Trần Trọng Kim nghĩ về Đông, Tây
Đông, Tây khác thế nào?
Tây thế, thì ra thế nào?
- Thứ văn hóa vất vả
- Chưa chắc là hay
- Chưa chắc là hay
Đông theo Tây ra làm sao
- Hình thức loạn tinh thần
- Nhà mới của ta
- Nhà mới của ta
Ai cũng biết Trần Trọng Kim có công đầu trong việc khuyến khích cái học mới
bằng chữ quốc ngữ. Nhưng chắc ít người biết thực ra Trần Trọng Kim nghĩ gì về
cái học ấy. Đại khái, chênh lệch hiểu ông nó tương ứng với chênh lệch trong mức
phổ biến của hai tác phẩm Quốc văn giáo khoa thư và Nho
giáo của ông. Một đằng viết cho tất cả người Việt Nam học, một đằng
chỉ cho một thiểu số rất nhỏ đọc.
Trong Nho giáo, Trần Trọng Kim
không phải chỉ trình bày tỉ mỉ nhận thức sâu sắc của mình về "cái học hàm
dưỡng của người đời xưa", mà còn thỉnh thoảng tương phản nó với cái học
"ngày nay". Rồi từ hai quan niệm khác nhau về sự học, ông bàn rộng ra
đến cả những ưu, khuyết của hai nền văn hóa Đông, Tây.
Đáng trầm trồ: Mặc dầu tận mắt thấy Tây
nhờ thành công vật chất đã áp đảo Đông dễ dàng như thế nào, Trần Trọng Kim đã
không hề bị choáng ngợp mà hối hả suy tôn văn hóa Tây như đông đảo người Việt
Nam cùng thời; mặc dầu chưa qua Tây bao giờ để có thể khảo sát vấn đề tận gốc,
Trần Trọng Kim vẫn thấy được có cái gì đó rất không ổn trong khuynh hướng phát
triển của văn hóa Tây và vì thế đã tỏ ra hết sức dè dặt về tiền đồ của nó.
Nho giáo ra đời cách nay gần một thế kỷ, dĩ
nhiên khi viết Trần Trọng Kim không thể hình dung cụ thể được những tai họa
đang xảy ra vào đầu thế kỷ 21 do kết quả của "tiến bộ" không ngừng.
Chẳng hạn, chắc chắn ông đã không sao tưởng tượng nổi những cuộc hôn nhân đồng
tính. "Người mà đến thế thì thôi" (*), thì có còn là người nữa đâu!!!
Tiên cảm nhạy bén của tiền nhân đang chứng
nghiệm. Nhưng "ai ai (vẫn) háo hức theo người".
Học có hai nghĩa
Cái học hàm dưỡng của người đời xưa (...)
ngày nay có người cho là vô ích. Chẳng qua là người ta hiểu lầm cái chữ học.
Học có hai nghĩa: một là học để gây nuôi
cái nhân cách đặc biệt, đem cái tinh thần và cái tình cảm con người thoát ra
ngoài những điều hèn hạ, mà đi vào con đường cao khiết, thanh nhã. Hai là học
để chuyên tập một nghề nào cho sành mà ứng dụng ở đời.
Có lẽ ngày nay người ta bỏ quên cái nghĩa
thứ nhất, mà chỉ chú trọng ở cái nghĩa thứ hai, cho nên thấy cái gì không có
lợi ngay, thì cho là vô ích.(1)
"Đời xưa" với "ngày
nay" đây gần nhau lắm. Một đằng là mới trước thời Pháp thuộc, đằng kia là
chỉ vài chục năm sau khi thời Pháp thuộc bắt đầu. Chỉ có vài chục năm thôi mà
"người ta (đã) quên cái nghĩa thứ nhất" của chữ "học".
Sở dĩ mau quên thế, ấy là do loài người
lúc nào cũng bị vật chất "ám" rất nặng.
Trước kia đa số quý cái học làm người,
thiết tưởng không phải là thực biết yêu "cao khiết" với "thanh
nhã" đâu, mà chẳng qua thấy học làm người xong có thể thi đỗ, ra làm quan!
Dù thi không đỗ, thì những người thi đỗ, làm cha mẹ dân, cũng dạy dân phải kính
nể bất cứ ai cố học làm người. Nhưng sau năm 1919, học lối đời xưa không thể
"nên quan" nữa. (**) Bèn lập tức bị "cho là vô ích".
Qua thời kỳ mới, học tức là "chuyên
tập" một cái nghề. Bây giờ không có ai dạy dân phải quý sự học nữa. Dân cứ
theo mức thu nhập của từng nghề mà quý nhiều hay quý ít nghề ấy. Dân được giải
phóng khỏi khuôn tinh thần cũ kỹ, từ đây tha hồ sống theo cái bản năng tôn thờ
vật chất.
Nhân tiện, nói qua về một lối học mới khác
vẫn chưa phổ thông ở ta. Là học để nghiên cứu khoa học. Lối học này chắc dân
không quý mấy đâu, vì nói chung chỉ dẫn tới thu nhập bình thường. Kể ra, tuy
nghiên cứu là hoạt động trí tuệ cao nhưng nhà nghiên cứu làm việc bất quá để
thỏa mãn óc tò mò của mình, có giỏi đến đâu bản thân cũng chẳng hề trở nên
"cao khiết, thanh nhã" hơn tí nào, việc gì ta phải đặc biệt quý!
Nhà mới, nhà cũ
Nhà (...) đường lối rất phân minh (...)
trong nhà (...) ngăn nắp, buồng nào ra buồng ấy (...) phải một tội (...) đã vào
buồng nào, thì các cửa đóng bịt lại, chỉ để mở có một cửa sổ. Lúc đầu mới vào
còn lạ, thì cũng thích. Sau ngồi lâu (...) chỉ thấy ánh sáng có một mặt còn thì
không trông thấy mặt khác có những gì nữa, thành ra chán và mỏi (...)
Cái nhà học cũ của ta (...) mát mẻ (...)
chung quanh cây cối mọc tự nhiên, không có sửa sang gì mấy. Ở trong nhà thì bốn
mặt mở toang ra, trông về mặt nào cũng được. (2)
Trần Trọng Kim đang so sánh tư tưởng
phương Tây với tư tưởng phương Ðông...
Phía, có phía trước mặt là tương lai, phía
sau lưng là quá khứ, phía tay mặt phía tay trái là nơi đồng loại mình đang đứng
cùng mình.
Giống người cực đoan kia không ngoái nhìn
lại, cũng không nhìn sang hai bên (vì quá kiêu căng), mà cứ một mực xăm xăm xúi
xúi lao bổ về phía trước. Cứ cưỡi phi thuyền mà bay nữa đi, có ngày sẽ đến được
chỗ có năm cái "cột chống trời" đấy, con khỉ đá ạ.
Bệnh khỉ lây nhanh hơn cháy rừng, bây giờ
còn ai không khỉ nữa đâu. Coi như toàn thể nhân loại đã vào cả trong một cái
"buồng một cửa sổ" rồi!
Văn hóa phương Tây thì làm (...) sự cần
dùng càng ngày càng thêm ra, sự cạnh tranh rất kịch liệt, sự sinh hoạt có lắm
điều phiền phức, nhân sinh hình như lúc nào cũng chật vật vất vả, không mấy khi
trong bụng được nhàn hạ thư thái.(3)
Những vấn đề của văn hóa Tây phương mà
Trần Trọng Kim nêu ra đều gốc ở cái ám ảnh "tiến bộ": Tây luôn
"đãi túc" chứ không chịu "tri túc"...
Ngoài thứ niềm tin gây bức xúc trầm trọng
vừa nói, Tây còn vài ám ảnh khác cũng rất đỗi "căng". Cái Tôi quá
lớn, chẳng hạn, chắc chắn nó là chánh phạm đằng sau không biết bao nhiêu con
bệnh tâm thần (có thể bạo động đến mức giết người hàng loạt) và không biết bao
nhiêu vụ ly dị ly thân...
Người giết người và người không sống chung
được với người. Bây giờ người bắt đầu thôi làm người (như ta biết, như Chúa đã
nặn): nam lấy nam, nữ lấy nữ! Có lẽ chỉ 50 năm nữa, ở phương Tây sẽ nổi lên
phong trào lấy... người máy!
Cái văn hóa ấy nó "phiền phức"
không tưởng tượng nổi, đấy cụ Trần ơi.
Chưa chắc là hay
Xét ra cho kỹ, sự tiến hóa thái quá về
đường vật chất vị tất đã hay cho sự sinh hoạt của loài người (...)
Ta nay thấy người cường thịnh, thì ai ai
cũng háo hức theo người, biết đâu rằng cái cường thịnh ấy lại không có cái nguy
cơ đã nằm sẵn đó rồi. (4)
Công nhận hôn nhân đồng tính!!!
Chỉ không tới một thế kỷ sau khi Trần
Trọng Kim giấy trắng mực đen nỗi lo của mình, loài người đang bắt đầu biến
chủng.
Cứ đà này, không lâu lắm nữa, loài người
như ta biết sẽ coi như tuyệt chủng.
Hình thức loạn tinh thần
Chỉ bắt chước được cái hình thức (...) mà
thôi, còn cái tinh thần (...) lâu ngày (sẽ) nhiễm (...) mà hóa (...) (chứ) khó
lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước của mình, chỉ là
làm loạn cả tính tình, tư tưởng và phong tục của mình.(5)
Thấy Tây giàu mạnh, trông cái gì của Tây
cũng... lác mắt, bắt chước lấy bắt chước để.
Gái Tây mặc quần hở đít, "người con
gái Việt Nam da vàng" vội vàng khoe đít. Tây trời sinh tóc màu rơm màu râu
ngô, "con Rồng cháu Tiên" vội vàng nhuộm cho tóc cũng râu ngô cũng
rơm. A, cái quần cái tóc nó "làm loạn cả tính tình, tư tưởng và phong tục
của mình" đấy, chứ không phải thường đâu.
"Tinh thần (...) lâu ngày (sẽ) nhiễm
(...) mà hóa". Hóa ly dị như điên, bạo động như điên, hóa "bóng"
hóa "ghê" (***), chứ không phải hóa tiên hóa phật gì đâu!!!
Nhà mới của ta
Làm thế nào cho (...) ta vẫn là ta, chứ
không lẫn với người (...)
Ra sức xây lấy một cái nhà thật đẹp theo
kiểu mẫu rất mới, mà vẫn là nhà của ta, chứ không giống nhà của người. (6)
Đầu
thế kỷ 20, mọi người Việt Nam đều thấy văn hóa truyền thống không còn hợp thời,
thấy nhu cầu xây dựng một nền văn hóa mới.
Năm 1930, Trần Trọng Kim đặt ra
yêu cầu cho "nhà" mới: tha hồ mới, nhưng không được giống
"nhà" người khác!
Đầu thế kỷ 21, những ai đấy
đang chỉ đạo công trình ơi, hãy ngắm lại xem cái nhà ta đang xây có "ngẫu
nhiên" giống nhà Tây như đúc chăng?!.
(*) Truyện Kiều, câu 179.
(**) Kỳ thi Hội cuối cùng năm
1919. Thi Hương ở Bắc kỳ chót năm 1915, ở Trung năm 1918.
(***) Tức gay tiếng Anh, nghĩa là đồng tính.
(1) Trong lời "Tự tự"
của Đường thi, không biết
in lần đầu năm nào, chỉ biết chắc chắn không sớm hơn 1944.
(2) Trần Trọng Kim, Nho giáo, in lần đầu năm 1930, nxb.
Vãn Học, VN, tái bản năm 2003, tr. 690.
(3) TTK, sđd., tr. xiv.
(4) TTK, sđd., tr. 36 và tr.
682.
(5) TTK, sđd., tr. xii.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét