Võ Thị Hảo xuất hiện năm 1993 qua tập truyện ngắn Biển
Cứu Rỗi do nhà xuất bản Hà Nội phát hành. Tác phẩm đoạn tuyệt cuộc chiến
đã qua và khai chiến với hòa bình hiện tại. Mười hai truyện ngắn với bút pháp
chắc nịch, những nhân vật rờn rợn, điên người, trong không khí hậu chiến của một
đất nước ham sống, sợ chết, một đất nước muốn vươn lên nhưng cứ rũ ra, gục xuống,
ôm bụng cười sặc sụa, cười ằng ặc trong bàn tay đùa dai của tử thần chơi trò ú
tim bóp cổ.
Võ thị Hảo thuộc thế hệ chối bỏ cổ tích, không
tin "thần thoại chiến trường". Chị viết với niềm tin của chị về một
xã hội tan chiến nhưng chưa tàn chiến.
Người đọc có thể tìm thấy trong văn phong Võ Thị
Hảo cái tàn nhẫn, chất huyền thoại phảng phất cơn mưa Nguyễn Huy Thiệp, bóng
mây Phạm Thị Hoài. Cay độc và ẩn dụ trở thành phong trào, thành phong cách thời
đại, dấu ấn của thế hệ này. Ðúng thôi. Nhưng ở Võ Thị Hảo còn có một hơi hướm
khác: Khó thấy tác giả nào "cười" nhiều như thế, mô tả cái cười kỹ
càng như thế. Từ nụ cười hóa đá của người đàn ông tên Tiếu: "Ðôi
mắt biểu lộ một nỗi đau khổ bất thường như đã đông cứng. Còn cái miệng thì trớ
trêu làm sao, luôn mỉm một nụ cười bất biến [....] Nụ cười ấy giữa khuôn mặt ấy,
thật là một nghịch lý, như là đang khóc với nỗi đau xé ruột mà có kẻ tàn ác nào
đó cứ nhất định cù vào nách cho ta phải cười rũ ra mới thôi" (Người
Gánh Nước Thuê, trang 89). Ðến nụ cười lạnh như thép của người chinh phu không
biết cười: "Người chồng cố hết sức để mỉm cười. Ðã lâu lắm rồi anh
không làm cử chỉ đó nên bây giờ anh không biết bắt đầu một nụ cười như thế nào.
Khó nhọc lắm, anh mới nhớ ra rằng, khi cười, người ta phải để lộ ít nhất là một
hàm răng. Anh nhếch môi, để lộ hai hàm răng chắc khỏe.
Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên, cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói". (Hồn Trinh Nữ, trang 35). Tội nghiệp cho anh, chiến tranh không chết, nhưng chính những năm hòa bình, phục vụ triều đình, sơn hào hải vị và thủ đoạn hãm hại nhau, đã giết anh, đã biến người thanh niên nhút nhát năm xưa thành gã đàn ông có "cái nhìn lóe thép" và cái miệng "không biết cười".
Nhưng anh quên rằng, khi người ta cười, chính đôi mắt cười trước, cái miệng cười sau, thậm chí chỉ cười bằng mắt cũng đủ. Mà đôi mắt muốn cười, trước hết tâm hồn phải cười đã, cho nên, cố gắng để mỉm cười, trông anh lại thêm vẻ dữ dằn đe dọa của một con sói". (Hồn Trinh Nữ, trang 35). Tội nghiệp cho anh, chiến tranh không chết, nhưng chính những năm hòa bình, phục vụ triều đình, sơn hào hải vị và thủ đoạn hãm hại nhau, đã giết anh, đã biến người thanh niên nhút nhát năm xưa thành gã đàn ông có "cái nhìn lóe thép" và cái miệng "không biết cười".
Võ Thị Hảo đã đi sâu, quá sâu vào
cõi cười. Cõi ấy âm u, lạnh lẽo, bất trắc, cô tịch và đáng sợ hơn cõi khóc.
Biển Cứu Rỗi, truyện một người lính trở về, nhưng số phận không dành cho anh một nàng Tô thị vọng phu. Mà đợi anh, chỉ có những đứa trẻ khác bố, không cha, tàn tích của những cuộc giao hoan vội vã -trên con đường quốc lộ số một, động mạch của chiến tranh- của người vợ lạc loài, ngơ ngác, bán trôn nuôi miệng, chờ chồng.
Biển Cứu Rỗi, truyện một người lính trở về, nhưng số phận không dành cho anh một nàng Tô thị vọng phu. Mà đợi anh, chỉ có những đứa trẻ khác bố, không cha, tàn tích của những cuộc giao hoan vội vã -trên con đường quốc lộ số một, động mạch của chiến tranh- của người vợ lạc loài, ngơ ngác, bán trôn nuôi miệng, chờ chồng.
Chờ anh, còn có nụ cười hơi sữa,
đổi chác của đứa con gái ruột 15 tuổi, đồng nghiệp của mẹ, gặp bố mà không
biết là cha. Nụ cười chào khách của nó đuổi anh ra khỏi cõi người, cõi thanh
bình. Anh bèn về với hoang đảo, sống như loài cầm thú, sống bệnh hoạn và hoang
loạn. Nói chuyện với bóng mình trong gương để nghe rõ giọng nói lạ hoắc của
chính mình, giọng nói thời sau chiến, giọng nói của những số phận quờ quạng
đi cho hết nửa đời còn lại.
Vũ Ðiệu Ðịa Ngục là vũ điệu
của bà mẹ điên, dơ tay với cầu vồng mà nhẩy. "Ðỏ lên trời đó con
ơi!" Bà tìm trên khung trời đỏ áu tội lỗi hình dáng người con gái đã
chết. Con bà, trong quãng thời gian ngắn ngủi tạm trọ cuộc đời, thất nghiệp triền
miên, đã hành nghề bán máu nuôi thân, cho đến khi "cạn vốn". Tự tử.
Và Rừng Cười, là cái cười
méo mó man dại của chiến tranh, của những cô gái Trường Sơn mà "những
dòng nước khe màu đen xanh thớ lợ đã dần dà vặt trụi tóc họ". Ở đây không
có liệt oanh, liệt sĩ, chỉ tuyền rừng với người vượn lõa thể, vừa cười vừa
khóc, tay dứt tóc xé quần xé áo. Ở đây chỉ có những nụ cười sằng sặc quánh đặc
lá cây của "những người đàn bà vác cày, cầm súng, đi lấp hố
bom", "bị buộc phải trở thành đàn ông". Và người con gái duy nhất
may mắn sót lại của rừng cười sẽ mãn kiếp bị loại khỏi vòng tình ái, chỉ sống với
những giấc mơ triền miên về mái tóc đã bị rừng già cướp giật: "từ
trong đám tóc rối ấy lẩy ra hai giọt nước mắt trong veo và rắn câng như thủy
tinh, đập mãi không vỡ". (trang 77)
12 truyện ngắn, 12 mảnh đời nghiền
nát đẫm máu, khiếp đảm mà viết cứ dửng dưng như không, như chơi, như đùa. Cái
đáng ngại của thế hệ này là thế. Thế hệ ba đời chổng mông chờ chồng, từ bà đến
cháu. "Thế hệ chúng con đi đến tận cùng nên nhiều khi tàn nhẫn". Thế
hệ "hoãn chết" hay "cho vào cối giã cũng không chết".
Nụ cười bật ra chỉ vì "cô thấy buồn buồn ở nách như bị ai cù, và cô bật
tiếng cười". Dưới mắt họ, thiên nhiên cũng một sòng quỷ khốc, khát máu,
thèm xương, không khác con người: "hoàng hôn chậm chạp thè chiếc lưỡi đỏ
liếm lên vạt đồi tranh", "rừng cười đã no nê máu và nước mắt". Họ
truy tố những kẻ "lạm dụng ánh sáng để làm điều sằng bậy" và
dồn đêm tối cho những kẻ bất hạnh, mù loà.
Họ phanh phui thủ đoạn "thổi
linh hồn vào nhiều thân xác" bằng những "bài ca kỳ dị chẳng tốn hơi sức
bao nhiêu", để tạc nên những hình nộm gỗ "có hàm răng trắng sáng
lóe lên trên khuôn mặt đầy nhựa cây đen nhẻm", loại hình nộm không tim. Tim
vỡ. Thế hệ ấy, nhìn về quá khứ của
"cả một đất nước rùng rùng ra trận, chân đi dép lốp, tay cầm súng, ngực
đeo những lá thư. Những trang văn nói về thư, bay cùng những lá thư thất lạc và
không thất lạc, có người nhận và không còn người nhận cứ bay đầy trời như lá rụng.
Và trong đó, tôi mới thấy rõ tôi, vàng bủng, đang chạy, đưa một phong thư lên
miệng mút mút và hô "xung phong" trước khi ngã xuống." (Máu
Của Lá, trang 65).
Thế hệ ấy, viết nên những dòng kiểm
thảo thế giới dối gian, chế tạo ảo tưởng bằng những lá tình thư, tình thư xung
phong, tình thư giết người. Ðem tình yêu làm bung xung cho một trò chơi tàn nhẫn.
Thế hệ ấy "vĩnh biệt Hà Nội không phải của con".
Ðen tối như thế, dứt khoát như thế,
bi quan và u uất như thế, nhưng thế hệ ấy lại bội phần hàn gắn, bội phần yêu
thương và thơ mộng. Họ chơi trò đếm mây, họ chia cho nhau những màu mây
trong ánh mắt và họ tặng nhau một vầng trăng mồ côi. Thế hệ ấy, niềm
cô đơn bất hạnh và hoan lạc ấy có trong đôi mắt đắm mây của Võ Thị Hảo, trong tấm
lòng thiết tha, nhân ái, đòi quyền sống cho ba thế hệ vọng phu và đấu
tranh cho một tình yêu chưa thật sự được nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Tình yêu
vẫn còn đẫm lạnh ngòi sương chiến tranh và ánh sáng vàng vọt của thời bình chưa
đủ sức hoàn sinh tái tạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét