Xuân Diệu nghĩ về thơ
Nghệ phẩm là sự sống
Đừng diễn cái không phải là mình
Cảm yếu không thể nên thơ hay
Cảm xúc phải trẻ luôn luôn
Thế quân bình linh động
Chất cuộc sống trong nghệ phẩm
Nghệ phẩm là tái tạo
Hiện thực và lãng mạn
Nghệ phẩm không thể lắp ráp
Cây đời mãi mãi xanh tươi
Rất sợ cái đèm đẹp
Phải vì mơ ngọc Lam Điền
Nhà thơ khác... nhà máy
Phải nở hoa mới đáng nên cây
Trẻ và thơ
Thơ còn là cái thần của tiếng nói
Phải biểu hiện lại sự sống
Đàn nguyệt, đàn nhị, nhà thơ
Đừng diễn cái không phải là mình
Cảm yếu không thể nên thơ hay
Cảm xúc phải trẻ luôn luôn
Thế quân bình linh động
Chất cuộc sống trong nghệ phẩm
Nghệ phẩm là tái tạo
Hiện thực và lãng mạn
Nghệ phẩm không thể lắp ráp
Cây đời mãi mãi xanh tươi
Rất sợ cái đèm đẹp
Phải vì mơ ngọc Lam Điền
Nhà thơ khác... nhà máy
Phải nở hoa mới đáng nên cây
Trẻ và thơ
Thơ còn là cái thần của tiếng nói
Phải biểu hiện lại sự sống
Đàn nguyệt, đàn nhị, nhà thơ
Nghĩ về thơ, biết bao nhiêu cái để nghĩ.
Nếu người nghĩ là một nhà thơ, thì hẳn cái
tập hợp những đề tài người ấy chọn nghĩ nó có liên hệ mật thiết với tập hợp thơ
mà người ấy đã sáng tác.
Xuân Diệu nói về thơ nói chung chứ không
phải nói về thơ Xuân Diệu. Vậy mà đọc những nhận thức thơ sâu sắc của ông, ta
không khỏi liên tưởng đến Vội Vàng, Giục Giã, Phải Nói, Xa Cách, Mãi Mãi, Cảm
Xúc, Mời Yêu, Yêu Mến v.v.
Nhận thức không phải là lý thuyết, nhưng
cũng "màu xám". Trông xám lâu lâu, có thể xoay ngắm lại "cây thơ ôi!
sáng lạn xanh tươi" cho đỡ căng mắt.
Sau đây là một số phát biểu của Xuân Diệu
về thơ. Các tiểu đề đều do người chọn tạm đặt.
Nghệ phẩm là sự sống
Một trứ tác nghệ thuật lớn (...) bản thân
(...) là sự sống.(1)
Người sáng tạo nghệ phẩm thì cũng như Chúa
sáng tạo người. Đâu phải chỉ nặn cục đất, mà còn phải hà hơi, thì cái tượng ấy
nó mới thành... ông A-đam được.
Hà được hơi mình vào tượng, không phải
chuyện dễ. Cho nên không phải nghệ phẩm nào cũng là sự sống, mà chỉ một số ít
thôi...
Đừng diễn cái không phải là mình
Trong văn nghệ, trong thơ phải chân, nghĩa là mình
có bao nhiêu tâm hồn thì viết bấy nhiêu, đừng gắng hơi, đừng cố mượn hơi ở đâu
người khác mà thổi cái bong bóng của mình; phải chân chứ đừng
định lừa người đọc, phải chân như cái hương tự nhiên của tâm
hồn.(2)
Khoảng cuối thập kỷ 1950, đầu thập kỷ
1960, có ví dụ to. Thi sĩ ấy thực ra khác hẳn Tây. Thế mà tự ép mình suy tư y
hệt như thanh niên Tây bấy giờ đang suy tư, rồi đem cái nội dung thiếu hẳn chân
thành ra làm thơ. Kết quả nghệ thuật dĩ nhiên thê thảm.
Ờ, nhưng mà tại sao hồn phải thật thì xác
mới có thể đẹp, nhỉ?
Chắc Thật, Tốt, Đẹp là một, như có người
đã nghĩ.
Cuối cùng của thơ là lẽ đời, là chuyện
sống, là lòng yêu. Bạn muốn làm thơ, bạn muốn làm thơ hay, mà bạn yêu cuộc sống
như thế nào? Yêu qua loa, cảm xúc cạn như đĩa đèn, thì thơ không thể hay được.
Cái phải bồi dưỡng trước nhất là tình cảm... (...) phải có cái hồn.(3)
Yêu đời hay chán đời đều có thể nên thơ
hay, miễn là cảm xúc sâu như giếng.
Không chỉ riêng làm nghệ thuật, bất cứ làm
gì mà hờ hững thì cũng không thể nên hay.
Cũng có ngoại lệ: mua vé số hờ hững vẫn có
thể trúng độc đắc.
Cảm xúc phải trẻ luôn luôn
Cảm xúc của nhà thơ thì nhất định không
được già mà phải trẻ luôn luôn. Cái trẻ luôn luôn của cảm xúc, của yêu thương,
chính là lực của sự (sáng tác) đó...
(...) xúc cảm gắn liền (...) với cơ thể;
bởi vậy nên phải đề phòng với tuổi tác, và bởi vậy nhà thơ phải chăm sóc cho sự
nhạy bén lâu dài của xúc cảm ngay trong khi nó hãy còn tràn đầy (...) nhà thơ
có thể vô tâm với sức xúc cảm của mình được sao? Cứ để cho nó tự nhiên nhi
nhiên sớm nở tối tàn hay sao? (...)
Nhà thơ nhận thức được, tự giác được về
sức trẻ của (thơ) mình, thì có thể đẩy lùi được sự tàn phai và chọc thủng được
sự bao vây của tạo vật.
"Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non,
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo,
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu,
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu".
Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo,
Hãy để cho bà nói má thơm của cháu,
Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu".
... Nhà thơ đừng đứng yên chỗ để bị động
với tuổi mà phải tìm chỗ đứng di động thế nào để cho sự vật lồ lộ cái góc độ
nào có lợi nhất, trẻ nhất, đẹp nhất của nó.(4)
Cảm xúc trẻ?
Hẳn là cảm xúc như người trẻ. Chẳng hạn,
thấy một cô gái thế nào đó thì muốn yêu.
Xuân Diệu trẻ khẳng định: "Tình không
tuổi, và xuân không ngày tháng".
Xuân Diệu già "nêu gương": đọc
những dòng tình tứ, đam mê trong Đứng Chờ Em, Dấu Nằm v.v., ai ngờ tác giả thơ
đã ngoại lục tuần!
Không khỏi nhớ bài Ẩm Tửu Khán Mẫu Đơn của
Lưu Vũ Tích. Thi sĩ Tàu ấy ngắm hoa đẹp cao hứng uống hơi nhiều rượu, ngại hoa
lên tiếng bảo "Không nở cho người già"!
Thiết tưởng nghệ sĩ già nên như Xuân Diệu,
chớ ngại. Mình yêu hoa, bất kể hoa gì, là vì nghệ thuật. Yêu để có cảm xúc chân
thành, mãnh liệt mà sáng tạo cho thành công. Yêu hoa vì thơ vì tranh vì nhạc...
Còn hoa có yêu được mình hay không là chuyện khác.
"Đẩy lùi được sự tàn phai và chọc
thủng được sự bao vây của tạo vật"... Phát biểu sôi nổi quá. Không chỉ
trong thơ mà ngay cả trong tâm sự về làm thơ, Xuân Diệu cũng nêu gương!
Thế quân bình linh động
Nghệ thuật luôn luôn là một thế quân bình
linh động: quân bình giữa cái mới và cái bền, giữa cái tự do và cái gò bó. Nghệ
thuật (...) sống nhờ mâu thuẫn mà chết trong sự (...) nhác lười.(5)
Từ khi dân tộc Việt Nam tiếp xúc với văn
hóa Tây phương, trong mọi sinh hoạt chứ không chỉ riêng làm nghệ thuật, một vấn
đề "quân bình linh động" luôn luôn đặt ra: đâu là biên giới giữa tiếp
thu tự chủ và bắt chước nô lệ?
Đứng ở bên này và sát biên giới là tiếp thu
tự chủ ở mức cao nhất, học được nhiều cái hay nhất mà vẫn là mình. Quá bước
sang bên kia là bắt đầu thành... nô lệ.
"Nhác lười" sẽ dần chết khô. Còn
ngược lại thì... chết ướt, nghĩa là xác tươi rói đấy nhưng bên trong hồn Việt
đã đi rồi.
Chất cuộc sống trong nghệ phẩm
Trong một tác phẩm (...) cái (...) cần
trước hết là cuộc sống (...) Tuy nhiên (...) muốn có tác phẩm hay thì còn phải
biết đến (...) nghệ thuật (...) Tự nó (tức nghệ thuật), nó không là cái gì hết
nếu không có (...) cuộc sống. Nhưng khi đã có (cuộc sống) mà không có (nghệ
thuật) thì đó là (...) chất cuộc sống ở ngoài đời (...) nào phải đâu là chất
cuộc sống (...) trong bài văn.(6)
Nếu không có nghệ thuật, thì bài văn chỉ
là một bản sao của thực tại.
Bây giờ máy quay phim tốt thiếu gì, nếu
chỉ muốn sao thì vớ lấy một cái, vừa đỡ tốn giấy mực lại vừa sao được chính xác
hơn không biết bao nhiêu.
(Đây chỉ nói cách dùng máy "giơ,
bấm", không nói về điện ảnh nghệ thuật.)
Nghệ phẩm là tái tạo
Thực tế phong phú, ngồn ngộn, mạnh mẽ đến
đâu cũng chỉ mới là quặng quý (...) Nhà (thơ) (...) phải đem tất cả (...) bỏ
vào trong tâm trí mình (...) mà nhào luyện lại, tái tạo thành (thơ). Không nên
thần bí hóa (...) "thơ là tiếng nói của thần linh", cũng không nên
tầm thường hóa (...) coi là một sự phô phang những tài liệu đã lấy được như
khoe những "pô" ảnh chụp được.(7)
Nghệ phẩm là thực tại "tái tạo"?
Nghe lớn lao quá. Thiết tưởng nghệ phẩm
chỉ là cảm nghĩ của nghệ sĩ về thực tại hiện ra thành "hình" thôi.
Nói cách khác, mỗi nghệ phẩm chỉ như một
cái "bóng đời" trong tâm hồn nghệ sĩ mượn lời hóa thơ, mượn đá hóa
tượng, mượn vải sơn hóa tranh v.v. thôi.
"Hoa trong gương" đâu phải là
hoa thật tái tạo...
Hiện thực và lãng mạn
Không lấy hiện thực làm nền tảng của nghệ
thuật thì chẳng ai muốn nghe, muốn gần cái trò chơi trống rỗng của những kẻ
nhàn cư, nhưng không có cái tinh thần lãng mạn nhào nặn vào thì nghệ thuật ngột
ngạt, khô khan, không có cánh!(8)
Làm nghệ thuật cần phải "nhào
nặn" hiện thực...
Tức vo tròn bóp méo, xuyên tạc hiện thực!
Thì sao?
Đừng tưởng làm khoa học không xuyên tạc.
Kìa mặt trăng. Nhà thơ dùng tâm hồn mình vẽ vời thêm thắt cho nó nên...
"vú mộng" (xem bài Ca Tụng của XD). Nhà khoa học dùng trí óc mình đơn
giản hóa nó thành... cục đất. Tưởng trăng không vú, mà cũng chẳng đất!
Không đừng được, làm là xuyên tạc. Vậy chỉ
cần lo xuyên tạc thế nào cho có kết quả. Làm thơ, hãy để cái "tinh thần
lãng mạn" nó tha hồ nhào nặn cho đến khi thơ "thoáng, ướt và có
cánh"!
Nghệ phẩm không thể lắp ráp
Tác phẩm nghệ thuật là một sản phẩm rất cá
thể hóa, không thể họp những đầu, mình, tay, chân đẹp ở nhiều nơi để thành một
con người đẹp được.(9)
Chắc chắn không lâu lắm nữa, ra đường ta
sẽ gặp những "người" mà ta cứ tưởng là người, trong khi đó thực ra là
máy!
Có máy giống hệt người, có lời giống hệt
thơ...
Thưởng thức nhầm một bài thơ lắp ráp giống
như yêu nhầm một người máy.
Cây đời mãi mãi xanh tươi
Mọi lý thuyết đều màu xám, và cây đời vĩnh
viễn xanh tươi
Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn nắng cười
Vĩnh viễn anh yêu em, như yêu sự thật
Và cây đời mãi mãi xanh tươi.
Vĩnh viễn chim ca, vĩnh viễn nắng cười
Vĩnh viễn anh yêu em, như yêu sự thật
Và cây đời mãi mãi xanh tươi.
Mãi mãi em ơi
Cây đời chĩu trái
Gió trong lá mùa thu rồi trở lại
Rì rào đôi ta tình ái muôn đời.
Cây đời chĩu trái
Gió trong lá mùa thu rồi trở lại
Rì rào đôi ta tình ái muôn đời.
Trong mắt đen em mãi mãi ánh trời
Ngời qua một sợi tóc buông rũ trán
Mãi mãi môi em nhụy đời vô hạn
Và cây đời ôi! sáng lạn xanh tươi.
Ngời qua một sợi tóc buông rũ trán
Mãi mãi môi em nhụy đời vô hạn
Và cây đời ôi! sáng lạn xanh tươi.
Mọi lý thuyết đều đầy khái niệm. Khái niệm
là thực tại sau khi đã đi qua trí óc ta. Thực tại vốn sống động, nhưng trí óc
ta lọc hết chất sống, cho nên mọi khái niệm đều cứng đờ.
Nếu trông "cây đời" mà ta không
nghĩ gì hết, chỉ tập trung cảm, thì trong ta sẽ có một cái gì đó cũng "mãi
mãi xanh tươi"...
Rất sợ cái đèm đẹp
Chúng ta yêu cái thật đẹp, yêu cái đẹp
thẳng cánh thẳng tay, yêu cái đẹp được diễn tả với một khiếu thẩm mỹ chắc chắn
và đồng thời chúng ta rất sợ cái đèm đẹp...(10)
"Khiếu thẩm mỹ chắc chắn" mấy ai
có, nên "đèm đẹp" bao giờ cũng nhiều hơn hẳn đẹp.
"Rất sợ" đây là một người làm
nghệ thuật tự hỏi mình có bao giờ làm ra được "cái đẹp thẳng cánh thẳng
tay"? Hay là một người thưởng thức không muốn tiếp xúc với những cái gì
nửa vời?
Dù sao, đẹp vốn thường nổi bật, bây giờ
đẹp lẫn vào đèm đẹp. Tưởng rất nên buồn.
Phải vì mơ ngọc Lam Điền
(...) làm thơ vì sự thúc đẩy bên trong, vì
nhu cầu của tâm hồn. Thắt lại đến cùng vẫn phải có cái động cơ ấy: Tôi cần làm
thơ, như tôi cần yêu người yêu! Nếu ta không có cái nguyên cớ cuối cùng ấy thì
ta không làm thơ nổi.(11)
Khi người thi sĩ xông vào con đường thăm
thẳm của thơ, họ mơ ước những hạt ngọc Lam Điền mới đông và sáng mãi mãi.(12)
"Tôi cần làm thơ", không phải
làm lấy có, mà làm hết sức nhằm sáng tạo ra thơ tuyệt tác. Tốt, phải có cái mơ
ngọc thì may ra mới có ngọc.
Ờ nhưng tại sao ta lại đi mơ làm được thơ
hay, nhỉ? Xuân Diệu bảo vì "cái sự dứ ghê gớm: (thơ hay) sẽ sống mãi".
Nghĩa là vì cái rất chóng "tắt" là ta muốn để lại một cái gì
"sáng mãi mãi"...
Bể dâu rồi, người xưa ơi. "Mãi
mãi" là trong tâm hồn, mà tâm hồn thì đang hấp hối!
"Ngọc Lam Điền" đông dưới mắt
thờ ơ, ít lâu nữa sẽ thôi hẳn đông.
Nhà thơ khác... nhà máy
Việc sản xuất thơ không thể bảo đảm chất
lượng đều luôn như sản xuất ở nhà máy. Làm được mười bài thơ hay hoặc khá, đến
bài thơ thứ mười một vẫn cứ có thể dở. Hai mươi năm thơ nở như hoa tươi và ướt,
đến năm thứ hai mươi mốt thơ có thể gạn (gạo?), khô!...(13)
Việc sản xuất thơ tùy thuộc vào độ nhậy
cảm của nhà thơ với cuộc sống, năng khiếu diễn cảm nghĩ thành lời đẹp, và hứng.
Cả ba yếu tố đều thay đổi theo thời gian và hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát, làm
sao nhà thơ đảm bảo chất lượng "sản phẩm" được.
Nhà máy hoạt động cũng tùy thuộc những yếu
tố có thể thay đổi, như cung cấp năng lượng, tình trạng máy móc, độ lành nghề
của lao động... Chỗ khác, so với nhà thơ, là tất cả yếu tố ảnh hưởng đến sản
xuất đều nằm trong tầm kiểm soát của con người.
Phải nở hoa mới đáng nên cây
Cá nhân (...) rất quan yếu. Văn nghệ không
phải cứ mãi là phong trào mà được; văn nghệ không chịu được cái sàn sàn. Phải
có những tài năng, những thiên tài (...) những thiên tài này do quần chúng, do
phong trào đẻ ra, nhưng (...) cất lên những tiếng hát thật đặc biệt, thật cá
tính, thật bản sắc. (14)
Mỗi phong trào văn nghệ nó như một cái cây
hoa mới.
Phải liệu đơm hoa, càng nhiều càng tốt,
chứ không thể cứ toàn lá mãi!
Hoa văn nghệ cũng như hoa thật, không
giống... lá. Hoa văn nghệ, ngoài ra, còn không giống nhau: chẳng hạn cùng nở
trên cây Thơ Mới, nhưng đóa Xuân không giống đóa Huy, đóa Hàn, đóa Chế v.v.
Trẻ và thơ
Trong văn học nghệ thuật, chúng ta phải
thực hiện cho thành một quy luật cái câu "càng già càng dẻo càng
dai"; mặt khác, chúng ta cũng hướng về những bạn làm thơ trẻ để tìm những
tài năng mới khơi ra được những dòng suối xuân trong xứ thơ, đem đến những
giọng điệu mới mẻ. Là vì ở trong tuổi bắt đầu cuộc đời, người ta có trăm nghìn
cảm xúc mới lạ, người ta có cái sức trẻ rất cần thiết cho thơ...(15)
Xuân Diệu "trò chuyện với các bạn làm
thơ trẻ" mà như ôn chuyện chính mình: vừa tiếp xúc sơ sơ với cuộc sống,
ông đã nẩy ngay "trăm nghìn cảm xúc mới lạ"; vừa tập sáng tạo, ông đã
đem đến ngay cho thơ Việt Nam một "giọng điệu mới mẻ" có sức hấp dẫn
lâu dài.
Nhưng như ông là hết sức ngoại lệ. Lệ là,
phải từng trải cuộc sống, phải lăn lộn với việc làm thơ, thì thơ may ra mới nên
hay. Không phải càng trải càng lăn càng hay. Có khi trải quá hóa chua, đắng,
hoặc chai, đờ; lăn quá hóa máy móc! Thơ hay nhất ra đời khi nhà thơ vừa cảm xúc
đậm đà, đằm thắm, vừa chưa thành dây chuyền lắp ráp chữ nghĩa.
Trẻ là tương lai. Ta nên hướng về những
bạn trẻ nhưng chớ nên tán thưởng họ dễ dãi quá, kẻo khiến thơ không có... tương
lai.
(Trong tình hình văn hóa diễn biến hiện
nay, đằng nào thơ cũng không có tương lai!)
Thơ còn là cái thần của tiếng nói
Thơ không phải chỉ là một nội dung tư
tưởng, tình cảm, thơ còn là cái thần của ngôn ngữ nữa. (16)
Không phải ngôn ngữ nào cũng nhiều
"thần" như ngôn ngữ nào.
Tiếng Việt và các thứ tiếng Tây, bên nhiều
thần bên ít thần chênh lệch nhau đến mức trở nên cái khác về chất chứ không
phải về lượng nữa!
Lời ta nói gồm những từ hết sức gợi cảm,
gắn bó với nhau cách tự nhiên, hữu cơ, thành một toàn thể liền lạc, giống như
một sinh vật!
Lời Tây nói gồm những từ gần như trơ trơ,
được lắp ráp lại với nhau theo một ngữ pháp cứng nhắc, thành một tập hợp bộ
phận, giống như một cái máy! (17)
Tuy khi làm "thơ" Tây có linh
động phần nào cách lắp từ, nhưng nói chung kết quả cơ bản vẫn "chỉ là một
nội dung" thôi. Chính nhờ đó "thơ" Tây có thể được dễ dàng
"chuyển" qua đủ thứ ngôn ngữ khác cho cả thế giới đua nhau trầm trồ!
Phải biểu hiện lại sự sống
Người nghệ sĩ (...) cần tu dưỡng cái khả
năng biểu hiện lại sự sống. (18)
"Sự sống" đây không phải là trời
đất, núi sông, cây cỏ, chim muông, hay cô gái nào cả. Mà là ấn tượng của ta khi
tiếp xúc với...
Ấn tượng thì sống động.
Chỉ cái sống mới thực diễn được cái sống.
Vậy thơ sao cho lời lời tươi rói đó thì
thơ!
Đàn nguyệt, đàn nhị, nhà thơ
Nhà thơ mang nhược điểm của mình như một
cây đàn mang hạn chế của nó: đàn nguyệt gảy bằng ngón tay: tiếng tròn, đàn nhị
kéo bằng vĩ tơ: tiếng dài, nguyệt không réo rắt xé không gian được như nhị, nhị
không thánh thót "mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân" được như nguyệt; vấn
đề ở chỗ: nguyệt hay đến độ cao nào? nhị hay đến đỉnh chót
nào? (19)
Đàn nhiều loại. Nhà thơ càng nhiều loại:
mỗi nhà thơ là một loại! Có loại Thiều, loại Điểm, loại Du, loại Trứ, loại
Quát, loại Khuyến, loại Xương, loại Hiếu, loại Xuân, loại Huy, loại Bính, loại
Hàn, loại Chế v.v.
Bất cứ loại nào cũng vừa "không (...)
được như" bất cứ loại nào khác, lại vừa có cái hay riêng không loại nào
khác có được.
Hành trình sáng tạo nghệ thuật là cố đi
cho đến cái "đỉnh chót" của "cây đàn" mình.
Chẳng hạn, "con chim đến từ núi
lạ" (20) có một lối hót riêng chưa chim nào từng, nó đã cứ thế mà "dào
dạt với âm thanh" suốt đời, để lại cho ta những "tiếng lòng" say
sưa chót vót!
Đàn nào chả có hạn chế
Đừng ôm nguyệt mà réo rắt
Hay kéo nhị cho thành giọt!
Sáng tạo
Là cố đi
Sao cho đến đỉnh mình. (1) Xuân Diệu, Ba thi hào dân tộc, nxb. Thanh Niên, VN, 2000, tr. 287.
Đừng ôm nguyệt mà réo rắt
Hay kéo nhị cho thành giọt!
Sáng tạo
Là cố đi
Sao cho đến đỉnh mình. (1) Xuân Diệu, Ba thi hào dân tộc, nxb. Thanh Niên, VN, 2000, tr. 287.
(2) Trò chuyện với các bạn làm thơ
trẻ, nxb. Văn Học, 1961, in lại trong Các nhà văn nói về văn,
nxb. Tác Phẩm Mới, 1985, tr. 71.
(3) TCVCBLTT, in lại trong CNVNVV,
tr. 71.
(4) "Những suy nghĩ của một nhà văn
năm 1968", tạp chí Văn Nghệ số 252, 15-3-1968, in lại
trong CNVNVV, tr. 133-134.
(5) Tiếng thơ, nxb. Văn Nghệ,
1951, tr. 74, in lại trong CNVNVV, tr. 69-70.
(6) Đăng trên tạp chí Văn Nghệ,
8-1961, in lại trong CNVNVV, tr. 70-71.
(7) Đăng năm 1978, in lại trong CNVNVV,
tr. 72-73.
(8) Các nhà thơ cổ điển Việt Nam,
nxb. Văn Học, 1982, in lại trong CNVNVV, tr. 71.
(9) TCVCBLTT, in lại trong CNVNVV,
tr. 70.
(10) Như trên.
(11), (12) TCVCBLTT, Sống,
học tập và lao động sáng tạo. Mài sắt nên kim, nxb. Văn Học, 1977, in
lại trong CNVNVV, tr. 72 và 119-120.
(13) TCVCBLTT, in lại trong CNVNVV,
tr. 120.
(14) Tiếng thơ, nxb. Văn Nghệ,
1951, in lại trong CNVNVV, tr. 121.
(15) TCVCBLTT, in lại trong CNVNVV,
tr. 135.
(16) Phát biểu năm 1960, in lại trong CNVNVV,
tr. 185.
(17 ) YÙ này chúng tôi đã trình bày trong
sách Tìm tòi và suy nghĩ (2005).
(18) Phát biểu năm 1960, in lại trong CNVNVV,
tr. 200.
(19) Phát biểu năm 1978, in lại trong CNVNVV,
tr. 205-206.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét