Chiều hôm nhớ nhà
“Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốcThương nhà mỏi miệng cái gia gia”
(Qua đèo Ngang)
“Nhớ
nước”-“Thương nhà” là hai dòng tình cảm sâu sắc của Bà Huyện Thanh Quan. “Nhớ nước”, bà có bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, “Thương nhà”, bà có bài
thơ “Chiều hôm nhớ nhà”. Dưới triều Tự Đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung
trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Sống trong cung đình, nhưng bà
tự coi mình như kẻ lữ thứ”, tấm lòng của bà luôn luôn hướng về chốn “Chương
Đài”. Tâm sự thương nhà của bà được diễn tả một cách tài hoa trong bài thơ “
Chiều hôm nhớ nhà”:
“Chiều
trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng
ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác
mái, ngư ông về viễn phố
Gõ
sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn
mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm
liễu sương sa khách bước dồn,
Kẻ chốn
Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai
mà kể nỗi hàn ôn?”
Bà
Huyện Thanh Quan đã chọn luật bằng vần bằng cho bài thơ “Chiều hôm nhớ nhà” (Bài “Thăng Long thành hoài cổ” là luật trắc vần bằng) hợp với điệu hoài cảm
của tâm hồn thi nhân. Mở đầu bài thơ là hình ảnh buổi hoàng hôn với điệu nhạc
chiều êm ái, thổn thức:
Chuyển
sang hai câu luận, không gian thơ được mở lên chiều cao với những hoạt động của
thiên nhiên trong buổi “chiều hôm”:
Nữ sĩ
dùng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” vừa thuận với thi pháp “phi
ngã” (không có cái tôi) thời bấy giờ mà cũng vừa hợp với tâm tình của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị( người trí mà!), nồng nàn nhưng vẫn e ấp. “Kẻ
chốn Chương Đài” là tác giả dùng điển cố. Xưa có người gửi thư về cho vợ là
Liễu Thị hỏi: “Cây liễu Chương Đài xanh xanh trước kia nay còn không?”. Và từ
đó “Chương Đài” thành ước lệ quê nhà trong văn chương. “Kẻ chốn Chương Đài,
người lữ thứ” là kẻ ở quê nhà, người ở quán trọ (lữ thứ) xa xôi cách trở. Nữ
sĩ dùng chữ “lữ thứ“ thật bất ngờ. Bà đang dạy học cho các công chúa và cung
phi trong cung vua, còn đâu hoa lệ và sang trọng hơn?. Vậy mà nữ sĩ coi đấy
cũng chẳng qua là quán trọ. Tác giả dùng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào trung
hòa được tinh thần ngạo mạn của bà. Cho nên trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của
bà là tình nhớ nước. Bà chẳng tha thiết, chẳng gắn bó gì với triều đại đương
thời, nữ sĩ cảm thấy như bị lưu đày nơi đất khách quê người. Và câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng trào dâng lên nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”.
“Chiều
trời bảng lảng bóng hoàng hôn
Tiếng
ốc xa đưa vẳng trống dồn”
Trong
cả ba bài thơ nổi tiếng, bà Huyện Thanh Quan đều nói đến chiều tà.
“Bước
tới đèo Ngang bóng xế tà”
(Qua
đèo Ngang)
“Nền
cũ lâu đài bóng tịch dương”
(Thăng
Long thành hoài cổ)
Từ “bảng lảng” tả ánh sáng buổi hoàng hôn thật là đặc sắc. Cảm nhận về ánh sáng
như vậy thật là thi sĩ. “Bảng lảng” là ánh nắng đã nhạt, loãng, yếu ớt của
buổi chiều tàn. Ánh nắng hạ xuống thì nhạc chiều nổi lên. Điệu nhạc trầm buồn
của “tiếng ốc” từ xa đưa lại, tiếng trống cũng xa, chỉ nghe văng vẳng những
dồn dập thổn thức. Cái tôi trữ tình của thi nhân lặng phía sau hình ảnh và âm
thanh. Cái gì nữ sĩ nhìn thấy, gần gũi thì nhạt nhòa, tàn phai. Nữ sĩ lắng
nghe, đón nhận những âm thanh vang từ xa, cho nên khúc nhạc chiều trầm buồn đó
cũng là khúc nhạc lòng của thi nhân.
Nhà thơ
mở rộng không gian của buổi hoàng hôn, trở về với những hình ảnh gần gũi thân
quen của những người lao động:
“Gác
mái, ngư ông về viễn phố
Gõ
sừng, mục tử lại cô thôn”
Bà
Huyện Thanh Quan vẫn không thoát khỏi những đề tài “ngư, tiều, canh, mục”
quen thuộc trong thơ cổ điển. Nhưng bà vẫn có sáng tạo riêng. Bà chỉ chọn hai
nhân vật cho buổi “chiều hôm” là “ngư ông” và “mục tử”. Nét linh hoạt của
câu thơ là ở những cử chỉ của nhân vật. Hai cử chỉ nghịch nhau mà lại cùng diễn
tả một ý tưởng. “Gác mái” là ngư ông nghỉ ngơi, đảo vị ngữ “Gác mái” càng
nhấn mạnh sự nghỉ ngơi thư thái của ngư ông. “Gõ sừng” cũng được đảo ra phía
trước để nhấn mạnh cử động của mục tử (người chăn trâu) nhưng là cử động trở
về, nghỉ ngơi. Nhưng cả ngư ông và mục tử trên đường trở về đều có khoảng cách
“ngư ông về viễn phố”, ngư ông về bến xa, “mục tử lại cô thôn”, người chăn
trâu về xóm lẻ loi. Khoảng cách ấy cũng là khoảng cách trong lòng thi nhân với
quê hương xứ sở của mình, thành ra có ba con người, ngư ông, mục tử và nữ sĩ
chẳng gắn bó gì với nhau cả lại cùng giống nhau ở một điểm là chiều hôm, mỗi
người đều hướng về nơi chốn thân yêu của mình. Tóm lại, hai câu thực đã thể
hiện một cách tài hoa chủ đề “chiều hôm nhớ nhà”.
Chuyển
sang hai câu luận, không gian thơ được mở lên chiều cao với những hoạt động của
thiên nhiên trong buổi “chiều hôm”:
“Ngàn
mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm
liễu sương sa khách bước dồn”
Hình
ảnh thật đẹp, thật gợi cảm. Nhà thơ đã chọn được những tín hiệu thẩm mỹ có khả
năng diễn tả tâm tình của thi nhân. Hình ảnh “ngàn mai gió cuốn” vừa rộng lớn,
thoáng, vừa sôi động. Rừng mơ bạt ngàn càng thấy sự lẻ loi đơn chiếc của thi
nhân, hình ảnh “gió cuốn” gợi sự xao động bên trong của nữ sĩ. Hình ảnh cánh
chim chiều “bay mỏi” cũng gợi tâm trạng của thi nhân. Làm sao giữa không gian
bạt ngàn của rừng mai mà nhận ra “chim bay mỏi”? Phải có con mắt rất tinh,
nhưng như thế vẫn chưa đủ, phải là con mắt của tấm lòng. Còn “dặm liễu” thì
thơ mộng mà “dặm liễu sương sa” thì vừa thơ mộng vừa lạnh lẽo. Cái lạnh của
sương chiều đã thúc bước chân của người đi đường “khách bước dồn”. Cái hay của
hai câu luận là không gian được mở ra với những hình ảnh đẹp, thơ mộng, gợi cảm
và chủ đề “Chiều hôm nhớ nhà” cũng mở ra đến chiều sâu thẳm. Chỉ tiếc là từ “dồn” (bước dồn) trong câu luận đã lặp lại từ “dồn” (trống dồn) trong câu
thừa đề khiến cho bài thơ nghèo đi một chút.
Dòng
tình cảm ngầm chảy suốt qua các hình ảnh và nhạc điệu đến đây lộ ra tha thiết,
nồng nàn:
“Kẻ
chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai
mà kể nỗi hàn ôn?”
Nữ sĩ
dùng những từ phiếm chỉ như “kẻ”, “người”, “ai” vừa thuận với thi pháp “phi
ngã” (không có cái tôi) thời bấy giờ mà cũng vừa hợp với tâm tình của thi nhân, tha thiết nhưng không ủy mị( người trí mà!), nồng nàn nhưng vẫn e ấp. “Kẻ
chốn Chương Đài” là tác giả dùng điển cố. Xưa có người gửi thư về cho vợ là
Liễu Thị hỏi: “Cây liễu Chương Đài xanh xanh trước kia nay còn không?”. Và từ
đó “Chương Đài” thành ước lệ quê nhà trong văn chương. “Kẻ chốn Chương Đài,
người lữ thứ” là kẻ ở quê nhà, người ở quán trọ (lữ thứ) xa xôi cách trở. Nữ
sĩ dùng chữ “lữ thứ“ thật bất ngờ. Bà đang dạy học cho các công chúa và cung
phi trong cung vua, còn đâu hoa lệ và sang trọng hơn?. Vậy mà nữ sĩ coi đấy
cũng chẳng qua là quán trọ. Tác giả dùng từ Hán Việt “lữ thứ” phần nào trung
hòa được tinh thần ngạo mạn của bà. Cho nên trong sâu thẳm tình cảm nhớ nhà của
bà là tình nhớ nước. Bà chẳng tha thiết, chẳng gắn bó gì với triều đại đương
thời, nữ sĩ cảm thấy như bị lưu đày nơi đất khách quê người. Và câu hỏi tu từ “Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?” càng trào dâng lên nỗi nhớ nhà của kẻ “lữ thứ”.
Bài thơ
“Chiều hôm nhớ nhà” được Bà Huyện Thanh Quan viết theo bút pháp tả cảnh gợi
tình quen thuộc trong thơ cổ điển. Từng hình ảnh, từng âm thanh đều gợi đến
tâm trạng nhớ nhà của nữ sĩ. Nỗi nhớ nhà của nữ sĩ thật là thâm trầm, sâu sắc,
nhân bản. Trong quan hệ xã hội, bà không được chia sẻ, sống với một triều đại
mà bà chỉ hướng về ánh hào quang của quá khứ, “một mảnh tình riêng ta với ta“
(Qua Đèo Ngang) nên bà dồn tình cảm nhớ thương cho gia đình, cho những người
thân yêu. Trước tình trạng lỏng lẻo của những mối quan hệ gia đình hiện nay thì
một tiếng thơ (cũng là tiếng lòng) của Bà Huyện Thanh Quan cũng có giá trị tinh
thần nhân bản, cao quý của gia đình.
Sưu tầm
Thủy Tiên
Thủy Tiên



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét