa lân vì thiên hạ tin tưởng rằng lân
đến nhà đầu năm sẽ mang lại thịnh vượng.
Thịt mỡ dưa hành câu đối
đỏ,
Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh.
Mâm Ngũ Quả
Mâm ngũ quả
thường gồm thơm, đu đủ, dừa, xoài, trái sung. Phải thừa nhận rằng đa số
nguời Việt Nam, nhất là giới bình dân mang nhiều sự mê tín, dị đoan rất dễ
thương. Vì thế mâm ngũ quả chưng bàn thờ trong những ngày Tết người ta
thường chọn những loại trái cây có tên tốt, mang ý nghĩa như thơm, đu đủ, dừa,
xoài, sung... vì theo họ, những loại hoa quả nầy tượng trưng cho một năm mới
đầy thơm tho, tiền bạc trong nhà đầy đủ và cuộc sống sung túc.
Tiệc Tất Niên
Ở
thành thị, theo thông lệ, cứ đến cuối năm, thiên hạ thường tổ chức những bữa
tiệc tất niên tại các công, tư sở, xí nghiệp, trường học hầu các công tư chức,
nhân viên, hoc sinh, sinh viên, thầy cô có dịp họp mặt vui vẻ, chuyện trò thân
mật, chúc Tết lẫn nhau trước khi chia tay để về nhà hoặc về quê ăn Tết với gia
đình.
Đưa Rước Ông Bà
Vào
ngày Tết người Việt Nam ta có tục đưa rước ông bà. Trưa hôm 30
Tết người ta làm lễ cúng tất niên đồng thời đón rước ông bà hoặc người thân quá
cố để vong linh họ về sum họp với gia đình trong những ngày Xuân. Qua đến
ngày mồng bốn, ta tiễn đưa vong linh ông bà về phương cũ.
Giao
Thừa có nghĩa là cũ giao lại cho mới tiếp nhận. Hết giờ Hợi sang giờ Tý
vào lúc nửa đêm 30 Tết là Giao Thừa, thiên hạ làm lễ Trừ Tịch tiễn vị thần năm
cũ, đón vị thần năm mới còn được gọi là lễ “Tống Cựu,
Nghinh Tân”. Theo cổ tục, người ta tin rằng từ năm Tý đến năm Hợi là 12 năm thì
có 12 vị thần Hành Khiển luân phiên nhau, mỗi năm một vị lo trông coi việc nhân
gian vì thế mà ta có lễ Trừ Tịch để tiễn đưa và đón các vị thần Hành Khiển của
năm cũ và năm mới, đồng thời cầu cúng cả Bản Cảnh Thành Hoàng và Thổ Công Thần
Kỳ mà ta có câu tục ngữ “Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá”.
Lễ
Trừ Tịch ở các làng xã còn giữ cổ tục, người ta thiết lập hương án ở trong
trung thiên hoặc nơi sân đình, cũng có khi ở ngã ba làng xã với vàng mã, hương,
đèn, trầu, rượu, hoa quả, xôi gà tế lễ rất trọng thể. Trong khi tế lễ, họ
đánh trống, khua chiêng, đốt pháo vang dậy trong giờ Giao Thừa. Còn các tư
gia cũng cúng lễ Giao Thừa trong sân hay trước cửa nhà với mâm lễ vật đặt trên
bàn rồi vái tứ phương. Khi tới Giao Thừa chuông, trống ở các Đình, Chùa, Giáo
Đường khắp nơi cũng được đánh lên vang rền kèm theo tiếng pháo đón
Giao Thừa nổ giòn giã. Tiếng chuông, tiếng trống, tiếng pháo của giờ Giao
Thừa là âm điệu truyền thống của ngày Tết.
Những
kẻ đã từng nghe những âm điệu nầy trong quá khứ, vào đêm Giao Thừa họ thường gục đầu im lặng để chờ
nghe lại âm điệu ngày xưa, nhưng giờ Giao Thừa cứ lặng lẽ trôi qua và những âm
điệu âu yếm kia vẫn biền biệt, khiến họ hụt hẫng.
Về
Giao Thừa, nữ sĩ Hô Xuân Hương có hai câu đối như sau:
Tối ba mươi khép cánh càn
khôn,
Kẻo sợ ma vương đem quỷ
tới.
Sáng mồng một lỏng then
tạo hóa,
Để cho thiếu nữ rước Xuân
vào.
Tiền Của Vào Như Nước
Ở
thành thị, phố phường ta có tục lệ sau giờ Giao Thừa, những người gánh nước
mướn tự động gánh nước đến những nhà trong hàng xóm một vài đôi nước ngụ ý rằng
năm mới gia chủ sẽ làm ăn phát đạt “tiền của vào như nước” và gia chủ vui vẻ
thưởng tiền rất hậu. Cũng có những người buôn bán, vào những ngày cận Tết đã ân cần
dặn trước những người gánh nước thuê đừng quên gánh nước đổ vào nhà cho mình.
Đi Lễ Chùa, Giáo Đường Và
Hái Lộc
Sau
khi cúng Giao Thừa xong, thiên hạ làm lễ Thổ Công rồi sửa soạn đi lễ tại các
Đền, Miếu, Đình, Chùa, Giáo Đường để cầu phúc, cầu may cho năm mới. Ngoài
mục đich đi lễ Phật, lễ Chúa, lễ các vị Thần Linh họ còn có dụng ý hái lộc và
xin xăm. Hái lộc là một tục lệ nên thơ của người Việt Nam.Người ta
tin rằng lộc là lộc của Trời vì thế hái lộc đầu năm sẽ mang lại nhiều may mắn,
thịnh vượng cho suốt một năm. Vì lẽ đó mà vào ngày đầu năm thiên hạ già, trẻ,
trai, gái chen chúc nhau lên Chùa để hái lộc. Còn xim xăm, đa số
người Việt rất tin vào số mệnh nên song song với việc lên Chùa lễ Phật, hái lộc
họ còn lên Chùa để xin xăm hầu biết vận mệnh của mình và gia đình mình trong
năm mới. Hình thức xin xăm là sau khi van vái Trời, Phật với tất cả lòng thành
rồi người ta rút một thẻ xăm trong ống (hoăc lắc cho thẻ xăm rơi ra), đọan mang
đến cho người đoán xăm, đôi khi là một thầy bói, đôi khi là một nhà sư để giải
đoán dùm những ngụ ý trong quẻ xăm. Hầu hết những người lên Chùa xin xăm vào
dịp đầu năm đều ra về với vẻ mặt “vui như ngày Tết” vì những lá xăm của họ đều
hứa hẹn những điều tốt đep.
Xông Nhà, Xông Đất
Theo
cổ tục, vào đầu năm người đến nhà ai trước nhất là người “xông nhà, xông đất”
cho gia chủ và thiên hạ tin rằng đầu năm mới được người vui vẻ, dễ tính, tốt
nết hoặc những người có tên như: Thương, Mến, Hùng, Dũng, Đẹp, Giàu, Sang, Phú,
Quý, Thịnh, Vượng, Tài, Báu, Lợi, Phước, Lộc, Thọ, Có, Tiền, Bạc, Vàng, Triệu,
Tỷ, Thơm... đến nhà trước nhất thì gia chủ sẽ được mọi chuyện tốt
lành, đẹp đẽ, thịnh vượng, phú quý, may mắn quanh năm. Còn ngược lại, gặp người
khẳn tính, cộc cằn, độc ác, khờ dại, ngu ngơ, đần độn hoặc những người có tên
như: Nghèo, Khổ, Xấu, Ghét, Ngu, Hư, Thúi, Chết, Xụi, Thua, Lỗ, Nợ, Nần, Túng,
Thiếu, Đau, Ốm, Bệnh, Ghẻ, Chốc, Bại, Xụi, Bần, Hàn, Đói, Rách,
Gian, Ác... thì suốt năm gia chủ làm ăn lủng củng, thất bại hay gặp những
chuyện vẩn vơ, bực mình.... Chinh vì vậy mà các cụ lớn tuổi hoặc những
người còn mang nặng cổ tục rất kén chọn người đến xông nhà, xông đất, thường họ
mượn người tốt nết, tinh tình dễ thương, có tên đẹp đến xông đất dùm. Còn
trong gia đình, sau khi đi lễ Chùa, Nhà Thờ về là xông đất nhà mình và gia đình
thường để cho người tốt nết nhất vào nhà trước.
Theo
tục lệ, người đến xông đất đốt một phong pháo và chúc gia chủ mọi điều tốt
lành, tùy theo trường hợp, lời chúc có thể:
- Nếu
gia chủ có cha mẹ già thì chúc “Tăng phúc, tăng thọ”
- Nếu
gia chủ là nhà nông thì chúc “Phong đăng hòa cốc”
- Nếu
gia chủ là một nhà công kỹ nghệ thì chúc “Tốt tài sai lộc”
- Nếu
gia chủ là một thương gia thì chúc “Buôn may, bán đắt, nhất bản vạn lợi”
- Nếu
gia chủ là một công chức thì chúc “Mau thăng quan, tiến chức”
Trong trường hợp chẳng
may gặp người xấu nết, tính tình cộc cằn hay xui hơn nữa bị một lão ăn mày đến viếng
đầu năm thì gia chủ phải lấy gạo, muối ra vãi tứ phía và cúng vái gọi là “đốt phong long” rồi
chờ một người khác khá hơn đến “tái xông”
Mừng Tuổi Và Chúc Xuân
Một
trong những tục lệ đẹp đẽ nhất của người Việt Nam là mừng tuổi ông
bà, cha mẹ vào dịp đầu Xuân. Đây là một hình thức hiếu đạo của con cháu
đối với công ơn dưỡng dục của các đấng sinh thành đã nuôi dưỡng nên minh mà chỉ
Việt Nam mới hãnh diện có cổ tục nầy trên thế giới ngày nay.
Mừng
tuổi là mừng ông bà, cha mẹ thọ thêm một tuổi. Sáng mồng một Tết, sau khi
ông bà, cha mẹ khăn áo chỉnh tề, con cháu cũng xúng xính trong những bộ quần áo
mới, trải chiếu xuống đất lạy 2 lạy đồng thời chúc ông bà, cha mẹ những lời tốt
đẹp, hiếu thảo. Ông bà, cha mẹ cũng chúc lại con cháu ngoan ngoãn, thông
minh, chóng lớn, học hành mau đỗ đạt rồi cho con cháu những tờ giấy bạc mới
đựng trong những phong bì màu đỏ gọi là tiền “lì xì”, có nghĩa là những đồng
tiền may mắn.
Ngoài
tục lệ mừng tuổi, vào ngày Tết thiên hạ còn có lệ chúc Tết lẫn nhau. Nếu ở
xa người ta gởi thiệp, còn nếu ở gần bạn bè, họ hàng thăm viếng và chúc Tết với
nhau. Những lời chúc thông dụng là “Phước, Lộc, Thọ”, “An Khang, Thịnh Vượng”,
“Vạn Sự Như Ý”, “Sống Lâu Trăm Tuổi”, “Tân Xuân Vạn Hạnh”, “Con Đàn,
Cháu Lũ”, “Tiền Vào Như Nước”, “Tiền Rừng Bạc Biển”, “Đa Tài, Đa Lộc”, “Mau
Thăng Quan, Tiến Chức”...
Ngoài
việc họ hàng, bạn bè thăm viếng chúc Tết lẫn nhau, các nhân viên thuộc quyền ở
các cơ quan, đơn vị vào ngày Tết cũng có lệ đến chúc Tết các xếp của mình. Kèm theo những
lời chúc Tết đẹp nhất, họ còn có “quà biếu” cho các xếp họ nữa. Xin hãy nghe
bài “Chúc Tết” của nhà thơ trào phúng Trần Tế Xương:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
nhau,
Chúc nhau: Trăm tuổi bạc
đầu râu.
Phen nầy ông quyết đi
buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa
giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
giàu,
Trăm, nghìn, vạn, mớ để
vào đâu.
Phen nầy ắt hẳn gà ăn
bạc,
Đồng rụng, đồng rơi lọ
phải cầu
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
sang,
Đứa thì mua tước, đứa mua
quan.
Phen nầy ông quyết đi
buôn lộng,
Vừa bán, vừa la cũng đắt
hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc
con,
Sinh năm, đẻ bảy được
vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người
đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Kiêng Cữ
Đa
số người Việt Nam ta tin rằng việc gì xảy ra đầu năm thì sẽ liên tục
xảy ra suốt năm vì thế ta có rất nhiều tục kiêng cữ trong những ngày Tết:
Giông
Giông
có nghĩa là xui xẻo, cho nên vào những ngày cuối năm có mượn đồ vật hoặc nợ nần
của ai thì phải lo trả vì nếu để sang năm mới người ta đến đòi thì bị “giông”. Vì
thế vào những ngày cuối năm, các chủ nợ thường đến đòi tiền các con nợ vì để
qua năm mới đến đòi sợ “giông” người vay nợ. Ngược lại, các con nợ Tết đến cũng
lo chạy đôn, chạy đáo để thanh toán tiền nợ của mình vì sợ để leo qua
năm mới sẽ bị xui và sẽ bị mang nợ suốt cả năm nên ta có câu:
Khôn ngoan đến cửa quan
mới biết,
Giàu khó ba mươi Tết mới
hay.
Cữ Quét Nhà
Vào
ngày Tết người ta cữ quét nhà trong suốt ngày mồng một, mồng hai và mồng ba vì
sợ rằng quét nhà sẽ quét hết tiền bạc, của cải và các điều may mắn ra ngoài. Nều
nhà có rác, ta chỉ quét sơ và gom vào một xó để chờ hết Tết rồi mới đem đi đổ.
Cữ Quần Áo
Trong
những ngày Tết, người Việt ta cữ ăn mặc quần áo trắng hoặc đội khăn
trắng vì sợ trong năm sẽ có tang.
Vào
những ngày đầu năm, người trong gia đình phải hết sức thận trọng về “lời ăn
tiếng nói”, chỉ nên dùng những lời lẽ đẹp và tránh những lời nói không hay như
khỉ, chết, đau, ốm hay những lời nói tục tằn, chửi thề... để suốt năm không gặp
những chuyện xui xẻo.
Cữ Đánh Con
Vào
ngày Tết cha mẹ phải cữ đánh con cho dù rằng vào những ngày nầy con cái “phá
như quỷ” cha mẹ cũng đành dằn lòng vì nếu đánh con trong những ngày Tết thì con
sẽ bị “huông”, nghĩa là suốt năm con sẽ bị đòn hoài.
Ngoài
các điều trên, thiên hạ còn kiêng cữ nhiều thứ khác trong ngày Tết như kiêng
cãi nhau, kiêng đánh lộn, kiêng gây tiếng động, kiêng làm vỡ chén bát, ly tách,
kiêng tiếng khóc dù là tiếng khóc của trẻ con đòi bú sữa. Ngoài việc kiêng
cữ những điều “xấu”, người ta còn phải làm những điều “tốt”, đó là tục lệ đi
mua muối đầu năm. Muối tượng trưng cho sự đâm đà, mặn mòi. Nhưng
ngược lại ta cữ đi mua vôi vì vôi tượng trưng cho sự bạc bẽo, vong ân, bội
nghĩa như ta thường nghe câu “ăn ở bạc như vôi” vì thế dân gian có câu tục
ngữ “Đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi”.
Bói Toán
Vào
ngày đầu năm người Việt ta thích đi xem bói toán để biết vận mệnh của mình
trong năm mới. Bói toán có nhiều cách, như bói Kiều, bói sách, bói tuồng,
nhờ thầy bói xem bói dùm... Bói Kiều là lấy cuốn Kiều ra để trên bàn, sau khi
thắp hương đèn và khấn vái Nguyễn Du, Thúy Kiều, Kim Trọng rồi người ta lật bất
cứ trang nào của Kiều ra xem, những câu thơ sau đây được xem là tốt:
Dưới dòng suối chảy trong
veo,
Bên cầu tơ liễu bóng
chiều thướt tha.
Kiều từ trở gót trướng
hoa,
Mặt trời gác núi chiêng
đà thu không.
Gương nga chênh chếch dòm
song,
Vàng gieo ngấn nước, cây
lồng bóng sân.
Đầu
năm mà gặp nước, gặp cầu, gặp vàng thì không có gì may mắn, hạnh phước cho
bằng. Nước tượng trưng cho tiền bạc nên ta có câu thành ngữ “tiền vào như
nước”, còn cây cầu tượng trưng cho sự thông giao, sự liên lạc, sự đoàn tụ và
vàng tượng trưng cho sự giàu sang, phú quý.
Ngược
lại những câu thơ sau đây được xem là điềm xấu:
Sai nha bỗng thấy bốn bề
xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao,
Đầu trâu, mặt ngựa ào ào
như sôi.
Già giang một lão một
trai,
Một dây vô lại buộc hai
thâm tình.
Hoặc:
Sầu đong càng lắc càng
đầy,
Ba thu dồn lại
một ngày dài ghê.
Đầu
năm bói Kiều mà gặp cảnh gia đình tan nát, phân ly hay gặp cảnh “Sầu đong càng
lắc càng đây” như trên thì người ta tin rằng đó là điềm xui xẻo.
Bói
sách cũng tương tự như bói Kiều, còn bói tuồng là ngày Tết ta chọn tuồng hát để
xem, nếu xem nhằm tuồng kết thúc cốt chuyện bằng sự sum họp, thắng lợi, hạnh
phúc, giàu có là điềm may. Còn nếu tuồng hát kết thúc bằng cảnh gia đình tan
nát, chia ly, chết chóc là điềm không tốt. Ngoài việc bói Kiều, bói sách, bói
tuồng, thiên hạ còn tìm đến các thầy bói để nhờ xem dùm vận mệnh, tình duyên,
công ăn, việc làm của mình trong năm mới.
Khai Bút
Vào
dịp đầu Xuân, người Việt Nam ta có tục lệ tao nhã khác đó là tục lệ
Khai But đầu năm. Khai Bút là năm mới cầm bút viết lần đâu tiên. Những
người thường hay viết lách như các cụ đồ, các nhà khoa giáp, các văn nhân thi
sĩ, các nhà báo vào dịp đầu Xuân chọn ngày giờ tốt lấy giấy mực ra làm thơ,
viết văn, ngâm vịnh và thưởng Xuân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét