Ðạo Ca và Thiền Ca,
hai tựa đề có tính cách song song nhưng không đồng nhất, được sáng tác trong
hai bối cảnh dị biệt, cách nhau hai mươi năm. Với hai Phạm Duy khác nhau. Cả
hai đều đi ra ngoài hành trình âm nhạc đại chúng của Phạm Duy. Không có những
yếu tố cận nhân tình như: quê hương, ca dao, dân tộc... Ðạo Ca mở
đường và Thiền Ca kết thúc cuộc hành trình tìm đạo của một kẻ
ngoại đạo.
Trong vòng tử sinh của kiếp người (trầm trong bể khổ), Ðạo Ca cất lời mầu nhiệm thiết tha, đưa ta vào chặng đầu của giáo lý nhà Phật. Nhạc Phạm Duy, thơ Phạm Thiên Thư, giọng hát thiên sứ Thái Thanh hướng dẫn "chúng sinh" -từ cõi vô minh- lắng nghe số kiếp trầm luân của chính mình mà vượt trùng luân hồi, tìm về bến giác:
Trong vòng tử sinh của kiếp người (trầm trong bể khổ), Ðạo Ca cất lời mầu nhiệm thiết tha, đưa ta vào chặng đầu của giáo lý nhà Phật. Nhạc Phạm Duy, thơ Phạm Thiên Thư, giọng hát thiên sứ Thái Thanh hướng dẫn "chúng sinh" -từ cõi vô minh- lắng nghe số kiếp trầm luân của chính mình mà vượt trùng luân hồi, tìm về bến giác:
Xưa em là kiếp chim,
chết mục trên đường nhỏ
Anh là cội băng mai, để tang em, chờ mấy thuở...
Mai sau chờ nhau nhé, đầu thai vào kiếp hoa
Chốn mây mờ phiêu bạt, chờ đợi chim hót ca...
Anh là cội băng mai, để tang em, chờ mấy thuở...
Mai sau chờ nhau nhé, đầu thai vào kiếp hoa
Chốn mây mờ phiêu bạt, chờ đợi chim hót ca...
Nhạc Phạm Duy trong Ðạo
Ca thanh thoát và thắm thiết như tâm hồn một thiền sư, tuy đã gột rửa
"lòng trần" nhưng vẫn còn tha thiết ngoái lại dĩ vãng với luyến tiếc
và u hoài. Giọng hát pha lê Thái Thanh cất lên, nguyện cầu, vút cao, thăm thẳm,
thánh thiện mà đam mê như muốn hướng dẫn con người cư xử với nhau trong đạo đức
và nhân ái :
Thương người như thương mình
Thương người như thương thân.
Thương người như thương thân.
Ðạo Ca "phổ
nhạc" giáo lý cơ bản và sơ đẳng của nhà Phật. Là Phật pháp hiểu theo nghĩa
đại chúng : hành thiện để kiếp sau khá hơn kiếp trước, vì :
Sinh tử vẫn còn đây
Ðời này qua đời nọ
Tử sinh vẫn còn kia...
Ðời này qua đời nọ
Tử sinh vẫn còn kia...
Phạm Duy và Phạm Thiên Thư
dường đã thơ mộng hoá kinh điển nhà Phật: đem tình yêu vào đất Phật. Nhưng hồn
của Ðạo Ca mới chỉ là hồn bướm mơ tiên, là tình
yêu chưa kịp bước vào vườn địa đàng đã "thoảng nghe tiếng chầy kình"
của thiền sư Không Lộ mà giật mình tỉnh ngộ quay về với đạo lý. Tình yêu trong Ðạo
Ca là thứ tình nửa chừng xuân : tình yêu diệt dục. Ðạo
Ca thuộc về Ðạo, là ý thức muốn giác ngộ, đang tìm đường
giác ngộ, nhưng mới đi được nửa đường. Ðạo ca Tâm Xuân kết
thúc cuộc hành hương bên bờ nghi vấn :
Mùa xuân có không? Hay là cõi Tâm?
Mùa xuân có không? hay là cõi Không?
Mùa xuân có không? hay là cõi Không?
Thiền Ca,
hai mươi năm sau, Phạm Duy phá giới, bước ra ngoài vòng đạo lý, vì đã thấy
chính mình. Phạm Duy trong Thiền Ca xác định nội dung giác
ngộ, qua ngả tự giác, bằng chính sự sống. Thiền Ca thuộc về
đời.Thiền Ca là Sinh Ca, là Tình Ca, xa và
cao hơn Ðạo Ca trong triết lý. Thiền Ca thể
hiện bến giác cho nên Thiền Ca gần người mà
cũng rất xa người. Chặng đường từ Ðạo đến Thiền của
Phạm Duy gồm thâu hành trình hơn bảy mươi năm sống và sáng tạo. Thiền Ca tổng
kết hành trình ấy, đồng thời xác định phong cách nghệ sĩ của Phạm Duy, một
phong cách rất Thiền, rất Ðạo mà lại phản Thiền, ngoại Ðạo.
Phản Thiền, bởi
vì muốn đạt tới trạng thái thượng đỉnh (giác ngộ, niết bàn, phật tánh...) thì
phải sống xa tục lụy, tĩnh tâm, tham thiền nhập định. Con đường tới Thiền tịch
lặng, cô đơn. Phong cách sống với, sống vì quần chúng, tác phong trình diễn của
Phạm Duy, tự nó, có nội dung sinh động, một tư chất phản Thiền. Tuy phản Thiền
nhưng lại rất Thiền vì ba đặc trưng khai phóng nhân sinh của Thiền(1): trực
nhận, vô ngôn và vô ngã luôn luôn hiện diện trong Phạm Duy,
con người và tác phẩm.
Âm nhạc là một
nghệ thuật dựa trên hai yếu tố căn bản : vô ngôn và trực
nhận. Âm nhạc đến hoặc không đến với chúng ta. Chúng ta cảm hoặc không cảm
một bản nhạc. Với âm nhạc, không có vấn đề : hiểu hoặc không hiểu. Với âm nhạc
không cần lý luận, dẫn giải. Âm nhạc là vô ngôn, là thứ ngôn ngữ
thượng từng. Phạm Duy tận dụng hai tính chất trực cảm và vô
ngôn của âm nhạc để nói, để sống và để sáng
tác trong suốt cuộc đời. Cái học của Phạm Duy dày trường
đời hơn trường học. Phạm Duy đạt tới cao độ của nghệ thuật không bằng con đường
tri thức, lý luận mà bằng trực cảm: sáng tác chớp nhoáng một bản nhạc
trong giây lát, đặt lời cho một bài ca trong vài sát na. Phạm Duy chưa từng
khổ công học nhạc trước khi sáng tạo ra những tuyệt phẩm Nương Chiều (1947), Bà
Mẹ Gio Linh (1948), Về Miền Trung (1948)... Bản nhạc
đầu tay Cô Hái Mơ (1942) đã mang đặc chất Phạm Duy. Và Thiền
Ca là sản phẩm làm trong một đêm để xưng tụng người tình. Bản chất
Phạm Duy chống lại và khinh thường cái học hàn lâm. Về "cái biết" của
mình, Phạm Duy thường nói "tôi học lóm". Ðối với đám "học
sĩ", Phạm Duy là người ngoại đạo. Tư chất coi thường
sách vở, sáng tác đột xuất, thấy nhanh, không qua trung gian của tư tưởng ấy
cũng là một tư chất rất Thiền.
Khi Thiền cho
rằng tư tưởng là thủ phạm dẫn đến vô minh, thì một cách gián tiếp, Thiền đã
nhìn nhận nội dung của giác ngộ là sáng tạo, là tự do tuyệt đối, hai yếu
tố cơ bản để mở cửa vào vô cực và vĩnh cữu. Mà
cuộc đăng trình đến vô cực ấy, trong Thiền gọi là bến
giác, Phạm Duy đã trực nhận từ thuở thiếu thời:
Người đi trên dương gian
Thở hơi gió từ ngàn năm
Gió lung lay Hoành Sơn
Gió dâng cao Biển Ðông
Người đi trong thanh xuân
Sưởi hương nắng như lửa sống
Máu sôi như sắc trời
Bước nhanh vượt chân đời.....
Người đi trong không gian
Nhịp xe uốn vòng tử sinh
Bánh xe tang ngoại ô
Chiếc nôi trong vòng hoa
Người đi trong nhân gian....
Người đi nghe xa xăm
Mà chưa thấy bồn chồn chân
Bước đi trong thời gian
Vướng bao nhiêu lòng thương
Người đi trong thiên nhiên
(Lữ Hành - 1953)
Thở hơi gió từ ngàn năm
Gió lung lay Hoành Sơn
Gió dâng cao Biển Ðông
Người đi trong thanh xuân
Sưởi hương nắng như lửa sống
Máu sôi như sắc trời
Bước nhanh vượt chân đời.....
Người đi trong không gian
Nhịp xe uốn vòng tử sinh
Bánh xe tang ngoại ô
Chiếc nôi trong vòng hoa
Người đi trong nhân gian....
Người đi nghe xa xăm
Mà chưa thấy bồn chồn chân
Bước đi trong thời gian
Vướng bao nhiêu lòng thương
Người đi trong thiên nhiên
(Lữ Hành - 1953)
Sau này Phạm Duy
chọn Lữ Hành làm tín điều (credo) trên đường
sáng tác cũng dễ hiểu bởi Lữ Hành "tuyên ngôn" triết lý sống và sáng
tạo của Phạm Duy: Tự Do và Trực Cảm.
Ðộng lực nào đã
khiến Phạm Duy "trực cảm" rằng con người "tự do" có thể đi
đến muôn chiều: đi "trên dương gian", đi "trong
thanh xuân", đi "trong không gian", đi "trong
thiên nhiên"... nghĩa là đi tới vô tận? Và đi bằng gì? Ta đi
bằng một sợi tơ (Mộng Du - 1959). Hẳn là tình yêu chứ
không phải cái gì khác. Ngoài tính chất giăng mắc, mong manh, tình yêu là
lần đầu tiên cái tôi thoạt biết có cái khác tôi (người
khác). Cái tôi, cho đến bây giờ, tưởng như bất khả phân. Giờ đây,
tự chẻ đôi ra: cùng một lúc vừa xác định cái tôi vừa từ bỏ cái tôi để
nhập vào người khác(Suzuki). Nhập như thế nào? Nhập bằng hai nẻo: thể xác
và tâm linh. Tình yêu làm cho cái tôi mất đi (vô ngã) trong đối
tượng (người mình yêu) và đồng thời cũng đòi quyền chiếm hữu đối tượng đó.
Trước tình yêu, cái tôi tỏe ra để rước cái khác vào
mình. Cái tôi tan vào trong cái khác. Cái khác kia
chính là tự do của con người. Tình yêu là bước đầu
của vô ngã. Tình yêu vừa đưa đến tự do, vừa triệt tiêu tự do vì ta
đem tự do của mình cho người khác. Mâu thuẫn đó nằm trong những nghịch lý sâu
xa nhất của cuộc đời. Những kẻ đa tình, muốn "cho" nhiều lần, thường
khôn ngoan lũy tiến đối tượng tự do: "cho rồi xin lại tự do" (Cho
Nhau - 1957). Nhưng lũy tiến tự do cũng là một hình thức vĩnh cữu. Cho nên Phạm
Duy vừa đa tình vừa chung tình:
Dìu nhau sang bên kia thế giới
Dìu nhau nương thân ven chín suối
Dắt dìu về tới xa vời, đời đời
Dìu nhau đưa nhau vào nghìn thu
(Thương Tình Ca - 1956)
Dìu nhau nương thân ven chín suối
Dắt dìu về tới xa vời, đời đời
Dìu nhau đưa nhau vào nghìn thu
(Thương Tình Ca - 1956)
Ý thức vĩnh cữu thiên
thu trong lòng này (Lữ Hành) và vô cực "đừng cho không
gian đụng thời gian" (Thương Tình Ca) không chỉ thấy trong những
bản tình ca mà còn rải rác trong toàn bộ tác phẩm Phạm Duy: bằng ý nhạc mở rộng
tới vô cùng trong Chiều Về Trên Sông (1956), bằng ý nhạc và lời ca lồng lộng
biển trời trong Viễn Du (1953), trong Mẹ Trùng Dương (1963-64),
hoặc đến trong thăm thẳm lòng người như Tâm Ca (1964-65), đến
bằng tình yêu truyền kiếp trong Rong Ca (1988).
Ý thức vĩnh cửu tựu trung là sự mở rộng cõi lòng "đêm đêm người mở lòng ra" (Mộng Du) để "cho nhau cả bốn trùng dương" (Cho Nhau), để "yêu nhau như lòng đại dương" (Tình Hoài Hương): Phật gọi là tâm, là phật, là giác ngộ, và là nội dung của Thiền.
Ý thức vĩnh cửu tựu trung là sự mở rộng cõi lòng "đêm đêm người mở lòng ra" (Mộng Du) để "cho nhau cả bốn trùng dương" (Cho Nhau), để "yêu nhau như lòng đại dương" (Tình Hoài Hương): Phật gọi là tâm, là phật, là giác ngộ, và là nội dung của Thiền.
Tiếng chuông và
tiếng kinh, như Phạm Duy kể lại, là những ấn tượng tình cờ đến với nhạc sĩ từ
thuở ấu thời:
"Lúc còn nhỏ, vì mẹ tôi là một Phật tử thuần thành cho nên tôi hay
được theo mẹ đi tới các nơi lễ bái nổi tiếng như Chùa Thầy, Chùa Hương, Ðền
Sòng Phố Cát. Tôi biết tụng kinh, thuộc làu Kinh Bát Nhã : "Xá lợi tử, Sắc
bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Thụ,
Tưởng, Hành, Thức diệc phục như thị". Thuộc làu kinh kệ nhưng tôi chẳng
hiểu gì hết!"
Chính cái chỗ chẳng hiểu gì
hết ấy mới là cốt tử, nó triền miên đi vào cõi nhạc Phạm Duy. Vì nếu Phạm Duy "hiểu
hết" thì không phải Thiền. Không có Thiền Ca.
Dường như, từ bước "đường về thôn xóm buồn teo, xa xa tiếng chuông chùa
gieo" ở huyện Gio Linh 1948, tiếng chuông và người mẹ đã gắn liền
thành tiếng nội tâm "me ơi, me ơi, chuông chùa nào la đà" gọi
từ lòng Người Về (1954) khơi sâu đến Mẹ Trùng Dương,
Biển Mẹ (1964), khiến những cuộc gặp gỡ đắm say nhất trong đời tình
của Phạm Duy luôn luôn nhuốm mầu đạo lý : Gặp nhau trong kinh cầu một
hồi chuông (Tìm Nhau - 1956), bao dung: Tình thương nhân thế bao la
(Xuân Thì - 1963) và nhân ái: Thương đời thương lẫn nhau trong chiều (Chiều
Về Trên Sông), đôi khi trực tiếp gọi về cửa Phật:
Xa xa có tiếng kinh
cầu
Chiều trên dương thế mang sầu mênh mông
(Xuân Thì)
Chiều trên dương thế mang sầu mênh mông
(Xuân Thì)
Vậy, cái mà Phạm Duy bảo là
"chẳng hiểu gì hết" có thực là "chẳng hiểu" hay chính là
"ý thức về đạo"? về lòng nhân ái? về tình người? đã nhập tâm nhạc sĩ
từ lúc lọt lòng, tiềm ẩn trong vô thức (ca dao, dân ca... có lẽ cũng xâm nhập
Phạm Duy như thế) và mỗi khi có một động lực thúc đẩy, chúng lại bật ra trong
sáng tác: Ðạo trong Phạm Duy không do tư tưởng mà ra, cũng
không do chủ đích hành Ðạo mà ra. Ðạo trong
Phạm Duy từ vô tâm mà ra. Và vô tâm là bản chất
sâu xa, là nguyên lý của Thiền.
Bản chất sống và
sáng tác của Phạm Duy, do đó, vừa có chất Thiền vừa phản Thiền. Bản chất đó
được cụ thể hóa và âm nhạc hóa trong Thiền Ca.
Cái cõi thinh
không muôn chiều mà Phạm Duy đã trực cảm trong bài Lữ Hành cách
đây 40 năm, phải đến Thiền Ca mới mở ra toàn diện trong cung
giai âm nhạc. Bước vào Thiền Ca là một thinh không vô tận,
vang trong thanh âm, xin tạm gọi là "gian âm": âm nhạc
trong không gian và âm nhạc trong thời gian. Hòa âm của Duy Cường ở đây là
một thử nghiệm: "nghiệm âm". Âm nhạc bình thường chỉ là nghệ
thuật âm thanh dội lên trong một khoảnh khắc thời gian nhất định. Nhưng ở nghiệm
âm này, Duy Cường đã tạo thêm được chiều dày thứ nhì: chiều dày không
gian, rồi từ đó biến tiết, tác sinh các chiều khác: dương
gian, nhân gian... khiến cõi thinh không của Phạm Duy dày
thêm, sâu thêm, biền biệt, trở thành vô cùng vô tận...
Cõi thinh
không ấy, do đó, không chỉ là một không gian thuần túy mà còn là cõi
không sinh động, cõi không "Đầy ắp sinh trùng", những vi bản của
đời sống. Giữa không gian sinh động ấy, giọng Thái Hiền, xuất thần, cất lên, mê
hoặc, quyến rũ người nghe ngay từ phút nhập Thiền:
Thinh không
Trống trải mênh mông
Rộng rãi vô cùng
Cao thấp vô lường
À a a bỗng
Ðầy ắp sinh trùng...
Trống trải mênh mông
Rộng rãi vô cùng
Cao thấp vô lường
À a a bỗng
Ðầy ắp sinh trùng...
Bản chất Thiền lộ ra rõ hơn
khi ý thức "vô ngã" từ từ nhập thinh không âm
nhạc: tất cả là tôi mà cũng là chung.
Về phần nhạc,
Phạm Duy khai phóng một vũ trụ âm thanh mới lạ, khác xa với những tiết điệu
"cổ điển". Nghiệm âm của Duy Cường đưa thính giả vào
thế giới cuồng quay âm sắc. Cái thinh không đầy ắp sinh trùng ấy
phải chăng là một hệ thái dương "đầy ắp" hành tinh cưu mang sự sống?
Rồi các "hệ thái dương" ấy cũng chỉ là hư vô, hư ảo:
Nhất nhất trùng trùng
Nhưng cũng là không.
Nhưng cũng là không.
Nguyên lý tương
đối của cuộc đời kẽo kẹt trong tiếng võng. Tiếng võng xâm nhập tiềm
thức chúng ta từ thuở ấu thời. Ðến tuổi hoàng hôn, người nghệ sĩ tóc trắng chợt
thấy "cõi tử, cõi sinh, cõi tình, cõi hận, núi đợi, vực chờ, niềm
vui, nỗi khổ"... (Thiền Ca 2) nằm gọn trong cấu trúc tiếng
võng xa xưa: chao đảo giữa đôi bề tương đối. Nhưng chính cái cảm giác đu
đưa ấy cũng chỉ là ngoại tưởng, cập bến giác rồi thì ở đâu, tâm
cũng lặng, tâm không đu đưa:Ta nằm đó... nằm im mọi chỗ (Thiền
Ca 2).
Nhạc sĩ linh cảm
và sống những điều đó từ thuở ấu thời, trong tiềm thức, rồi một chiều nằm võng
tại Thị Trấn Giữa Ðàng, Phạm Duy thấy tất cả. Ðột xuất và trực
ngộ. Thế là Thiền. Không cần giải thích. Những "nhời đang
bàn" ở đây chỉ là phù phiếm.
Ai chẳng biết
tình yêu, khổ đau, cái đẹp... tất cả đều chênh vênh. Nhạc sĩ "hát"
cái chênh vênh, để chào hạnh phúc: lúc thấy hạnh phúc thì hưởng, đừng thắc mắc,
đừng đòi hỏi, đợi chờ. Hạnh phúc là một loài hoa không tên, không sắc không
hương, mà như lòng tôi lộng lẫy thơm lừng tỏa ra bốn hướng (Thiền Ca 3). Nhạc
mời gọi, dịu dàng đắm say, mê hoặc. Nhạc tỏa hương và tiếng hát Thái Hiền xoáy
vào tâm ta cả "bốn trùng dương" quyến rũ.
Nếu tình yêu mở cửa cho Phạm Duy bước vào vô tận từ thuở Lữ Hành thì đến Thiền Ca, bản chất vô ngã của tình yêu mới được Phạm Duy "phổ nhạc". Thiền Ca 5 mang tên Xuân. Xuân là mùa xuân? Xuân là tên một người? Xuân là tình yêu? Làm sao biết được? Nhưng khi hát "người người hung dữ, trừ tôi", chớ tưởng: Tôi là Phạm Duy. Không phải. Tôi đây là Xuân, cái tôi bất định:
Nếu tình yêu mở cửa cho Phạm Duy bước vào vô tận từ thuở Lữ Hành thì đến Thiền Ca, bản chất vô ngã của tình yêu mới được Phạm Duy "phổ nhạc". Thiền Ca 5 mang tên Xuân. Xuân là mùa xuân? Xuân là tên một người? Xuân là tình yêu? Làm sao biết được? Nhưng khi hát "người người hung dữ, trừ tôi", chớ tưởng: Tôi là Phạm Duy. Không phải. Tôi đây là Xuân, cái tôi bất định:
Là xuân con bướm hút nhụy xuân tình
Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ
Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư.
Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ
Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư.
Phạm Duy giải thích về nhạc
lý: "Nhạc ban ngày, mở đầu là những nét roi, nhát chém của cuộc
đời. Rồi là những lời vãn ca. Rồi nhạc trở nên mặn mà, tha thiết"...
Bản chất vô ngã của tình yêu, hay sự tan loãng của con người trong nhau
-"mất đi" trong nhau- băng trinh cất lên qua giọng hát Thái Hiền:
Tôi là tôi, tôi cũng
là em
Em là tôi, em cũng là anh.
Em là tôi, em cũng là anh.
Không phải ở đâu và lúc nào
ta cũng thấy được những "mất mát trong nhau" đó: Phạm Duy xưng tụng
tình yêu từ hơn nửa thế kỷ nay, sáng tác những bản tình ca tha thiết nhất cho
nhiều thế hệ yêu đương. Nhưng đến Thiền Ca, Phạm Duy mới thấy,
mới đem bản chất vô ngã của tình yêu vào âm nhạc. Sự trực nhận ấy là Thiền. Là
bến ngộ. Bến tình.
Thiền Ca
6 đưa tình vào bến giác. Cuộc ngộ tình thể hiện trên một giai điệu dục
tính, âm hao Ả Rập. Sóng tình chập chờn, chợt đến và cũng chợt đi, liêu trai
như chưa từng hiện hữu: Ta chưa ôm em thì mất em.
Thiền Ca
7, Phạm Duy tổng kết bản chất yêu đương của chính mình: vừa chung tình, vừa
đa tình:
Yêu một vạn người như một người thôi...
Hai mươi tuổi đời yêu không kịp nói
Bảy mươi tuổi trời yêu cũng vậy thôi.
Hai mươi tuổi đời yêu không kịp nói
Bảy mươi tuổi trời yêu cũng vậy thôi.
Thiền Ca 8 mở
rộng tình yêu sang tình đời: ăn, chơi, sống, chết, yêu, ghét, khóc, cười, nhớ,
quên ... những "nổi trôi" của kiếp người. Niềm lạc quan của Phạm Duy
với cuộc đời được thể hiện qua tiếng nhạc mà ông gọi là "nhạc
cười". Tiếng nhạc an nhiên, tự tại., lời ca giản dị tối đa: Ăn
cho vừa, chơi cho thật, sống cho thẳng, chết cho ngay...Không có triết lý,
không cần triết lý. Sống và hát được như vậy đã là đời rồi, là đã đời rồi. Là
cõi giác đấy!
Nếu cõi đời là "cõi
tạm" thì dại gì chúng ta không đi chơi "cõi
khác": Phạm Duy "rong ca" nơi thiên
đàng và địa ngục trong Thiền Ca 9, mới hay thiên đường kia cũng tối om
và tưởng địa ngục đen, ngục sáng hơn đèn. Thiền Ca 9 phá vỡ ảo tưởng: tốt
xấu, trắng đen, thiên đàng địa ngục. Tất cả chỉ là tương đối. Bản chất
con người đu đưa giữa hai bờ đen trắng. Vậy phân biệt làm
chi? Hình ảnh Thượng Ðế bên cạnh thiếu nữ khỏa thân mách rằng Thượng Ðế chỉ là
người với những yêu thương, khát vọng thầm kín nhất.
Thiền Ca
Nhân Quả kết thúc cuộc đăng trình bằng một vòng tròn: tròn như viên
đạn, tròn như trái đất, vòng vũ trụ, vòng tử sinh, vòng luân hồi, vòng tay ôm
ấp, vòng thai bụng mẹ... Nhạc thương tưởng:
Tròn như viên đạn đồng đen
Ðã khô vết máu quên miền chiến tranh
Tròn như trái đất yên lành
Muôn loài như một cõi sinh vẹn toàn.
Ðã khô vết máu quên miền chiến tranh
Tròn như trái đất yên lành
Muôn loài như một cõi sinh vẹn toàn.
Từ viên đạn đồng đen, là công
cụ, là tay sai của chiến tranh, chuyên nghề sản xuất những vũng lầy xương máu,
Phạm Duy đã vê vết máu, sấy khô những đau thương, cô lại thành hạt bụi. Hạt bụi
tái sinh thành trái tim trên một trần gian yên lành, yêu thương, tha thứ.
Tròn anh tim trẻ miên
man
Trái tim trăm tuổi mới hoàn cơ duyên.
Tròn em tung tóe cánh tiên
Chim không mỏi cánh triền miên phận mình
Tròn như lời hứa chung tình
Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều
Trái tim trăm tuổi mới hoàn cơ duyên.
Tròn em tung tóe cánh tiên
Chim không mỏi cánh triền miên phận mình
Tròn như lời hứa chung tình
Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều
Hứa hẹn tái sinh còn nhiều
mang thông điệp hy vọng: tái sinh trong sáng tạo, luân hồi trong sự sống vĩnh
cửu của nghệ thuật. Toàn bộ tác phẩm của Phạm Duy nói lên niềm lạc quan về con
người, về sức biến thiên của sáng tạo, về sự hội ngộ với vĩnh cửu. Hơn một cuộc
đời bầm dập chiến tranh, Phạm Duy ghi lại một chữ Quên. Chữ Quên đó phải chăng
là cõi Tâm của người nghệ sĩ lặng trong cõi Thiền sâu
xa nhất?
Sáng tác chẳng
qua là động tác phản lại bản thân: đi tìm vĩnh cửu và vĩnh cửu chỉ có được sau khi
chết. Nhưng con người vốn dĩ sợ chết và chống lại cái chết. Cho nên sáng tác
luôn luôn nghịch lý với bản thân. Phạm Duy không thoát khỏi qui luật ấy: Thiền
Ca là một tác phẩm tổng hợp những nghịch lý của Phạm Duy trong cuộc
tình, trong cuộc sống.
Chú thích
(1) Thiền khai phóng phần năng lực nội tại tích lũy trong con người. Nguồn năng lực tự nhiên ấy, trong hoàn cảnh thông thường, vì những gò bó xã hội, gò bó trí thức, gò bó kiến thức, bị dồn ép, vặn tréo đi đến độ không thể nào thoát ra được. Thiền đưa ra phương thức khai phóng nhân sinh, trực tiếp kêu gọi ánh sáng bằng chứng nghiệm bản thân thay vì kiến thức sách vở vì chính kiến thức ấy tạo ra cho ta đủ thứ vấn đề để không bao giờ giải quyết được, chính nó là nguồn gốc của sự vô minh nên cần dẹp nó ra một bên, nhường chỗ cho một cái gì khác siêu đẳng hơn, cao hơn, minh triết hơn (Suzuki).
(1) Thiền khai phóng phần năng lực nội tại tích lũy trong con người. Nguồn năng lực tự nhiên ấy, trong hoàn cảnh thông thường, vì những gò bó xã hội, gò bó trí thức, gò bó kiến thức, bị dồn ép, vặn tréo đi đến độ không thể nào thoát ra được. Thiền đưa ra phương thức khai phóng nhân sinh, trực tiếp kêu gọi ánh sáng bằng chứng nghiệm bản thân thay vì kiến thức sách vở vì chính kiến thức ấy tạo ra cho ta đủ thứ vấn đề để không bao giờ giải quyết được, chính nó là nguồn gốc của sự vô minh nên cần dẹp nó ra một bên, nhường chỗ cho một cái gì khác siêu đẳng hơn, cao hơn, minh triết hơn (Suzuki).
Nội dung của giác
ngộ cần phải trực nhận, không qua trung gian của ngôn ngữ và sách
vở. Ngôn ngữ là sản phẩm của nhân duyên, bản chất luôn luôn biến
đổi theo thị hiếu và thành kiến xã hội. Ngôn ngữ đôi khi phản bội lại con
người, phản bội sự thật, cho chúng ta một nhận định hư giả về sự vật. Vì vậy
muốn thấu triệt một vấn đề, chúng ta phải vận dụng khả năng nội tại. Trước
những cực điểm của cuộc đời như khổ đau, khoái lạc, hạnh phúc... con
người không nói nữa, không suy nghĩ nữa, không phân biệt cái tôi nữa: Cho
nên trực nhận, vô ngôn, vô ngã là biện chứng của Thiền trước vô
cùng, vô cực. Nói cách khác, Thiền mở cửa cho chúng ta đến vô cực
bằng những ngả trực nhận, vô ngôn, vô ngã.
20/6/1993
Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét