Trăng trong thơ văn Việt Nam
Trăng là nguồn cảm hứng vô tận của
người Việt ta trong kho tàng văn học bình dân cũng như của biết bao văn nhân,
thi sĩ trong nền văn chương bác học.
Ngoài danh từ thông thường là “trăng”, trăng còn được
người Việt ta gọi bằng nhiều tên khác, rất thi vị thì có: gương nga, bóng nga,
bóng nguyệt, nguyệt thiềm, …; huy hoàng đài các thì có: cung Quảng, cung
Thiềm, cung Hằng, cung Quế, … Chúng ta còn tưởng tượng ra các nhân vật cư ngụ
trên mặt trăng như Hằng Nga (hay chị Hằng), chú Cuội, thỏ ngọc, … cùng các giai
thoại lý thú về các vị này như: Hằng Nga cùng các tiên nữ múa hát điệu Nghê
Thường vào đêm rằm tháng Tám, chú Cuội ngồi dưới gốc cây đa nhớ nhà chú ở địa
cầu, v.v…
Trong toàn khúc Chinh Phụ Ngâm ta thấy rải
rác đó đây chữ “trăng”, chữ “nguyệt”. Trăng gợi lên những tình cảm khác nhau
của chinh phụ, khi nhớ thương, khi lo lắng, khi đau đớn:
-
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ
chàng xa ngoài cõi Thiên San.
-
Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Ðêm
trăng này nghỉ mát phương nao?
-
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt
chinh phu trăng dõi dõi soi.
-
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên
reo đầu ngựa, giáo lan mặt thành.
-
Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ,
Trăng
khuya nương gối bơ phờ tóc mai.
-
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước
hoa, dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
Tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh cũng không
thiếu câu nói về trăng:
-
Tuần trăng khuyết, dĩa dầu hao,
Mặt
mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
(lúc Kim Trọng tương tư Kiều)
-
Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy
trăng mà thẹn những lời non sông!
(lúc Kiều về với Mã Giám Sinh)
-
Nâu sồng từ trở màu thiền,
Sân
thu trăng đã vài phen đứng đầu.
(lúc Kiều ở Quan Âm Các)
-
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần
đường theo bóng trăng tà về Tây.
(lúc
Kiều đánh cắp đồ đạc trong Quan Âm Các và bỏ trốn đi)
-
Phải tuồng trăng gió hay sao,
Sự
này biết tính thế nào được đây?
(lúc
Kiều gảy đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe)
-
Mảnh trăng đã gác non đoài,
Một
mình luống những đứng ngồi chưa xong.
(lúc
Kiều sắp trầm mình ở sông Tiền Đường)
. Đoạn
cuối lúc Kim Kiều sum họp, trong 169 câu thì đã có 7 câu (câu 8 chữ trong cặp
lục bát) nói đến trăng:
-
Còn duyên may lại còn người,
Còn
vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
-
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa
thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương.
-
Bấy chầy gió táp mưa sa.
Mấy
trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
-
Hoa tàn mà lại thêm tươi,
Trăng
tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
-
Tình duyên ấy hợp tan này,
Bi
hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao.
Là
nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa?
-
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi
xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Cho đến chán đời như thi sĩ Tản Đà cũng tỉ tê tâm sự với
trăng, xin lên chơi với Hằng Nga trong bài Muốn Làm Thằng Cuội:
-
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần
giới em nay chán nữa rồi.
Cung
Quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành
đa xin chị nhắc lên chơi.
Đi lần đến thời thơ tiền chiến, các tác phẩm của thi sĩ Hàn
Mạc Tử có lẽ chiếm kỷ lục về số bài thơ tả trăng: trong 106 bài thơ tôi được
đọc thì có đến 62 bài nói tới trăng. Độc đáo nhất là bài Trăng Vàng
Trăng Ngọc: trong toàn bài thơ gồm 15 câu và tựa đề, tôi đếm được tất cả 31
chữ “trăng”.
Bởi cuộc đời của thi sĩ quá bất hạnh, quá bi thương[1] nên
bao nhiêu cảm hứng, bao nhiêu đau khổ buồn vui người đều gởi gắm cho trăng.
Thi sĩ đùa giỡn với trăng, say với trăng, uống trăng, v.v…
qua các bài thơ với tựa đề toàn là trăng: Chơi Lên Trăng, Đà
Lạt Trăng Mờ, Một Miệng Trăng, Một Nửa Trăng, Ngủ
Với Trăng, Rượt Trăng, Sáng Trăng, Say
Trăng, Trăng Tự Tử, Trăng Vàng Trăng Ngọc, Uống
Trăng, Vầng Trăng, v.v…
Lúc thì thi sĩ nâng niu trăng, muốn nhờ thuyền chở trăng về
cho kịp:
-
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có
chở trăng về kịp tối nay?
(Đây
Thôn Vĩ Dạ)
khi thì lại rao bán trăng đi, như trong Trăng Vàng
Trăng Ngọc:
-
Ai mua trăng tôi bán trăng cho,
Không
bán đoàn viên, ước hẹn hò.
rồi lại đổi ý không nỡ bán trăng vàng ngọc:
-
Tôi nói thiệt, là anh dại quá:
Trăng
Vàng Trăng Ngọc bán sao đang.
và thi sĩ cầu nguyện cho trăng được sáng ngời:
-
Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi,
Tôi
lần cho trăng một tràng chuỗi,
Trăng
mới là trăng của Rạng Ngời.
Trăng của Hàn Mạc Tử được nhân cách hóa thành là bạn
để cùng thi sĩ đuổi bắt nhau chơi:
-
Ha ha! Ta đuổi theo trăng,
Ta
đuổi theo trăng.
Trăng
bay lả tả ngả lên cành vàng,
Tới
đây là nơi tôi được gặp nàng.
(Rượt Trăng)
hay trở
thành là rượu, là thức ăn:
-
Bóng hằng trong chén ngả nghiêng,
Lả
lơi tắm mát làm duyên gợi tình.
-
Có ai nuốt ánh trăng vàng,
Có
ai nuốt cả bóng nàng tiên nga.
(Uống
Trăng)
-
Trời hỡi làm sao khi đói khát,
Gió
trăng có sẵn làm sao ăn.
Làm
sao giết được người trong mộng?
Để
trả thù duyên kiếp phũ phàng?
(Lang Thang trong tập Xuân Như Ý)
-
Cả miệng ta trăng là trăng,
Cả
lòng ta vô số gái hồng nhan.
Ta
nhả ra đây một nàng,
Cho
mây lặng lờ, cho nước ngất ngây.
(Một Miệng Trăng)
Trong khi trăng của Thúy Kiều được ân cần chia xẻ làm đôi,
nửa ở lại với Kiều, nửa theo Thúc Sinh (“Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in
gối chiếc nửa soi dặm đường”), thì trăng của Hàn Mạc Tử bị tàn phá bi thảm
hơn: “cắn vỡ” và “đứt ruột” là những hình ảnh hủy diệt chết chóc:
-
Hôm nay có một nửa trăng thôi,
Một
nửa trăng ai cắn vỡ rồi!
Ta
nhớ mình xa thương đứt ruột,
Gió
làm nên tội buổi chia phôi.
(Một
Nửa Trăng)
Theo như lời Hàn Mạc Tử trong bài tựa tập Thơ Điên,
vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh.[2]
Mà quả thật càng đọc thơ Hàn Mạc Tử, tôi càng thấy “ớn
lạnh”. Và “chóng mặt”. Bởi vì, vào những ngày tháng cuối đời của người, trăng
trong thơ Hàn Mạc Tử càng lúc càng gắn bó với: “sóng gió rùng rùng, địa
chấn, thần phách ngả lao đao, mê dại, thét
chòm sao, muôn năm rướm máu”:
-
Vì không giới, nơi trầm hương vắng lặng,
Nên
hồn bay vùn vụt tới trăng sao.
Sóng
gió nổi rùng rùng như địa chấn,
Và
muôn vàn thần phách ngả lao đao.
(Hồn Lìa Khỏi Xác)
-
Ta đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng,
Cho
ngây người mê dại đến tâm can.
Thét
chòm sao hoảng rơi vào đáy giếng,
Mà
muôn năm rướm máu trong không gian.
(Rướm
Máu)
Nhà thơ tiền chiến kỳ cựu Xuân Diệu cũng có một số bài thơ
về trăng như các bài: Trăng, Nhị Hồ, Đây Mùa
Thu Tới, Nguyệt Cầm, Thu, Buồn Trăng, Hoa
Đêm; nhưng theo ý tôi, đặc sắc nhất là trăng trong bài thơ Lời Kỹ
Nữ.
Khi kỹ nữ mời khách thì trăng sáng quá, rộn ràng như trên
trời đang bày yến tiệc:
-
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa,
Vội
vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi.
Đêm
nay rằm: yến tiệc sáng trên trời,
Khách
không ở, lòng em cô độc quá.
và trăng khoan thai, không vội vàng chi, lên cao trên vòm
trời:
-
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,
Em
cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
Chớ
đạp hồn em!
Trăng
từ viễn xứ,
Đi
khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn.
Nhưng khi trăng vừa mới lên cao, nàng kỹ nữ đã cảm thấy bao
thoáng buồn rờn rợn của một sự chia ly:
-
Gió theo trăng từ biển thổi qua non,
Buồn
theo gió lan xa từng thoáng rợn.
Bây giờ thì bầu trời trở nên lạnh lẽo, bởi vì bầu trời đầy
trăng. Trăng không còn đẹp nữa, mà trăng làm nàng run sợ:
-
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo,
Trời
đầy trăng lạnh lẽo buốt xương da.
Người
giai nhân: bến đợi dưới cây già,
Tình
du khách: thuyền qua không buộc chặt.
vì cuộc chia ly đã đến:
-
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt,
Cuộc
yêu đương gay gắt vị làng chơi.
Người
viễn du lòng bận nhớ xa khơi,
Gỡ
tay vướng để theo lời gió nước.
nên trăng bây giờ lạnh buốt:
-
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt
run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi.
Du
khách đi,
Du
khách đã đi rồi.
Chỉ trong vài đoạn thơ mà trăng của nàng kỹ nữ đi từ sáng
vằng vặc đầy tình tứ đến chỗ lạnh buốt, lạnh buốt đến xương da chớ không chỉ là
trăng ngà lạnh lẽo!
Còn rất nhiều vần thơ bất diệt mà trăng là nguồn cảm hứng
của thi nhân, như:
- Em
không nghe mùa thu
Dưới
trăng mờ thổn thức?
(Lưu Trọng Lư, Tiếng Thu)
- Sáng
trăng chia nửa vườn chè,
Một
gian nhà nhỏ đi về có nhau.
…
Đêm
nay mới thật là đêm,
Ai
đem trăng rải lên trên vườn chè.
(Nguyễn
Bính, Thời Trước)
Tôi còn nhớ bài ca vọng cổ do nghệ sĩ Út Trà Ôn hát vào
khoảng các năm 1950 – 1960 có tựa đềGánh Nước Đêm Trăng. Bài ca mở
đầu bằng bốn câu tả đêm trăng và đôi bạn tình nhân ở miền quê cùng đi gánh
nước:
“Sương
thu lạnh bao trùm trên cảnh vật,
Trăng
đêm nay dìu dịu khắp không gian.
Tôi
với em đi gánh nước cạnh đình làng,
Mùi cỏ dại mơ màng trong đêm vắng.
Nước giếng trong, giữa đồi cát mịn ánh nguyệt mờ
soi đôi bóng giao kề.”
Khi tình còn nồng thắm thì trăng dìu dịu soi đôi bóng tình
nhân. Sau đó, chàng trai phải rời làng quê đi làm ăn ở phương xa. Đêm cuối cùng
trước khi chia tay, cô bạn hứa rằng sẽ không phụ bạc anh. Thế nhưng, ba năm sau
anh trở về thì người yêu đã đi lấy chồng. Anh cũng lại đi gánh nước vào đêm
trăng, mà trăng nay đã khác, trăng lẻ loi quá:
“Đêm
nay vầng trăng khuya, như âm thầm lẻ bóng …”
Với lời mộc mạc mà thống thiết, anh trách trăng:
“Trăng
ơi, trăng sáng làm chi khi lòng tôi đang u tối; nước giếng sâu trong vắt sao
tình của ai kia như vũng nước trong bùn.”
Bài vọng cổ không cần văn chương trau chuốt, mà ý tình chân
thành vẫn gây xúc động đến tận đáy tâm hồn người nghe.
Trong văn chương bình dân, có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ
nói đến trăng. Tôi xin trích ra một số câu sau đây:
-
Trên trăng dưới nước,
Anh
giao ước một lời,
Dẫu
trăng lờ nước cạn, mấy đời phụ em?
-
Trăng mờ còn tỏ hơn sao,
Dẫu
rằng núi lở còn cao hơn đồi.
-
Sáng trăng trải chiếu hai hàng,
Bên
anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
-
Đêm hè gió mát trăng thanh,
Em
ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng.
Lạt
chẳng mỏng sao thừng được tốt,
Duyên
đôi ta đã trót cùng nhau.
Trăm
năm thề những bạc đầu,
Chớ
ham phú quý đi cầu trăng hoa.
-
Đời phải đời thạnh trị,
Cuộc
phải cuộc văn minh.
Kìa
là gió mát trăng thanh,
Biết
đâu nhơn đạo bày tình cho vui?
-
Thương nhau thiếp đợi chàng chờ,
Không
thương trăng lặn sao mờ mặc sao.
Ngày 20 tháng 7 năm 1969, lúc 10 giờ
56 phút đêm (giờ EDT) nhân loại trên quả đất bước một bước dài: phi hành gia
Neil Armstrong là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng.[3]
Một sự thật “đau lòng” được khám phá: không có Hằng Nga,
không có tiên nữ, cung Quảng, cung Quế, chú Cuội, thỏ ngọc, … mặt trăng chỉ là
một khối đá lởm chởm đầy bụi cát, không có một giọt nước, một lá cây. Sự thật
này không làm người Việt chúng ta thất vọng: mặt trăng vẫn tiếp tục là nguồn
cảm hứng sáng tác của văn nhân thi sĩ nước ta sau đó. Thí dụ như:
1. Tác phẩm Trăng Đất
Khách, một tuyển tập các cây bút nữ ở hải ngoại do cơ sở Làng Văn xuất bản
năm 1987, gồm 15 truyện ngắn và 25 bài thơ. Trong số 25 bài thơ thì đã có 12
bài đề cập đến trăng, tiêu biểu là bài Trăng Đất Khách với tựa
đề được chọn làm tựa đề cho cuốn sách. Tôi xin trích dẫn một vài vần thơ trăng
khá hay trong số các bài thơ trên:
-
Nhạt trăng viễn xứ đau hồn cúc,
Lạnh
phím quan hoài lả ngọn dâu.…
Trăng
lạnh đôi bờ đau ý trúc,
Tuyết
rơi mấy nẻo quạnh vườn hương.
(Tuệ
Nga, Xuân Tha Hương)
-
Vườn xưa lối cũ trăng còn sáng,
Thềm
vắng còn ai đứng đợi chờ.…
Trăng
nước thân yêu còn lắng đợi,
Giữ
giùm nước mắt kẻ ra đi.
(Trần
Mộng Tú, Trăng Đất Khách)
-
Mắt xanh cười khinh bạc,
Nửa
đời không tri âm.
Phương
nào, trăng đã khuyết,
Đàn
rung nốt nhạc trầm.
(Trần
Thị Núi Sông, Trên Đồi)
2. Hai thi phẩm Trăng
Hoàng Hôn và Nửa Rừng Trăng Lạnh của thi sĩ Quách Tấn
viết trong khoảng năm 1975 tới 1977 chứng tỏ rằng: cho dù mặt trăng có thực sự
lởm chởm đá sỏi bao nhiêu đi nữa, trăng vẫn là nguồn cảm hứng dạt dào của
người, và có phần linh động hơn, sắc sảo hơn so với trăng trong các tác phẩm
của thi sĩ đã xuất bản vào khoảng năm 1939-1941.
Hãy ngắm trăng trong Trăng Hoàng Hôn:
-
Non trăng đã lặng dấu hài,
Trải
niềm tâm sự sân lài trắng sương.
(Ngậm
Ngùi)
-
Trăng tà hiu hắt gió lau,
Thương
ai tóc đã bạc màu hoa xuân.
(Ngại Ngùng)
- Canh chầy lòng biết gởi ai,
Sân
trăng nhìn cúc tháng Hai ngậm ngùi.
(Cúc
Tháng Hai)
-
Long lanh giếng mọc đầy sao,
Trà
chuyên độc ẩm ngọt ngào trăng khuya.
(Ngọt Ngào)
-
Bùi ngùi ra đứng sân sau,
Nhìn
trăng đọng giọt trên tàu chuối non.
(Đọng
Giọt)
-
Bạn xưa gác bút cả rồi,
Song
thơ một bóng mình ngồi ngâm trăng.
Ngày
tàn thương Ðỗ Thiếu Lăng,[4]
Nghìn
thu chớp ánh sao băng cuối trời.
(Ngày
Tàn)
Dấu hài của trăng,
trăng tà hiu hắt, sân trăng gợi ngậm ngùi, trăng
khuya ngọt ngào, trăng đọng giọt trên tàu chuối non (màu lá chuối non
trong đêm lẫn với màu ánh trăng mà thi sĩ vẫn nhìn thấy được “giọt”
trăng trên tàu lá), và ngâm trăng (ngâm trăng chớ
không còn ngâm thơ nữa) … tất cả đã đạt đến mức xuất hồn nhập trăng!
![](https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEg5Ww5SO3__ATN_5_Q2AfZ9O6ANsTrdNjN7CSsKkBHJggmjLzPas2Cw9sttidBZYUCAl-QODRyrAxdVJf4xqFhldu-SxLyTwNwOLqfLjXahGH15ecf1JWyl6zWcO_NOFbWJB7Wpj7vlFyxv/s1600/1907410_336443376514245_7187508881405502145_n.jpg)
Nếu nói cho đầy đủ thì có lẽ không bao giờ hết chuyện trăng
trong văn chương nước ta. Còn rất nhiều bài thơ trăng, truyện trăng, nhạc
trăng, v.v… mà tôi không thể dẫn chứng hết vào đây được. Có lẽ sẽ phải dành một
cuốn sách riêng cho trăng với tựa đề “Trăng”, hay “Người Việt Nam và Trăng”
chăng?
Trích Tiếng Nước Tôi, Du Yên, 2009
Hình ảnh
phi thuyền Apollo 11 lên mặt trăng, từ trái sang phải:
1/ Phi
hành gia Neil Armstrong đặt bước chân đầu tiên xuống mặt trăng ngày 20 tháng 7,
1969.
2/ Phi
hành gia Buzz Aldrin bước đi trên mặt trăng.
3/ Dấu
chân của phi hành gia Aldrin.
4/ Nơi phi
thuyền Apollo 11 đáp xuống, trong vùng đất gọi là Sea of Tranquility (hình
của tác giả Soerfm)
(Trích từ wikipedia.org)
[1] Hàn
Mạc Tử nhà nghèo, cha mất sớm, học đến năm thứ ba trường Qui Nhơn. Ông làm ở sở
Đạt Điền một ít lâu, bị đau rồi mất việc; sau ông vào Nam làm báo, xong lại trở
về Qui Nhơn. Kế đó, ông mắc bệnh hủi, được đưa vào nhà thương Qui Hòa và mất ở
đó lúc mới 28 tuổi. (Theo Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài
Chân, 1967.)
[2] Theo Thi
Nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân, 1967, trang 204.
[3] On
July 20th, 1969, at 10:56 p.m. EDT, Neil Armstrong stepped down onto the Moon
and made his famous statement: “That’s one small step for a man, one giant leap
for mankind.” (Theo tài liệu NASA www.hq.nasa.org.)
[4] ĐỗThiếu
Lăng: Ðỗ Phủ, thi hào của Trung hoa đời nhà Ðường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét