Anh thương em,
thương bóng, thương dáng,
thương dạng, thương hình.
(Dân ca Nam Bộ)
Tôi luôn háo hức mỗi khi
nhận được bưu phẩm từ cặp tác giả phương Nam mà tôi hằng ngưỡng mộ: chàng nhạc
Lư Nhất Vũ và nàng thơ Lê Giang. Lần này cũng thế, vì tôi đoán tập bản thảo mới
chẳng thua kém các cuốn sách đàn anh đàn chị của nó, nghĩa là không chỉ nặng
tay, mà còn nặng tình nặng nghĩa, ngay ở tên gọi mượn lời ca xa xưa: Thương
vì bóng nhớ vì hình (1).
Một lần nữa tôi lại theo
tác giả lội ngược thời gian trở về những năm 80-90 của thế kỷ trước, đến các
miền quê mà tôi chẳng có cơ hội đặt chân tới, gặp không ít con người vô danh
nắm giữ kho báu vô hình, mường tượng qua con chữ và bản ký âm những câu hát
truyền miệng qua bao đời.
Đây là cơ hội cho người
thiếu hụt kiến thức nhạc cổ như tôi có thể tiếp cận tài sản vô giá qua các góc
độ khác nhau: đời và đạo. Chất đạo và chuyện đời đan xen, bồi đắp, tôn nhau lên
qua ba phần chính của cuốn sách: phần đầu sống động tính thời sự, phần giữa sâu
sắc tính lý luận và phần cuối dạt dào cảm xúc văn chương. Nếu hai phần đầu là
hành trình từ đời đến với đạo, thì phần cuối giữ vai trò tái hiện bằng sự trở
lại với chất đời.
Nhật ký, bút ký điền dã
sưu tầm dân ca Nam bộ (phần
I) kể cho bạn nghe chuyện tầm sư học đạo của những người “lang thang trong
trường đời” (2) một cách âm thầm và bền bỉ. Từ một gia đình nhỏ của cặp vợ
chồng thơ - nhạc, đoàn sưu tầm tăng dần nhân khẩu thành một đại gia đình gồm
các nhạc sĩ, nhà thơ, ca sĩ thế hệ khác nhau, người lớn nhất và người nhỏ nhất
cách nhau chừng ba bốn chục tuổi, nhưng cùng chung một tình yêu với cội nguồn,
cùng say như mắc ngải những câu hát mùi bùn nối lòng với lòng, tình với tình,
thời gian với thời gian.
Rất nhiều chuyến lên
rừng xuống biển dọc ngang miền Đông miền Tây Nam Bộ. Không ít địa danh trở lại
không chỉ một lần: đây cực Tây Nam Kiên Giang với Phú Quốc đầy sóng gió; đây
sông nước Hậu Giang với vùng nước ngọt Cái Côn và nước mặn Long Mỹ; còn đây nữa
xứ dừa Bến Tre, đất đỏ Sông Bé, rừng tràm Chiến khu Đ...
Xóm ruộng, xóm núi, xóm
chợ, xóm chùa, xóm chài... giữa khung cảnh miệt vườn, cánh đồng, thôn làng,
phum sóc, nương rẫy, kinh rạch, ven sông, bãi biển là hình ảnh thân thương của
những “nghệ sĩ nhân dân” tóc bạc da mồi, mắt mờ răng rụng. Họ đấy, những cái
tên khiêm nhường như chính cuộc đời họ, những bà Bèo, bà Cóc, những ba má dì
dượng Phèn, Bực, Bặm, Bảnh, Đành, Khởi, Nhiều, Nhành, Sào, Xèng, Ngấn,
Ngoạt...
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi6UYf61YEkTXD8whIFGDI2DPapsV2j7m126rWOqSWKO9GXnWoerMkidPGrIe5hg580s8K_CgzYY3GWIgeSh2KZi5RTG40arKDq6O0yPuS88GlUXPb5HB3fgG-IN8ArJ1MoOkY4Rq6NbsZZ/s1600/12.jpg)
Bạn còn bắt gặp những
bóng dáng dễ thương thoắt ẩn thoắt hiện trên các trang nồng ấm kỷ niệm điền dã,
đấy là bầy con nít tóc tai khét nắng vàng hoe, mồ hôi nhỏ giọt chua hoắc. Đám
trẻ tròn môi, trố mắt trước cái máy kỳ lạ giữ giọng hát ở lại trong nhà khi ông
chúng đã bước ra sân. "Bà con cũng hát giống cái máy hát này. Nội con biết
lý con cua. Ngoại con biết lý con kiến. Bà Năm biết hò đi cấy. Ông Tư giỏi hò
ghẹo, hò o mèo..." Chính là chúng, lũ nhỏ đồng quê lấm lem chân đất luôn
nhen lên niềm hy vọng trong những lúc tưởng chừng vô vọng. Chúng chia nhau tất
tả loan khắp làng trên xóm dưới như một đội tuyên truyền “nằm vùng” tình nguyện
cho những người mò ngọc trai giữa biển nhân gian.
Tìm hiểu dân ca
Nam Bộ (phần II) là phần
nặng cân nhất nếu định lượng bằng con mắt học thuật. Được đúc kết từ nhiều năm
miệt mài kiếm tìm, thống kê, phân tích, phân loại, tổng hợp..., những trang tư
liệu quý báu này cùng với hơn chục cuốn sách đã xuất bản của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ
là đóng góp đáng kể cho ngành nghiên cứu âm nhạc nước nhà - một lĩnh vực lâu
nay vẫn bị liệt vào diện nghèo vì quá thiếu và quá yếu.
Bạn được dẫn dắt vào
không gian của những câu hát ru nâng giấc một đoạn đầu đời, những bài đồng dao
nhộn nhạo tuổi thơ ngây, để lớn dần lên theo những điệu lý câu hò thấm đẫm buồn
vui phận người.
Bạn chẳng những có thể
nghe thấy tiếng vó khua rền trong cuộc hành trình Bắc - Nam của Lý ngựa
ô hay dõi theo đường bay tứ xứ của Lý con sáo, mà còn nhận
ra bài học nhân thế ẩn náu trong những khúc nói thơ hoặc thơ rơi, chiêm ngưỡng
những màn diễn xướng phong tục lễ nghi đa sắc của đời sống tâm linh như hát sắc
bùa, bóng rỗi...
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiTDeLfmT-FrujnEqVnaIXH5sGeUoySk0uYI57_BjNRJZ83S6fBjGqzrkDeolzFV5rIqD7gCNoRHG8fBQ3k7BN__hfdNrGrF-gPvmn1GyTHjsAGK6WCLJpyG8Zpy8KnPvAgRMvAgIK8z87Y/s1600/29c5rae.gif)
Bên cạnh đó còn gợi mở
không ít vấn đề liên quan tới vị trí dân ca Nam Bộ trong đời sống hiện tại, như
tính chất mới trong nhạc cổ thông qua việc đặt lời mới cho dân ca, và ngược
lại, vận dụng chất liệu cổ trong sáng tác mới.
Bạn được nhắn nhủ rằng:
có nhiều điều để học từ dân ca, nhưng cần học trước hết là cách xử sự sao cho
phải với dân ca. Bao nhiêu năm thiếu hiểu biết dẫn đến bất công, tùy tiện lạm
dụng vốn cổ như xài lộc của chùa, lẫn lộn bài hát mới sáng tác với dân ca nhạc
cổ. Vì thiếu công bằng với dân ca, đương nhiên cũng thiếu luôn sự tôn trọng đối
với người sưu tầm dân ca - những người đi tìm kho vàng không nhờ phương tiện
máy móc tối tân mà chỉ bằng tấm lòng mình.
Nhà nghiên cứu lợi thế
hơn nhiều nếu bản thân họ cũng là dân sưu tầm. Người sưu tầm lợi thế hơn nhiều
khi nắm vững nghệ thuật chinh phục lòng người, bởi cái cốt lõi ở đây không phải
kiến thức sách vở cao siêu, mà cần hơn hết vẫn là cái tâm cái tình. Với cái
tình ấy, những người sưu tầm vượt bùn lầy nối đuôi nhau bò qua cầu khỉ, vượt
lốc xoáy tốc mái lá thi gan với đất trời, nhóc nhách nhai miếng cau khô cùng
mấy bà già trầu, ngủ chung trên bộ ván cũ kỹ với các ba các má..., để có một
ngày được chọn mặt gửi vàng nghe các ba các má xuất thần rút ruột nhả tơ.
Với giọng văn tự nhiên
có cái duyên hổng giống ai của nhà thơ Lê Giang, Bộ
hành với ca dao, dân ca (phần III) là nơi chan chứa hơn cả hai chữ:
tình người.
Khúc dạo đầu của tiếng
hát cầu hôn, Có một kiều
hôn như thế, Vài thuật yêu đương của các bậc sư phụ, Thi
khóc về tình, Bà ơi tui hổng sợ bà đâu... bạn khó mà làm ngơ trước
những tản văn mang tiêu đề câu khách như thế. Mượn ngôn từ thời a còng mà nói
thì thế này: cách chào hàng cho dân ca ở đây quả là những chiêu độc khó
đỡ!
Những câu ca được sắp
đặt theo kịch bản tưởng tượng sinh động cho các màn kén chồng, kiếm vợ, làm
quen, tán tỉnh, thử lòng, trách móc, hiểu lầm, hờn ghen... Vì tình, các chàng
các nàng khóc thầm, khóc điếng, khóc ngất, khóc òa, khóc ré, khóc gào...; rồi
lại cười gượng, cười trừ, cười lạt, cười cợt, cười hiền, cười giòn...
Tình đời gửi vào câu ca
thật muôn màu muôn vẻ. Nội cái vụ ve gái thôi cũng dăm bảy đường ve, bởi “không
biết chọc gái còn gì là trai”! Hãy nghe chàng mở lời ướm thử:
Thấy em đẹp dáng tốt
hình
Chẳng hay em có chung
tình đâu chưa?
Rồi ngỏ ý rủ rê:
Hò chơi đôi câu có chi
đâu mà sợ
Chiều hai đứa lên bờ anh
trả căn nợ cho em
Được đà rồi thì dấn tới:
Anh thương em anh lấy
cẳng anh khèo
Thả sức lẻo mép đong
đưa:
Bớ cô má lúm đồng
tiền
Cho hun một chút đỡ
nghiền khi xa
Chẳng may vớ phải một
nàng là tay hò chẳng vừa, trò cưa cẩm mùi mẫn có nguy cơ chuyển sang hỗn chiến:
Anh muốn hun vậy mà cũng
khó
Anh trở về nhà... bắt
chó anh hun
Cứ thế cất lên giữa đất
trời mọi nỗi niềm của chàng với nàng, chồng với vợ, má với con, thày với trò,
mẹ chồng với nàng dâu... Chẳng cứ có người với người thì cái miệng mới hát hò
không cho lành da non, mà cả lúc chỉ riêng ta với ta thôi lòng cũng cất tiếng
ca. Và không chỉ chuyện tình chuyện nghĩa, bởi dân gian làm sao có thể
thiếu vắng chất hài và những trò thách đố chơi chữ đòi hỏi lanh trí chứ!
Bạn nên nhớ đã nói lái
thì phải đẳng cấp Nam Bộ nha, nghĩa là hai từ hoán đổi phụ âm cho nhau chứ
không đơn thuần chỉ đảo dấu giọng như xứ Bắc:
Con cá đối nằm trên cối đá
Con mèo đuôi cụt nằm mục đuôi kèo.
Bạn còn có thể nghe ông
bà ta triết lý sự đời:
Mai mưa trưa nắng chiều
nồm
Trời còn luân chuyển
huống mồm thế gian.
Rồi lại ngoa ngôn:
Xứ tôi là xứ ăn
chơi
Gánh nước bằng rổ không
rơi giọt nào.
Và bỡn cợt giỡn chơi:
Bà già đi lượm mù u
Bỏ quên ống ngoáy chổng
khu la làng.
Vậy đấy, một cuốn sách
đi từ tâm để đến với tình, từ tình để
đến với trí; một cuốn sách gắn liền thực tế dân dã với lý luận âm
nhạc, từ đó dẫn đến những bài học kinh nghiệm cho mọi lĩnh vực: sưu tầm, biên
soạn, nghiên cứu, sáng tác và biểu diễn. Nếu bạn cũng như tôi đánh giá cao vai
trò của việc tự học trong trường đời vào thời buổi bát nháo thật giả bằng cấp,
chức danh, học hàm học vị, thì nên học hỏi từ những bảo bối như thế này.
Gấp tập bản thảo dày
cộp, mang nặng tình yêu dành cho câu hát cổ truyền và lòng tôn kính những người
lưu giữ chúng, tôi càng thêm kính trọng hơn những người làm nên cuốn sách này.
Bỗng như còn nghe văng vẳng đâu đây câu hò giã biệt:
Chiều nay thì
anh về xứ, còn bỏ em ở lại mà thương vì bóng nhớ vì hình, tội nghiệp thân em...
1. Thương vì
bóng, nhớ vì hình là tên của tập bản thảo. Do yêu cầu xuất bản,
cuốn sách của nhóm tác giả Lư Nhất Vũ - Lê Giang - Lê Anh Trung đã giảm bớt số
trang cùng nhiều thí dụ nốt nhạc và phải đổi tên khác: Nhật ký điền
dã. Cuối cùng nhờ nhà thơ Lê Giang "đấu tranh",
cuốn sách ra mắt với tiêu đề lấy từ một ý trong bài giới thiệu trên: Đi
tìm kho báu vô hình (Nxb Văn hóa Văn nghệ, TP.HCM,
2013).
2. Phan Nhân, Như
mây lang thang, ca khúc viết tặng đoàn sưu tầm dân ca Nam Bộ.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 359, tháng 5-2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét