Nỗi Buồn Chiến Tranh hay Thân
Phận Tình Yêu, hai tựa đề, một tác phẩm. Dường như tác giả đã lưỡng lự lâu
lắm giữa Nỗi Buồn Chiến Tranh (1) và Thân
Phận Tình Yêu. Sau cùng, tuy lựa Nỗi
Buồn Chiến Tranh nhưng vẫn lưu lại Thân
Phận Tình Yêu nơi bìa sau. Một sự phân vân dễ hiểu và hợp lý, vì trong
nỗi buồn chiến tranh nổi trôi thân phận tình yêu. Và qua bao gian nan, khốc liệt, tình yêu vẫn sống, vẫn
tiếp tục là nguồn sống trước chiến tranh, trong chiến tranh và ngoài chiến tranh.
Trong khi chiến tranh đã kết thúc, đã chết mà tàn tích - tức nỗi
buồn - vẫn còn tiếp tục hủy diệt tâm hồn và thể xác con người.
Nỗi Buồn Chiến Tranh viết về cuộc đời một
chiến binh với những hồi khứ đứt đoạn hay liên tục, là ánh hồi quang chiếu xuống
những đoản đời. Là khúc thương ca, tâm ca, tình ca thơ mộng, tuyệt diệu và
tuyệt vọng, hãi hùng và bi thảm; quyến luyện thực tại và ảo giác, cuộc sống và
cõi chết, quá khứ và vị lai. Trong những tiểu thuyết viết về cuộc chiến 20 năm,
phát xuất từ những nhân chứng phía Nam hay phía Bắc, đây là tác phẩm sâu sa,
đớn đau, tàn khốc, bi quan và cũng lạc quan hơn cả.
Truyện viết về đời Kiên, người bộ
đội thuộc cánh quân trinh sát, trong mười năm chiến tranh và mười năm hòa bình.
Kiên xuất thân từ một gia đình trí thức tiểu tư sản miền Bắc. Cha là họa sĩ,
một họa sĩ phạm "tội đồ", bị chối bỏ, người ta phê phán tranh ông thể
hiện những chân dung ma quỷ. Người họa sĩ đó, lạc loài giữa xã hội người, đành hội nhập vào xã
hội không người, xã hội yêu ma "siêu thực" của những nhân vật bi thảm trong
tranh, đắm chìm trong thế giới ảo giác và sau cùng, đã tiêu hủy toàn bộ sáng
tác trước khi từ giã cõi đời, để được cùng những đứa con tinh thần của mình
bước sang cõi khác.
Mẹ Kiên, một đảng
viên, bỏ cha từ lúc Kiên còn nhỏ. Những kỷ niệm về mẹ rất mơ hồ, trừ vài lời mẹ
dặn: "Bây giờ con đã là đội viên thiếu niên, nay mai là vào đoàn [...] nên
cứng rắn dần lên con ạ." (trang 135)
Kiên biết rất ít
về người chồng sau của mẹ, một nhà thơ tiền chiến về già. Ông có những quan
niệm độc đáo về cuộc đời, người cha dượng ấy đã từng khuyên Kiên: "Nghĩa vụ của một
con người trước trời đất là sống chứ không phải hy sinh nó, là nếm trải sự đời
một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ [...], mong con hãy cảnh giác
với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì
đấy." (trang 61)
Kiên là sự hòa
hợp hoàn hảo giữa mẹ và cha: xung phong đi bộ đội ở tuổi mười bảy, khăng khăng
chiến đấu, bỏ lại người yêu, cứng rắn theo nghĩa mẹ. Và Kiên
đã xả thân làm người hùng, tiêu phí cuộc đời trong nghĩa vụ, trong tàn sát,
trong chiến thắng, trong sống sót trở về; để rồi không bao giờ thoát khỏi nỗi
cô đơn, lạc loài, yếu đuối, ra khỏi nỗi buồn của cha, nỗi buồn
gia truyền, nỗi buồn truyền kiếp mà cha đã lưu lại cho anh như một báu vật, như
một tài sản duy nhất trước khi ông mất.
Kiên hành động
nhưng không mấy khi chủ động: trong tình yêu, chủ động là Phương. Trên chiến
trường, chủ động là bạo lực. Kiên bị lôi vào dòng cuồng lưu của cuộc đời, Kiên
đi chiến đấu như một người mụ mẫm trí óc được các "hào quang" dẫn
đường, rồi cố gắng vượt qua những cửa tử, nhờ Phương chỉ lối. Kiên tiêu biểu
cho tầng lớp thanh niên lớn lên, ngoan ngoãn tuân theo chỉ thị, theo
"tiếng gọi non sông", không đặt vấn đề, không có vấn đề, không đòi
hỏi vấn đề.
Phương, người
Kiên yêu trọn kiếp, vai phụ mà có chỗ đứng chính trong truyện. Phương xuất hiện
không nhiều nhưng thao túng đời Kiên, thao túng mãnh liệt hơn chiến tranh. Từ
những ngày thơ ấu, Kiên đã yêu Phương với mối tình thứ nhất. Xa Phương trong
mười năm chiến tranh. Khi hòa bình trở lại: gặp Phương một thời rồi vĩnh viễn
xa Phương. Trong gặp và xa: Kiên yêu Phương với mối tình thứ nhì.
Phương là một
hiện tượng kỳ ảo: chinh phục con người bằng tình yêu và sống bằng tình yêu.
Phương là biểu tượng của tự do, thiết tha, duy cảm, sống hết mình, phung phí
sinh lực, rộng chi cảm giác. Phương miệt mài yêu đương, đau thương và nhục cảm.
Từ tuổi mười ba, Phương đã tìm hạnh phúc trong tự do tuyệt đối, tự giải phóng
mình khỏi mọi thành kiến, mọi lo âu, mọi ràng buộc, mọi quy luật của xã hội
loài người. Là kệ, là mặc kệ. Do đó, phần hồn Phương gần gũi với cha Kiên, Phương nghệ sĩ, Phương mang
ảo giác của cuộc đời.
Trong sáng tạo,
cha Kiên đã hoài thai khai nhụy -cũng trong tự do tuyệt đối- những tác phẩm
nghệ thuật. Nhưng những đứa con đó sớm bị hành quyết. Tuy cha Kiên không tham
dự cuộc chiến giết người, nhưng những đứa con tinh thần của ông cũng bị sự ngu muội càn quét, hủy diệt. Phương là
người duy nhất hiểu được nỗi buồn chiến tranh của cha Kiên. Và họ yêu
nhau, mối tình ngang trái hiện hữu nhưng không thể hiện hình trong cõi đời
thường mà đi vào cõi mộng.
Cha Kiên mất đi,
bao nhiêu tình yêu còn lại Phương dồn ép, lồng ấp cho Kiên. Trong những giây
phút khắt khe nhất của định mệnh, Phương sẵn sàng liều lĩnh đem sinh mệnh mình
để đổi trao lấy một vài khắc giây cuồng điên hạnh phúc với người yêu. Vẫn kệ,
vẫn mặc kệ đời, kệ, mặc kệ đạn bom và khói lửa. Nhưng thảm cảnh đêm
chia ly cùng với những hẹp hòi u muội của Kiên sau đó đã gạt Phương ra khỏi quỹ
đạo đời Kiên. Từ đấy, Phương đem tình yêu của mình chia chác cho những kẻ may
mắn khác. Trong lối sống buông thả và phóng đãng, Phương hủy diệt đời mình, tự
hủy để được nẩy sinh: Phương là sự vĩnh cửu duy nhất còn sót lại, sau chiến
tranh.
Ngoài tình yêu, Nỗi Buồn Chiến Tranh còn là cuốn tiểu
thuyết viết về chiến tranh và chống chiến tranh. Nhận diện chiến tranh dưới
những góc cạnh bi quan, tàn nhẫn nhất: qua kinh nghiệm mười năm tàn sát, con
người học được những gì về lòng nhân ái? về tình người? về nhân
tính?. Những xa xỉ phẩm ấy, hầu hết đều đã vắng mặt trên thị trường xương máu. Khi phải trực
diện với cái chết, chỉ có một chân lý đáng giá và đáng kể: "Miễn là không
ngỏm trong mùa khô." (trang 21). Bảo Ninh đã tìm được một định nghĩa
hoang mang và khốc liệt về chiến tranh: "Chiến tranh là cõi không nhà không
cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn
bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống
con người." (trang 32)
" - Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ
máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương. Mà những người được phân
công nằm lại góc rừng le là những người đáng sống nhất." (trang 44)
Nguyên Ngọc kể lại: "Bảo
Ninh có lần tâm sự với tôi rằng anh viết vì câu hỏi: Vì sao anh lại còn sống
sót đến hôm nay trong khi hàng trăm, hàng vạn bạn bè của anh cũng trẻ trung,
cũng phơi phới, rất nhiều người còn đẹp đẽ hơn anh, tài năng hơn anh bội
phần... lại đã mất đi? Câu hỏi dày vò anh đến trọn đời như một niềm ân hận vừa
vô lý, vừa có thật không nguôi. Và câu hỏi thứ hai: Tại sao tất cả những điều
ghê gớm ấy, bây giờ lại như thế này?"(2)
Tại sao tất cả
những điều ghê gớm ấy chỉ đem lại một thực tại như thế này? Câu hỏi kinh hoàng
về bản chất chiến tranh và cuộc đời, khó giải đáp cho thế hệ Bảo Ninh và
cả những thế hệ không có Bảo Ninh, không còn Bảo Ninh. Tiên tri của nhận thức,
Phương đã có những hoài nghi rất sớm về bản chất cuộc đời: "Chiến tranh, hòa
bình, vào đại học, đi bộ đội khác nhau lắm hay sao? Và thế nào là cuộc đời tốt,
cuộc đời xấu? Tình nguyện đi vào bộ đội ở tuổi mười bảy thì cao thượng hơn vào
đại học ở tuổi mười bảy hay sao?" (trang 150)
Nhưng
"Phương lý" sáng suốt ấy, mấy ai chia sẻ? Người ta cuống cuồng xông
vào chiến tranh, xông vào lý tưởng, xông vào những đỉnh cao cuộc đời như những con thiêu thân
thèm khát máu đèn, lóa mắt, loạn thần vì "cao cả", mà quên đi những
nhỏ nhặt, tầm thường, những viên gạch, hòn sỏi, hạt cát âm thầm nhào nên cuộc
sống!
Như bao nhiêu
người khác, Kiên đã ra đi, đã tiêu tán cuộc đời cho chiến tranh, cho lý tưởng,
để rồi trong một phút định thần ngoảnh lại, Kiên "đứng lặng ngắm
toàn cảnh đời mình đang mất đi, đang trôi xa, đang vĩnh biệt chính mình." (trang 128). Ðộc thoại
trên đây nói lên một thực tại rớm máu: những nhỏ nhặt, tầm thường như ăn, ngủ,
chơi, vui, buồn, đau, sầu, nhớ... của cuộc sống hàng ngày, một khi đã được
những vinh hạnh to lớn như tổ quốc, lý tưởng... giẫm lên, dày xéo lâu lắc mà
không thương tiếc thì không còn cách nào hồi sinh được nữa: con người đã tuyệt
tự với cuộc đời.
Chiến tranh đọa
đày, chết chóc, thế giới hãi hùng hầu như là độc quyền của đàn ông: đàn ông gây
nên chiến tranh và đàn ông hành động. Hành động nhưng không chủ động. Ðàn bà,
xuất hiện không nhiều, nhưng nắm vai chủ động: họ là biểu tượng của tha nhân,
của tình yêu và độ lượng. Từ Hạnh, người đã cho Kiên những rối loạn cảm giác
đầu đời, đến Hòa, người giao liên đã hy sinh trên chiến trường để đồng đội được
sống sót, rồi Hiền, người chiến binh tàn tật, đã sống vội vã với Kiên một đêm
cuối cùng, dư âm muộn màng của những ngày giã từ cuộc chiến, đến người đàn bà
câm, là hầm trú ẩn của Kiên trong những giây phút hoang mang, cô độc nhất của
tâm hồn, thời hậu chiến.
Và sau cùng và trên hết là Phương, người đàn bà hữu hình hay vô hình, đã vượt lên những chết chóc, tàn sát, đã tiếp máu, tiếp thở cho Kiên, đã lôi Kiên ra khỏi bàn tay thần chết và đã trói buộc Kiên mãi mãi với tình yêu. Những người phụ nữ đó không nắm vận mệnh một ai, họ là vận mệnh, họ là định mệnh.
Và sau cùng và trên hết là Phương, người đàn bà hữu hình hay vô hình, đã vượt lên những chết chóc, tàn sát, đã tiếp máu, tiếp thở cho Kiên, đã lôi Kiên ra khỏi bàn tay thần chết và đã trói buộc Kiên mãi mãi với tình yêu. Những người phụ nữ đó không nắm vận mệnh một ai, họ là vận mệnh, họ là định mệnh.
Kiên tin vào định
mệnh. Cuộc đời Kiên và Phương, nếu không có đêm tiễn đưa trước khi Kiên lên
đường, nếu Phương không dứt khoát, chủ động đưa Kiên một quãng thì có thể tất
cả đã khác: Kiên đã không phải nhúng máu người quá sớm và những dã man của đời
lính sau này cũng không thể hiện một cách lạnh lùng và nhẫn tâm đến thế. Từ đêm
chia ly định mệnh ấy, Kiên mê lạc trong một lộ trình vạch sẵn, sáng suốt và
khiếp đảm của chiến tranh: trong sự vắng mặt của nhân tính, chiến tranh có
nghĩa là được phép giết người vì lý tưởng, giết người trong vinh quang, giết
người để được vinh dự bảo vệ một cái gì cao cả.
Một trong những
khía cạnh bi quan và lạc quan nhất của Nỗi Buồn Chiến Tranh là đối lập bản chất tự
tôn, anh hùng của người nam với tiềm năng tự tại, nhẫn nhục nơi người nữ, Bảo
Ninh đã đạt tới những mâu thuẫn cao độ trong cùng một tác phẩm.
Tình yêu là nguồn của
cuộc đời: phụ nữ -qua khả năng yêu đương và sinh nở- gây ra sự sống. Nhưng họ không
có khí giới, sức lực để bảo vệ sự sống. Ngược lại, người nam, có khả năng yêu
đương nhưng không có khả năng sinh nở, dùng sức mạnh như một quyền lực tối cao
để tận hưởng và phung phí sinh mạng, như để trả đũa cho sự bất lựccủa mình trước nghĩa vụ
cấu tạo cuộc đời: Ðó là mâu thuẫn sâu xa và bi thảm nhất của con người, trực
diện với tình yêu, sự sống và sự chết.
Sự mâu thuẫn này còn xảy ra trong sáng tạo: Nghệ sĩ và tác phẩm có thể tồn tại được trong một môi trường bảo thủ, lấy khủng bố làm khí giới đương đầu với nghệ thuật, ưa khai tử cái mới, thích hành quyết cái lạ, không ưng thám hiểm những vùng chưa biết mà chỉ thèm thuồng nhai lại những ợ chua trong thực quản của chính mình, ròng rã hơn nửa thế kỷ rồi mà chưa thấy chán?
Sự mâu thuẫn này còn xảy ra trong sáng tạo: Nghệ sĩ và tác phẩm có thể tồn tại được trong một môi trường bảo thủ, lấy khủng bố làm khí giới đương đầu với nghệ thuật, ưa khai tử cái mới, thích hành quyết cái lạ, không ưng thám hiểm những vùng chưa biết mà chỉ thèm thuồng nhai lại những ợ chua trong thực quản của chính mình, ròng rã hơn nửa thế kỷ rồi mà chưa thấy chán?
Nỗi Buồn Chiến Tranh hay Thân Phận Tình Yêu còn đối chất tình
yêu với chiến tranh, hai kỳ phùng địch thủ:
- Một bên thiêng liêng, tha thiết, bắt nguồn cho sự sống.
- Một bên hung tàn, vô độ và hủy diệt sự sống.
Trong cuộc tranh đấu không ngừng giữa hai phạm trù đối lập ấy: Chiến tranh với sức công phá mãnh liệt, đã tàn sát và hủy diệt tất cả: từ cỏ cây, hoa lá, xác người và đến cả hồn người. Nhưng chiến tranh không tiêu diệt được tình yêu: thái độ lạc quan đến tuyệt diệu ấy của tác phẩm, mấy ai đạt được?
- Một bên thiêng liêng, tha thiết, bắt nguồn cho sự sống.
- Một bên hung tàn, vô độ và hủy diệt sự sống.
Trong cuộc tranh đấu không ngừng giữa hai phạm trù đối lập ấy: Chiến tranh với sức công phá mãnh liệt, đã tàn sát và hủy diệt tất cả: từ cỏ cây, hoa lá, xác người và đến cả hồn người. Nhưng chiến tranh không tiêu diệt được tình yêu: thái độ lạc quan đến tuyệt diệu ấy của tác phẩm, mấy ai đạt được?
Chú thích
(1) Bài này được viết vào dịp tết Nhâm
Thân 1992, tôi chưa biết gì về Bảo Ninh. Sau này, được biết, Nỗi Buồn Chiến Tranh viết xong năm 89.
Hội Nhà Văn in thành sách tháng 12-1990, với tựa Thân Phận Tình Yêu, do nhà xuất bản
"đề nghị", nhiều đoạn bị cắt bỏ. Thân Phận Tình Yêu là một trong ba tác phẩm
được giải văn xuôi vào tháng 9 năm 1991. Ít lâu sau, tác phẩm được tái bản và
lấy lại tên cũ là Nỗi Buồn Chiến Tranh.
(2) Trích bài Trường Viết Văn Nguyễn
Du, Một Sự Nghiệp Ðáng Say Mê, Nguyên Ngọc, báo Văn Nghệ, số 47, ra
ngày 25-11-1989.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét