Huy Cận nghĩ về thơ
Nghe Bụt chùa nhà
Lao động nghệ thuật
Thơ ca di dưỡng tinh thần
Rung động thơ
Sự đầu thai của một tứ thơ
Vai trò của trạng từ trong câu thơ
Trí nhớ trong sáng tạo văn học
Lao động nghệ thuật
Thơ ca di dưỡng tinh thần
Rung động thơ
Sự đầu thai của một tứ thơ
Vai trò của trạng từ trong câu thơ
Trí nhớ trong sáng tạo văn học
ác cụ ta xưa kia sống cái triết Đông chứ không suy
luận miên man về triết Đông. Các cụ ta xưa kia làm thơ chứ không lý luận miên
man về thơ.
Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ
sống, nói như Phạm Quỳnh, khiến "ta thật đáng thờ (...) làm ông cha".(1) Không
luận liếc gì cả, nhưng các cụ thơ "động đất trời"...(2)
Chưa gặp Tây, người Việt Nam coi như chỉ
sống và thơ. Gặp Tây, thấy Tây luận say sưa, thỉnh thoảng ta cũng luận tí cho
vui, sau khi đã sống và thơ thật đã đời. Sau hơn nửa thế kỷ sáng tạo, Huy Cận
có gửi lại cho hậu thế chút suy nghĩ về nghệ thuật.(3) Cái
nghĩ nói chung thấu đáo mà cách diễn cái nghĩ nhiều chỗ cũng thú vị ghê. Ai ưa
luận vì luận thì đi nghe Bụt ở... Tây phương, còn ai thích luận vì thơ thì đây
tiếng "Bụt chùa nhà"!
Nghe Bụt chùa nhà
"Cha ông" mà Huy Cận nói đây
cụ thể là một người xưa nào đó đã phát biểu rằng "Văn chương là tiếng chim
gọi đàn".
Đối với chúng ta bây giờ, Huy Cận chính
là bậc "cha ông". Vậy ta hãy chú ý lắng nghe "Bụt" Lửa
Thiêng "thuyết thơ".
Chúng ta ngày nay có dịp tiếp xúc với nhiều lí luận văn nghệ của các nước
(...) điều ấy rất bổ ích cho sự nghiên cứu, tìm tòi của chúng ta. Nhưng thiết
tưởng cũng cần tìm hiểu (...) những suy nghĩ, những tổng kết của cha ông về văn
học, nghệ thuật. Chả lẽ bụt chùa nhà thì cứ phải kém thiêng!
Lao động nghệ thuật
Nghệ phẩm có xác và hồn.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, xác
và hồn cùng lớn lên với nhau, ảnh hưởng qua lại. Chứ không phải là hồn đã lớn
sẵn từ đầu và trơ trơ trong khi nghệ sĩ làm xác.
Một cảm nghĩ hết sức mơ hồ chợt hiện ra
thành vài câu thơ rất đỗi vu vơ. Những câu thơ đầu tiên ấy giúp cảm nghĩ trở
nên rõ ràng hơn một chút, hiện ra thành những câu thơ bớt vu vơ hơn một chút,
rồi những câu thơ mới này lại giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn chút nữa v.v.
Nếu như lao động sáng tạo ra con người,
thì lao động nghệ thuật sáng tạo ra con người nghệ sĩ... Người nghệ sĩ phải tự
tạo luôn luôn thì mới sáng tạo được tác phẩm. Tự tạo bằng cách tự nhào nặn mình
trong cuộc sống, qua hành động, và cũng tự nhào nặn thường xuyên qua lao động
nghệ thuật nữa. Chính lao động nghệ thuật ấy tiếp tục sáng tạo ra nội dung,
sáng tạo ra tâm hồn. Không phải rằng lúc ta đến bàn viết, lúc ta vào xưởng vẽ
là ta đã có sẵn, hoàn chỉnh, tác phẩm trong đầu và chỉ còn cái việc thể hiện ra
bằng tay vẽ, tay viết. Làm như là đã mang sẵn tác phẩm trong tâm trí và chỉ
việc phiên dịch ra bằng ngôn ngữ nghệ thuật, bằng chữ hay bằng nét vẽ hoặc màu
sắc! Trăm lần không phải như vậy! Lúc anh ngồi vào bàn hay vào xưởng, anh chỉ
mới có cái "khung", chỉ mới có một niềm xúc động. Nhưng anh còn phải
lao động đổ mồ hôi để cụ thể hóa niềm xúc động ấy, để cho niềm xúc động ấy đầu
thai vào những hình tượng, thành những hình tượng. Anh còn phải vật lộn trầy
xương với cái vật chất của chữ, của vật liệu, của đường nét, của màu sắc, của
âm thanh, làm cho cái vật chất ấy chịu nói cái tâm hồn mà anh cảm thấy đang
hình thành, mà không có vật chất ấy thì cái tâm hồn kia cũng không hình thành
được (...)
Một nhà phê bình (...)
thường đơn giản hóa vấn đề đi, không thâm nhập vào quá trình biện chứng của
việc sáng tạo nghệ thuật, cho nên không bắt được phép biện chứng của sự sáng
tạo.
Yêu thay Nguyễn Du
(theo người ta kể) trăm lần viết lên cánh cửa những câu thảo của Truyện Kiều, xóa
đi, chữa lại (...)
Thơ ca di dưỡng tinh thần
Làm hay đọc một bài thơ hay, đều được
sướng.
Nhưng người làm thơ sướng nhiều hơn
người đọc thơ.
Vì ngoài cái sướng trong tư cách một
người đọc bài thơ đã làm xong (thi sĩ cũng là một độc giả của thơ mình), người
làm thơ trước tiên có cái sướng trong khi sáng tạo. Ồ, trông thấy tận mắt một
cảm nghĩ hết sức mơ hồ nhờ sự cố gắng và năng khiếu của mình mà hiện ra thành
lời, lớn dần, chín dần thành một bài thơ giá trị, sướng để đâu cho hết!
Kẻ trồng cây sướng hơn người chỉ ăn quả,
như thế cũng là lẽ công bằng.
Các cụ ta ngày xưa thường nói "thơ
ca di dưỡng tinh thần". Đúng lắm! (...) (Thơ giá trị chứa) một trạng thái
tâm hồn, hơn thế nữa, một trạng thái tâm thần (...) cởi mở, thư thái mà sôi
nổi, hào hứng mà lắng trong, một trạng thái toàn diện trong đó ý và tình đều
như đang sinh ra, đang nhú lên, tình đang đọng thành ý, ý còn mang tất cả cái
rung động của tình, một trạng thái tinh khôi, sáng tạo. Tâm thần được nuôi
nhiều bằng (thứ) trạng thái ấy. Đúng là một chất di dưỡng cho tâm hồn. Có cái
gì giống như là trái đang chín cây, chứ không phải chín dú. Trạng thái đang
chín đó đã truyền từ tâm hồn người làm thơ, qua cơ thể bài thơ, câu thơ. Bởi
một bài thơ hay là một cơ thể sống trong đó ý và tình, cảm giác và cảm tưởng,
chữ và nhịp, hình tượng và nhạc điệu, tất cả đều tồn tại trong một thể thống
nhất, gây thành một xúc động thống nhất, toàn diện. Tóm lại là một hiện tượng
của sự sống, không phải là một sơ đồ. Hiện tượng ấy là một hiện tượng cởi mở,
đón chờ, đang chín, thuận cho mọi sự thai nghén, tụ thành.
Cho nên có những điều
kỳ lạ, tưởng như mâu thuẫn, lúc nhà thơ đang làm thơ và lúc độc giả đang đọc
thơ, đang hưởng thơ. Ví dụ: làm hoặc đọc một bài thơ về đau khổ, về nỗi dằn vặt
của tâm hồn, hay nung cháy tâm can. Theo lý luận thông thường thì lúc đó nhà
thơ hay người đọc thơ phải ở trạng thái đau khổ, dằn vặt. Nhưng không! Nhà thơ
làm thơ về đau khổ trong một trạng thái tâm hồn hào hứng, trong một trạng thái
trái đang chín cây. Người đọc thơ được di dưỡng tinh thần với trạng thái ấy,
mặc dù người làm thơ có thể mang nỗi đau khổ trong đáy tâm hồn mình.
Rung động thơ
"Nỗi niềm tinh vân", so sánh
hay và đẹp quá!
Nhưng khi Huy Cận bảo "Thưởng thức
thơ là phải biết sống lại (...) quá trình từ nỗi niềm tinh vân đọng lại dần
thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ", thì e rằng ông đã đòi hỏi quá
nhiều nơi người thưởng thức.
Chẳng những độc giả không tài nào
"sống lại" quá trình sáng tạo của thi sĩ, mà chính thi sĩ có lẽ nói
chung cũng khó thực sự sống lại được cái quá trình sáng tạo một bài thơ nào đó
của mình!
Lần trước nói thi sĩ sướng nhiều hơn độc
giả vì đã sướng ngay từ lúc còn đang sáng tạo. Lần này xin nói thêm rằng cái
sướng "đầu tiên" ấy có lẽ nói chung chỉ hưởng được có đúng một lần.
Trong khi cái sướng thưởng thức bài thơ
làm xong thì cứ mỗi lần đọc lại là mỗi lần hưởng lại!
Rung động làm ra thơ, làm ra nghệ thuật,
cũng cùng loại với rung động của tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động,
bắt đầu của một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là
nỗi-niềm-tinh-vân. Bắt đầu chưa có câu, chưa có lời, thậm chí chưa có tứ cụ
thể. Câu sẽ đến sau, lời sẽ đến sau. Nhưng trước hết là một nỗi niềm ùn ùn
trước ngực, rạo rực tâm hồn. Bắt đầu là tinh vân, tinh vân đọng lại mới hình
thành mặt trời, mặt trăng và các hành tinh... Từng câu, từng lời cũng như những
hành tinh, mặt trời, mặt trăng đọng lại từ tinh vân nguyên thủy.
Thưởng thức thơ là
phải biết sống lại quá trình ấy, quá trình từ nỗi-niềm-tinh-vân đọng lại dần
thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ. Biết sống lại quá trình tác tạo ra
một bài thơ là "hiểu", là xúc động thơ từ bên trong một cách biện
chứng. Cho nên người thưởng thức thơ ít nhiều cũng có hồn thơ như vậy.
Nói nỗi niềm tinh vân,
có phải là huyền bí hóa rung cảm thơ, của người làm nghệ thuật không? Thực ra
không có gì là huyền bí, vì nỗi niềm tinh vân ấy cũng là do một quá trình tích
lũy lâu dài của người làm thơ, của người làm nghệ thuật mà có được; tích lũy
vốn sống và cuộc sống, tích lũy hình tượng nó là tín hiệu sống, giữa vạn vật và
cuộc đời với tâm hồn thi sĩ và nghệ sĩ. Tích lũy càng giàu, càng nặng thì
nỗi niềm tinh vân càng phong phú, càng thiên biến vạn hóa, và xúc động thơ, xúc
động nghệ thuật càng muôn vẻ, muôn màu, bồi hồi sự sống. Hiểu được như vậy sẽ
giúp ta giảng dạy văn học đi vào bề sâu của tâm hồn, và bề sâu của tác phẩm.
Sự đầu thai của một tứ thơ
Đọc Huy Cận sau đây, chợt nghĩ tới
chuyện dịch thơ.
"Hồn và xác của một bài thơ quyện
nhuyễn vào nhau làm một"...
Hai cái quyện nhuyễn làm một, nên hễ
đụng tới cái này là đụng luôn tới cái kia, mà dịch là đụng hết sức mạnh tới
xác, là thay hẳn xác, tức không đừng được cũng là thay hẳn hồn. Vậy bài thơ
dịch không có chút liên hệ gì với bài thơ nguyên tác hay sao?
Không hẳn như thế. Hồn của một bài thơ
là một "tổng thể xúc động" trong đó có tứ. Bài thơ dịch có liên hệ
với bài thơ nguyên tác vì hồn của nó chứa tứ của nguyên tác.
Sự đầu thai của một tứ thơ vào một thể
lọai thơ, vào những hình tượng thích ứng, đó là một quá trình hào hứng và rộn
rực, có khi dằn vặt. Một quá trình có qui luật của nó. Không phải tứ thơ nào
cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức, thể loại nào. Trong đời làm thơ của
tôi, có mấy lần tôi phải thay áo cho thơ, phải đổi thể loại thì tứ thơ mới bật
ra được.
Ví dụ: bài Đẹp Xưa
trong tập Lửa thiêng lúc đầu làm theo thể Đường luật:
"Ngập ngừng mép
núi đường quanh co
Quán đứng chơ vơ ngọn lá đưa
Gió hút về ngàn vi vút mãi
Dạt sườn thung lũng hàng lau thưa..."
Quán đứng chơ vơ ngọn lá đưa
Gió hút về ngàn vi vút mãi
Dạt sườn thung lũng hàng lau thưa..."
Đọc nhám mãi, thấy còn
nhẹ quá, có cái gì hẫng, không đạt được cái đẹp xưa trong cảnh sắc tâm hồn và
tạo vật. Ý thì không có gì thay đổi nhưng điệu thơ, âm hưởng của câu thơ thì
thử phổ lục bát xem sao:
"Ngập ngừng mép
núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon...
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Chơ vơ buồn lạc quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người".
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon...
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Chơ vơ buồn lạc quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người".
Rõ ràng là trong
trường hợp này, lần đầu thai sau đúng chỗ hơn: bài lục bát thơ đọng hơn bài
Đường luật.
Bài Tràng Giang trái
lại, lúc sơ khai lại muốn là một bài lục bát và tên nguyên thủy của nó là Chiều
Trên Sông. Nhưng cái nhịp điệu Đường luật đến ám ảnh ngay sự xúc động của tác
giả và đặc biệt cái nhịp láy của sóng nước, của thuyền nan đã đầu thai ngay
thành nhịp láy của ngôn ngữ:
"Sóng gợn tràng
giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"
Con thuyền xuôi mái nước song song"
và cái xao động của
cảnh chiều, của sông nước nhập thành cái xao động của cuộc đời. Bài thơ tưởng
là tả cảnh, thật sự là tả tâm hồn, mang ý nghĩa tượng trưng rất tự nhiên, bằng
cái lô-gíc bên trong của nó.
"Sóng gợn tràng
giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu
hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sầu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sầu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng
nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Xác và hồn, hồn và xác
của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một. Khi ta đụng vào xác, sửa đổi một
tí trong xác làm ảnh hưởng đến hồn của bài thơ, ấy là một dấu hiệu của thành
công. Còn như thay đổi vần điệu, câu chữ, thậm chí thay đổi cả thể loại mà cảm
thấy hồn thơ, tứ thơ không bị ảnh hưởng gì, thì đó một điều đáng lo.
Nội dung quyết định
hình thức, có nghĩa là phải tìm cho ra hình thức thích hợp để cho nội dung đầu
thai thành máu thịt của tác phẩm, chứ không có nghĩa xem nhẹ sự sáng tạo hình
thức. Không có hình thức đẹp thì lấy đâu cho nội dung đẹp tồn tại! Xin nhớ rằng
nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ là ý, mà là cả một tổng thể xúc động
của tác phẩm.
"Nao nao" là từ cụ
tượng hữu cảm, vì nó vừa mô tả vật cụ thể vừa chứa cảm xúc của người nhìn.
"Bâng khuâng" là từ trừu tượng cảm xúc, vì nó không tả
vật cụ thể nào hết mà chỉ chứa cảm xúc.
Hai nhóm từ vừa nói trên nếu người làm
thơ khéo dùng thì sẽ có "hiệu quả (...) vô cùng lớn lao" đối với giá
trị nghệ thuật của câu thơ.
Từ lâu tiếng Việt đã hết sức giàu hai
nhóm từ ấy!
Vật liệu thơ đã sẵn sàng, chỉ cần chờ...
Nguyễn Du múa bút khiến chúng kết lại với nhau thành tuyệt phẩm văn chương!
Trong câu thơ, mỗi chữ, mỗi tiếng không
chỉ mang cái nghĩa nguyên sơ của nó, cái nghĩa định trong từ điển của nó, mà
thấm nhuần cái sức xúc cảm của chữ bên cạnh, của chữ láng giềng; chữ trước nó
và chữ sau nó tỏa điện vào nó, biến nó thành một nghĩa mới, mang cảm xúc mới.
Đây không phải là một vấn đề hình thức mà thôi. Sở dĩ có hiện tượng truyền điện
như vậy là do có một luồng điện, tức là ý thơ, hồn thơ nó chạy suốt qua câu
thơ. Vì vậy trong một câu thơ có một độ tối ưu để sắp xếp các chữ, các ý. Nếu
tham nhét nhiều thứ quá, nhiều tính từ quá vào một câu thơ thì tăng điện trở,
tăng chướng ngại vật, luồng điện thơ không qua được. Cũng vì vậy mà trạng từ có
vai trò đặc biệt, trạng từ có sức dẫn điện cao. Vì sao? Phải chăng trạng từ nói
lên dáng dấp của sự vật, dáng dấp của tâm hồn. Mà cái dáng dấp ấy linh hoạt
lắm. Khéo dùng trạng từ thì câu thơ dễ truyền đạt cho ta trạng thái tâm hồn
thông qua trạng thái sự vật.
"Nao nao dòng
nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh".
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh".
"Nao nao",
"sè sè", "rầu rầu", vẽ lên dáng dấp rất khó tả của buổi
chiều thanh minh và nàng Kiều lần đầu tiên gặp bóng dáng của số mệnh:
"Động phòng dìu
dặt chén mồi
Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa".
Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa".
Hai tiếng "bâng
khuâng", "ngậm ngùi" có thể là tính từ, nhưng thực chất là trạng
từ. Nếu tính từ thì cũng đã trạng từ hóa. Dáng dấp của tâm hồn chàng Kim nhớ
mối tình đầu với nàng Kiều trong buổi sum vầy trở lại "tình nhân lại gặp
tình nhân", chỉ cần hai trạng từ là nói được đầy đủ.
Dáng dấp của một hồn
ma cũng vẽ được dễ dàng:
"Sương in mặt,
tuyết pha thân
Sen vàng lãng đãng như gần như xa".
Sen vàng lãng đãng như gần như xa".
Trạng từ thật là chiếm
ưu thế để mô tả dáng dấp sự vật và tâm hồn, đến nỗi trong câu thơ Việt có xu
hướng trạng từ hóa tính từ:
Nhân đây có một nhận
xét: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du rất tiết kiệm dùng tính từ; không phải là
không dùng, nhưng dùng rất dè dặt, rất cẩn thận, rất tiết kiệm. Trái lại trạng
từ lại được dùng nhiều. Cũng có khi đáng lẽ dùng một tính từ thì Nguyễn Du mô
tả dưới dạng động của sự vật.
Ví dụ:
Ví dụ:
"Sương in mặt,
tuyết pha thân"
để nói cái màu trắng
thực thực hư hư của hồn ma Đạm Tiên.
"Làn thu thủy nét
xuân sơn"
cũng theo một bút pháp
ấy.
Nhớ câu ca dao:
"Mưa lâm thâm ướt
đầm lá hẹ
Em thương một người có mẹ không cha".
Em thương một người có mẹ không cha".
Trạng từ "lâm
thâm" thấm vào tâm hồn chúng ta còn hơn là mưa.
Dáng dấp của sự vật,
tâm hồn... Cho nên dùng trạng từ rất khó. Nhưng dùng đúng thì hiệu quả xúc cảm
vô cùng lớn lao.
Trí nhớ trong sáng tạo văn học
Có lẽ có thể nghĩ như thế này: Đối diện
thực tại, giác quan thu hình ảnh rồi tâm hồn nẩy sinh ấn tượng về hình ảnh. Nhớ
có thể là nhớ hình ảnh, có thể là nhớ ấn tượng, có thể cả hai.
Làm nghệ thuật cần ấn tượng. Nếu mất ấn
tượng mà còn hình ảnh (trong trí nhớ hoặc sổ tay), có thể ngắm hình ảnh để cố
nhớ ấn tượng.
Kể ra, có thể ngắm hình ảnh cũ mà nẩy ấn
tượng mới, nhưng thường thì nếu việc xẩy ra lâu rồi khi ngắm lại hình ảnh cũ ta
chỉ... trơ mắt ếch chứ không cảm thấy thế nào cả.
Nếu không nhớ nổi ấn tượng cũ, cũng
không sinh nổi ấn tượng mới, thì đành không làm được nghệ thuật.
Trí nhớ cũng cần cho sáng tạo văn học,
vì trí nhớ (...) tích lũy vốn sống, chất liệu của nghệ thuật (...) Phải trau
dồi trí nhớ. Sổ ghi chép là cần thiết, nhưng không đủ, nếu không có trí nhớ làm
gốc (...) Có hai loại trí nhớ (...) hay đúng hơn là hai cách nhớ: Một là nhớ
các sự việc, chi tiết của sự việc, có khi cả chi tiết tỉ mỉ (...) bên cạnh
(...) còn cách nhớ trạng thái tâm hồn của chính bản thân tác giả lúc sự việc
(...) đang xảy ra (...) Có lẽ cách thứ nhất cần nhiều cho người viết tiểu
thuyết, và cách nhớ sau cần cho người làm thơ nhiều hơn (...) lúc làm bài thơ
là lúc phải sống lại đầy đủ xúc động của tâm hồn (...)
chỉ có thể làm thơ
tình yêu vào lúc đang yêu, kể cả lúc làm thơ hoài niệm về tình yêu, vì hoài
niệm là còn yêu, là yêu nuối, là ngọn lửa tình yêu bừng dậy một lần nữa, có thể
để rồi tắt ngóm. Khó tưởng tượng một nhà thơ làm thơ tình yêu bằng cách mở các
"ký họa" về tình cảm mà nhà thơ đã ghi chép được trước đây (...)
rèn luyện trí nhớ nói
cho cùng là tích lũy vốn sống một cách cần mẫn, làm cho quá khứ luôn luôn sống
trong cơ thể, trong tâm hồn.
(1) Phạm Quỳnh, "Luận về quốc
học", Nam Phong số 163, 6-1931.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét