Hành giả của cô đơn, Tô Thùy Yên đáp chuyến tốc
hành "cánh đồng con ngựa chuyến tầu", năm 56, vào vòng
khắc biệt của thời gian, nghiền nát hình hài, đập tan bão tố, giã vụn tâm tư,
biến tất cả thành hư vô, trừ đá: Ðá ở lại.Ðá ở
lại, trong ánh tàn dư, khiến
cho thời gian, đá và con
người trở thành tương quan tồn tại.
Trên cánh đồng hoang
thuần một mầu
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a! Cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
(Cánh Ðồng Con Ngựa Chuyến Tàu, tháng 4-1956)
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a! Cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
(Cánh Ðồng Con Ngựa Chuyến Tàu, tháng 4-1956)
Ý niệm "chạy đua"
lạ lắm. Mà đây không phải là cuộc chạy đua tầm thường giữa phường tục tử. Ðây
là cuộc chạy đua giữa ba "kẻ" không phải người, không cùng
"giống": Cánh đồng (đất và cỏ) vừa là
một tĩnh thể bất biến (đất), vừa là một sinh thể lụi tàn (cỏ). Ngựa thuộc
loài tử kiếp (mortel), cố rượt theo con tầu, guồng
máy vô tri, vô kiếp. Tô Thùy Yên đã đoạn tuyệt với quá khứ thơ tiền chiến bằng cuộc
đua này, một cuộc đua rất cô hồn, siêu thực và có
thật. "Chúng" chạy đi đâu? Chạy vào không
gian và thời gian, mịt
mùng vô tận. Ngựa chạy mau, tầu càng mau hơn. Vận tốc (thời gian) càng gia
tăng, cánh đồng (không gian) càng "dãn" ra như thể hai cái biển gian ấy
cùng nhập bọn một lúc, điều mà Phạm Duy rất ngại: đừng
cho không gian đụng thời gian (Thương Tình Ca).
Như thế, ý thức thời gian gia nhập lãnh phận Tô
Thùy Yên ngay từ đầu, "thời gian" vào thơ như một nhận thức về sự tồn tại xuyên qua thời gian.
Ở ông, thời gian phát động những câu thơ rất sâu và rất mạnh:
Ở ông, thời gian phát động những câu thơ rất sâu và rất mạnh:
Thời gian rũ trắng xương làm nhớ...
Thời gian gia tốc thảm thê thay...
Thời gian đứt quãng dài vô định...
Thời gian mất trí trắng vô âm...
Lục lại thời gian kiếm chính mình...
Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh...
Hồn thời gian phất phơ lưới nhện..
Thời gian gia tốc thảm thê thay...
Thời gian đứt quãng dài vô định...
Thời gian mất trí trắng vô âm...
Lục lại thời gian kiếm chính mình...
Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh...
Hồn thời gian phất phơ lưới nhện..
Thời
gian đứt quãng là một nhận thức vô cùng sâu, dẫn đến những đớn đau
khác: thời gian rũ trắng xương làm nhớ, thời gian mất trí,
thời gian gia tốc, thời gian chết xanh, hồn thời gian phất phơ lưới nhện... và
trong cái biển thời gian dữ dẵn, tàn khốc ấy, có kẻ đi lục
lại thời gian kiếm chính mình, thì quả là cao đạo.
Cùng với Thanh
Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đem ý thức về bản ngã, về nỗi hoang tưởng của
con người vào thi ca những năm 60, với một phong cách khác.
Ở Thanh Tâm Tuyền, con đường ý thức được vẽ trên cấu trúc gián đoạn, tượng trưng mạch đứt của thời gian.
Ở Thanh Tâm Tuyền, con đường ý thức được vẽ trên cấu trúc gián đoạn, tượng trưng mạch đứt của thời gian.
đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
(Tôi Không Còn Cô Ðộc)
em bé quàng khăn đỏ ơi
này một con chó sói
(Tôi Không Còn Cô Ðộc)
Ở mỗi tích tắc, Thanh Tâm
Tuyền chụp một bức ảnh và dàn trải chúng bên nhau.
Ba hình ảnh "đêm ngã xuống", "em bé quàng khăn đỏ" và "con chó sói" rời rạc, không có gì liên lạc với nhau, cả ba xuất hiện cùng một lúc thành một bức tranh "siêu thực lập thể".
Ở Tô Thùy Yên, ý thức hoang tưởng xuất hiện dưới dạng cổ điển và liên tục. Tô Thùy Yên không phá cách trong hình thức mà phá cách trong tư tưởng:
Ba hình ảnh "đêm ngã xuống", "em bé quàng khăn đỏ" và "con chó sói" rời rạc, không có gì liên lạc với nhau, cả ba xuất hiện cùng một lúc thành một bức tranh "siêu thực lập thể".
Ở Tô Thùy Yên, ý thức hoang tưởng xuất hiện dưới dạng cổ điển và liên tục. Tô Thùy Yên không phá cách trong hình thức mà phá cách trong tư tưởng:
Thời gian đứt quãng
dài vô định
Như sợi dây diều băng mất tăm.
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm.
(Vườn Hạ)
Như sợi dây diều băng mất tăm.
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm.
(Vườn Hạ)
Cách tạo hình siêu thực gắn
với ý thức về bản ngã, về sự đứt quãng của thời gian, được Tô Thùy Yên nhào nặn
nhuần nhuyễn trong một cấu trúc liên tục: Thời
gian đứt quãng dài vô định như sợi dây diều băng mất tăm, lòng anh thảng thốt,
sông chao sóng đến đây vẫn là một "chuỗi thơ" hiền lành
theo lối cũ, bỗng "kỷ niệm buông tay, rú ngất
chìm", từ đâu rớt xuống khiến người đọc thảng thốt, giật
mình kịp thấy nỗi hoang mang, hoang tưởng. Trễ rồi. Hắn đã nhập cuộc. Vào cõi
thơ Tô Thùy Yên, vào cõi hoang tưởng của chính mình, với những hình ảnh cực kỳ
phức loạn: "nằm nghe tóc rụng", "chiều hôm nhìn
lửa nhớ tiền thân", "con rạch đen nồng như máu chết", "mắt
người sâu vời vợi ẩm hơi chiều", "đất bạc mầu đi, đất bạc mầu".
Ði từ những
nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cơ đơn hành giả, có khả năng đi ngược
thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô
nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc:
Nao nao mường tượng bóng mình
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.
(Qua Sông)
Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền
Xuống đò, đời đã bỏ quên
Một sông nước lớn trào lên mắt ngời.
(Qua Sông)
Năm tháng nhúng hoàng
hôn
Ðến rã rời thể xác
Tôi đã thấy mất mát
Tất cả trừ cô đơn.
Ðến rã rời thể xác
Tôi đã thấy mất mát
Tất cả trừ cô đơn.
Cuộc sống nhiễm
lầm than
Nằm liệt trên buồn bã
Thượng đế điềm nhiên lạ
Tôi đánh liều cười khan
(Thân Phận Của Thi Sĩ)
Nằm liệt trên buồn bã
Thượng đế điềm nhiên lạ
Tôi đánh liều cười khan
(Thân Phận Của Thi Sĩ)
Nhưng nói gì, làm gì rồi cũng
thế thôi, cũng thừa thôi. Bởi từ lâu, người đãng tử ấy đã biết rằng:
Chim đã bay quanh từ
vạn cổ
Gió thật xưa, mây thật già nua.
(Ðãng Tử)
Gió thật xưa, mây thật già nua.
(Ðãng Tử)
Với đá, Ngô
Thừa Ân bắt đầu Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không là con khỉ đá. Tào Tuyết Cần mở Hồng
Lâu Mộng bằng đá, Giả Bảo Ngọc là hậu thân của hòn đá dưới núi Thanh Ngạnh.
Luận Ngữ, Tam Tự Kinh... trong Văn Miếu tại Trường An cũng khắc trên bia đá.
Rút cục chỉ có đá còn lại. Ðá ở lại. Ðá ở lại sau khi tất cả những ánh tàn dưkhác đều đã trôi đi,
biến đi:
Trên dốc thời gian,
hòn đá tuột
Lăn dài khinh động cả hư vô
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Lăn dài khinh động cả hư vô
(Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Tiếng kêu đá lở long
thiên cổ
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn
(Góa Phụ)
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn
(Góa Phụ)
Ðá là thể xác của vĩnh cửu.
Nhưng đá cũng lại muôn kiếp cô đơn. Ðá không có bạn. Ðá không nói. Không có
thông ngôn. Ðá đợi ngàn năm. Ðá là nỗi đợi vô tận.
Nữ Oa góp nhặt những hòn đá lớn, ngoan cường nhất để vá lại bầu trời thương khuyết, nứt nẻ, tật nguyền. Với sự tính toán tỉ mỉ, Nữ Oa cho rằng: Phải cần đến hàng vạn năm mới kiếm được 36.500 hòn đá lớn để lấp kín vết thương của bầu trời. Bà chuẩn bị được 36.501 hòn đá, nhưng lại chỉ cần có 36.500. Hòn đá duy nhất, bé nhất còn sót lại bị bà bỏ quên trên núi Thanh Ngạnh.
Về tâm sự đứa con út của Nữ Oa, Tào Tuyết Cần viết: "Ðá khát vọng lên trời, nhưng bầu trời bao la rộng lớn lại rứt bỏ nó. Ðá muốn xuống với đất nhưng năm tháng dằng dặc qua đi, mòn mỏi đợi chờ vẫn không có cơ may để nó được đặt chân lên bàn cờ huyền bí trên mặt đất." Nhà văn muốn giải thích cái nhân duyên của đá. Không được lên trời, không chôn xuống đất. Ðá hóa thân thành: Giả Bảo Ngọc. Ðứa con út của Nữ Oa, chẳng qua là con người bị kết án chung thân di chuyển, lủng lẳng giữa thời gian và không gian một chiều đi duy nhất: Tiến về cõi không. Dẫm lên lầm than, tang tóc, cô đơn, phi lý, nguyền rủa, căm thù, lắng nghe những chuyện trần thế thất thiệt. Thân phận đợi chờ, di biến, trơ đá ấy, Tô Thùy Yên đã viết được, như một định mệnh, một vinh dự lầm than của kiếp người, như một định nghĩa của cô đơn, của con người, lửng lơ trong cõi vô chung, vô thủy:
Nữ Oa góp nhặt những hòn đá lớn, ngoan cường nhất để vá lại bầu trời thương khuyết, nứt nẻ, tật nguyền. Với sự tính toán tỉ mỉ, Nữ Oa cho rằng: Phải cần đến hàng vạn năm mới kiếm được 36.500 hòn đá lớn để lấp kín vết thương của bầu trời. Bà chuẩn bị được 36.501 hòn đá, nhưng lại chỉ cần có 36.500. Hòn đá duy nhất, bé nhất còn sót lại bị bà bỏ quên trên núi Thanh Ngạnh.
Về tâm sự đứa con út của Nữ Oa, Tào Tuyết Cần viết: "Ðá khát vọng lên trời, nhưng bầu trời bao la rộng lớn lại rứt bỏ nó. Ðá muốn xuống với đất nhưng năm tháng dằng dặc qua đi, mòn mỏi đợi chờ vẫn không có cơ may để nó được đặt chân lên bàn cờ huyền bí trên mặt đất." Nhà văn muốn giải thích cái nhân duyên của đá. Không được lên trời, không chôn xuống đất. Ðá hóa thân thành: Giả Bảo Ngọc. Ðứa con út của Nữ Oa, chẳng qua là con người bị kết án chung thân di chuyển, lủng lẳng giữa thời gian và không gian một chiều đi duy nhất: Tiến về cõi không. Dẫm lên lầm than, tang tóc, cô đơn, phi lý, nguyền rủa, căm thù, lắng nghe những chuyện trần thế thất thiệt. Thân phận đợi chờ, di biến, trơ đá ấy, Tô Thùy Yên đã viết được, như một định mệnh, một vinh dự lầm than của kiếp người, như một định nghĩa của cô đơn, của con người, lửng lơ trong cõi vô chung, vô thủy:
Con chim bói cá trong
tàn tối
Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ
Hư ảnh lờn rờn tụ tán tụ
Hoài công không định nổi chân như
Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ
Hư ảnh lờn rờn tụ tán tụ
Hoài công không định nổi chân như
Trái đất thì
buồn như xác rỗng
Ta thì như gió, tuyệt bơ vơ,
Trăm năm, cửa khép hờ mưa nắng...
Mãi chẳng ai về qua gọi cho.
Ta thì như gió, tuyệt bơ vơ,
Trăm năm, cửa khép hờ mưa nắng...
Mãi chẳng ai về qua gọi cho.
Ta đợi nghe
chừng thiên cổ mỏi
Hàng hàng thân trụ đứng hư hao
Hoàng hôn, thần thánh bưng mặt khóc
Ta chẳng buồn thăm hỏi tại sao
Hàng hàng thân trụ đứng hư hao
Hoàng hôn, thần thánh bưng mặt khóc
Ta chẳng buồn thăm hỏi tại sao
Ôi đá địa đầu
vần vụ mộng
Ai xưa qua yểm lại tình sầu
Thời gian rũ trắng xương làm nhớ
Gió cát không nguôi khóc dãi dầu.
(Nỗi Ðợi)
Ai xưa qua yểm lại tình sầu
Thời gian rũ trắng xương làm nhớ
Gió cát không nguôi khóc dãi dầu.
(Nỗi Ðợi)
Ý thức về đá làm lạnh thơ,
giá băng những câu thơ tha thiết nhất:
Từng chút vỗ về, từng chút một
Em tạt vào anh rồi rút đi...
Thương tích chẳng lành chan muối xót
Bào sâu thân đá, nước tay ghì
(Hải Phận)
Em tạt vào anh rồi rút đi...
Thương tích chẳng lành chan muối xót
Bào sâu thân đá, nước tay ghì
(Hải Phận)
Và với lạnh băng ấy, nhà thơ
đi vào hành trình ý thức, tìm lại chính mình:
Ở Tô Thùy Yên,
còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hùng nhào
nặn thành một tâm hồn "tráng sĩ" hiện đại. Hình ảnh này rất được quần
chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người
(anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đầy. Xem thường gian khổ. Kể chuyện
mười năm lao cải nhẹ như lông.
Bài Ta Về được phổ biến ngay
khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải
tạo, cao ngạo trở về, với cái ta khinh mạn và ngạo nghễ:
Ta về một bóng trên
đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai...
Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ?
Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay.
Vĩnh biệt ta
-mười- năm chết dấp
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt xạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu
Mười năm, mặt xạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
Ta về qua những
truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay...
(Ta Về)
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ,
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay...
(Ta Về)
Nhiều người cho Ta Về, Chiều
Trên Phá Tam Giang, Trường Sa Hành... là
những bài thơ tiêu biểu Tô Thùy Yên, có lẽ tiêu biểu thơ chính khí, chính luận
thì đúng hơn. Bài Ta Về, như
có ý tái tạo một chính nghĩa, một chí khí cho người bại trận, xướng
lên cái căn cước của miền Nam, tấm lòng "rộng lượng" của người tù lao
cải, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã hành hạ, đầy đọa mình.
Nhưng dường như
thơ hay không cần chính nghĩa, không cần bầy tỏ. Lão Tử có nói đến tính
"vô ích" của các sự xướng danh. Vô danh mới
là Ðạo. Ðạo thường ẩn. Ðạo vốn mộc mạc, không có tên. Không có tên nên mới có
khả năng biến hóa. Thơ hay không lộ. Mà lại ngại những hình ảnh cliché, sáo mòn
như thơ đề vạt áo, niềm đau phế phủ, chốn rừng thiêng, tiếng nghìn thu,
truông cùng phá, hóa thân thành vượn... Những nỗi đau thật không hợp
với tạng chữ lấp lánh láng diện, như thể đám tang không mặc áo màu.
Cho nên những câu
thơ như
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.
Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.
trong Trường Sa Hành, dù được ca tụng, e
rằng chúng cũng rất xa với nỗi quạnh hiu dù rất lớn của nhà thơ và của con
người.
Ở Tô Thùy Yên, cô
đơn, hiu quạnh và thất phận âm ỷ dưới những câu thơ khác không viết hoa, khiêm
tốn hơn, tinh tế hơn và ít được chú ý hơn.
Dường như nỗi đau
đã đến với Tô Thùy Yên từ rất sớm, từ những ngày đầu chiến tranh, nỗi đau đời,
bắt gặp một đêm qua bắc Vàm Cống:
Ðêm qua bắc Vàm Cống,
Mối sầu như nước sông,
Chảy hoài mà chẳng cạn,
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng...
Tôi châm điếu thuốc nữa
Ðốt tàn thêm tháng năm
Chiếc bắc xa dần bến
Ðời xa dần tuổi xanh
Mối sầu như nước sông,
Chảy hoài mà chẳng cạn,
Cuốn phăng kiếp bềnh bồng...
Tôi châm điếu thuốc nữa
Ðốt tàn thêm tháng năm
Chiếc bắc xa dần bến
Ðời xa dần tuổi xanh
Nước tách
nguồn về biển
Sầu lại chảy về hồn
Khi tôi vuốt lấy mặt
Nghe bàn tay trống trơn
Sầu lại chảy về hồn
Khi tôi vuốt lấy mặt
Nghe bàn tay trống trơn
Ðây là một trong những bài
thơ lọt vào người như kẻ trộm như lời Tô Thùy Yên. Chính cái
khẽ khàng, cái nhỏ nhẹ ấy mới thấm và đau, nó là những sợi thần kinh của cảm
giác. Không hề có những chữ "lớn" mà mối sầu vẫn lớn. Một thời gian
gian dối: Ðốt tàn thêm tháng năm. Một trống vắng âm thầm xâm lấn,
cô đơn nạo sát hồn người: Khi tôi vuốt lấy mặt, nghe bàn tay trống trơn.
Thơ đã tìm được tần sóng của những ngõ vắng, những lối lạc của tâm hồn; thơ mở
những cửa kín, phát lộ những nỗi đau dấu sâu trong tim người.
Bài Vườn Hạ, lạnh lùng chăng lên
phận số con người, những kiếp mỏng manh như những sợi diều, bị bắt làm con tin
cho một mẹ mìn thời gian luôn luôn bất trắc phản bội chỉ chờ dịp là quất ngựa
truy phong:
Thời gian đứt quãng
dài vô định
Như sợi dây diều băng mất tăm
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm.
Như sợi dây diều băng mất tăm
Lòng anh thảng thốt, sông chao sóng
Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm.
Ai ngắt dùm anh
cây cỏ sướt
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
Mùa hè đi khuất kêu không lại
Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui.
Làm đôi gà đá, đá ăn cười
Mùa hè đi khuất kêu không lại
Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui.
Trời cao mỏi
mắt, chòm mây bạc
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh.
Ngoài cõi chói chang hư ảo múa
Dường như ai gọi ấu danh anh.
Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh.
Ngoài cõi chói chang hư ảo múa
Dường như ai gọi ấu danh anh.
Hàng cây đứng
bóng ôm tròn gốc
Ðất ẩm vương hương, cỏ trở màu
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
(Vườn Hạ)
Ðất ẩm vương hương, cỏ trở màu
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
(Vườn Hạ)
Một mối "sầu" mới
dấy lên, không phải sầu tiền chiến, sầu lãng mạn Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Sầu Tô
Thùy Yên mang tính chất nội tại, sầu hiện sinh, sầu sống, sầu hôm nay, sầu tự
bản thân lan ra vũ trụ "lòng anh thảng thốt sông chao
sóng" khác với sầu hôm qua, "sóng
cuộn tràng giang buồn điệp điệp" (Huy Cận) hay "phất
phơ hồn của bông hường" (Xuân Diệu). Sầu mới xuất
phát từ người, làm chao đảo thiên nhiên, khác với sầu cũ: thiên nhiên gây
thương cảm trong lòng người.
Ở cõi sầu mới,
con người làm chủ tình cảm và tình thế, vũ trụ bị nhân hóa(1) như: Trời
cao mỏi mắt chòm mây bạc : trời, mây ở
đây là người, chứ không bị ví là người như bông hường của Xuân Diệu.
Thăm thẳm
trưa thời gian chết xanh, ngoài cõi chói chang hư ảo múa, hàng cây đứng bóng ôm
tròn gốc, đất ẩm vương hương cỏ trổ màu...: thời gian, hư ảo, hàng cây,
đất, cỏ... đều là người, và người lại biến thành vật ảo, thành bóng ma của chính mình:
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
Những rung động mới này xuất
phát từ những nghiệm sinh về tồn tại và thời
gian, hợp với cách tạo hình siêu thực, tạo thành "nỗi
đau hôm nay", một nỗi đau xâm thẳng vào bản thể, dày vò tâm thức, cực kỳ
nhức nhối (khác hẳn với nỗi đau lãng mạn êm dịu thời tiền chiến), tạo nên những
hình ảnh thầm lặng mà vô cùng chua xót như mùa hè đi khuất kêu không
lại, thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao... Nơi
Tô Thùy Yên, có tồn tại nào qua mắt được thời gian? Tồn
tại và thời gian ẩn
kiếp trong nhau: Không biết ai phụ ai? Ai lấn át ai? Ai chết trước ai?
Hải Phận, một bài thơ nhỏ với
mối sầu lớn. Tô Thùy Yên dựng hải phận tình yêu trong hải phận người. Vừa chia
cắt, vừa gần gụi như biển và cát, như nước và đá. Ảo tưởng gần xa, hợp tan,
sáng tối, tuy một mà hai, giao nhau tạo nên một mối sầu non trẻ luôn luôn bắt đầu,
luôn luôn trở lại:
Như một con sò giữa
chiếc vỏ
Chúng ta cuộn trốn trong tình yêu
Như đôi dã tràng không biết mỏi
Chúng ta khởi sự lại mối sầu
Chúng ta cuộn trốn trong tình yêu
Như đôi dã tràng không biết mỏi
Chúng ta khởi sự lại mối sầu
Từng chút vỗ về
từng chút một
Em tạt vào anh rồi rút đi
Thương tích chẳng lành chan muối xót
Bào sâu thân đá, nước tay ghì.
Em tạt vào anh rồi rút đi
Thương tích chẳng lành chan muối xót
Bào sâu thân đá, nước tay ghì.
Người lính trong hải phận
cũng nhập nhằng, khiêm tốn. Ở đây không có khí hạo nhiên, không có lời hào sảng
mà chỉ là những tích tụ đau thương, nhục cảm, tìm đến đối tượng yêu đương như
một cõi sống, cõi về, cõi hải đăng sáng diệu:
Anh sống làm quen cùng cái
chết
Liếm lấy mặn mà trên đau thương
Chìm mãi xuống em và mất tích
Như mặt trời rã trong nước loang.
Liếm lấy mặn mà trên đau thương
Chìm mãi xuống em và mất tích
Như mặt trời rã trong nước loang.
Vị thần mun hải
đăng trơ trọi
Trừng mỏi con mắt ngó không gian
Em trở về em chờ biến đổi
Trở về em như kim chỉ nam
(Hải Phận)
Trừng mỏi con mắt ngó không gian
Em trở về em chờ biến đổi
Trở về em như kim chỉ nam
(Hải Phận)
Sau này, nếu tất cả nhân gian đã bị thời gian cuốn đi,
ý thức cô đơn nơi Tô Thùy Yên sẽ còn dội lại như một âm thừa tưởng lạc
đến muôn sau. Và những gia tốc vận hành của nhà thơ, ngược thời gian, tìm
về tiền thân, rồi cũng sẽ được lưu lại như một thử nghiệm tư tưởng.
May ra, trong một mùa hạn nào đó, Tô Thùy Yên sẽ tìm thấy
May ra, trong một mùa hạn nào đó, Tô Thùy Yên sẽ tìm thấy
Ở đâu còn cụm mây hư ảo
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi
Tưởng tượng ta gom vào hiện kiếp
Trọn luân hồi ấy, một lần đi.
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi
Tưởng tượng ta gom vào hiện kiếp
Trọn luân hồi ấy, một lần đi.
Chú thích:
(1) Nhân hóa này rất khác với nhân cách hóa trong thơ lãng mạn: phất phơ hồn của bông hường (Xuân Diệu).
(1) Nhân hóa này rất khác với nhân cách hóa trong thơ lãng mạn: phất phơ hồn của bông hường (Xuân Diệu).
Tháng 10/1998
Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét