Hiện
tượng Bùi Giáng
Sinh thời, Bùi Giáng bảo: "Hãy để cho tôi yên, tôi dại. Ðừng ai nói đến tôi. Và nhất là đừng
có ai bàn đến thơ tôi." (1) Có lẽ vì tôn trọng nhà thơ, cho nên ít ai bàn đến
thơ ông (2). Ca tụng Bùi Giáng thì nhiều, nhưng phê bình Bùi Giáng thì ít.
Như thơ, Bùi Giáng sống tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng, cả đời lục bát. Tại sao lục bát? Lục bát
bởi vì, đối với Bùi Giáng: "Lục bát Việt Nam là cõi thi ca
hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển, ba bẩy sông hồ." (3) Ðó là lộng ngôn Bùi Giáng.
Về bản
thân mình, Bùi Giáng tự họa: "Nhe răng cười trong bóng tối... Không
bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không
thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán chường thi ca mà cứ làm
thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống
canh." (4) Ðó là mâu thuẫn Bùi Giáng.
Hỏi về
tiểu sử, Bùi Giáng trả lời:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa.
Gọi tên là một hai ba,
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Ðó là vô căn Bùi Giáng.
Trên báo Văn, số 26 tháng 8 năm 1984, Mai Thảo kể lại rằng khi hỏi
về cái lực viết phi phàm của Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền lắc đầu cười: "Chịu, không giải thích được. [...] Nói đến mấy ngàn bài
thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận, vô cùng là
đúng hơn. Ngủ ra thơ. Thở ra thơ. Ði ra thơ. Ðứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ
thơ, làm thơ."
Vẫn
theo lời Mai Thảo, ông Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm, thuật lại: "Ảnh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết
hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn
ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in
không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng,
buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ
thôi, đâu có thì giờ đọc."
Mai
Thảo kể tiếp, khi làm số Văn, đặc biệt về Bùi Giáng: "Tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy
ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi
mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống và
trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ [...] Lần
đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như
thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, xa quá, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút,
từ đầu ngón thôi [...] Lần đó, tôi đã thấy, đã hiểu tại sao Bùi Giáng, cứ cánh
bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi."
Về
những cơn điên Bùi Giáng, Phạm Xuân Ðài kể trong lời tựa tập Thơ Bùi Giáng (5): "Chỉ có thơ và những cơn điên [...] Bây giờ (năm 1992) anh
ít làm thơ lắm, còn các cơn điên thì vẫn viếng thăm anh gần như định kỳ. Những
lúc ấy anh đi nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện ở vùng chợ Trương Minh Giảng
(chỗ Ðại Học Vạn Hạnh, là nơi ngày xưa anh thường trú ngụ) đứng giữa đường vung
tay, điều khiển xe cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt đôi mắt sáng quắc bừng
bừng [...] Có khi anh múa may trong một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính
xác gần như múa võ, miệng hò hét như đang nạt nộ với một đối tượng vô
hình."
Ðó là
hiện tượng Bùi Giáng, qua lời kể của những người thân trong giới văn học.
Bùi Giáng là ai? Bùi Văn Vịnh, em của Bùi Giáng, cho
biết (6): Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu, huyện
Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Thuở nhỏ, học trường Bảo An tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1950, đậu Tú Tài II văn chương ở Liên Khu V. Sau đó ra Liên Khu IV học tiếp đại học. Nhưng sau khi nghe qua bài diễn văn khai giảng của ông viện trưởng, Bùi Giáng quay về Quảng Nam và bắt đầu quãng đời được gọi là "Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt".
Tháng năm 1952, Bùi Giáng về Huế thi Tú Tài tương đương và vào Sài gòn ghi danh Ðại Học Văn Khoa. Lần này, sau khi nhìn danh sách giáo sư giảng dạy ở Văn Khoa, Bùi Giáng quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.
Thuở nhỏ, học trường Bảo An tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, trung học ở trường Thuận Hóa, Huế. Năm 1950, đậu Tú Tài II văn chương ở Liên Khu V. Sau đó ra Liên Khu IV học tiếp đại học. Nhưng sau khi nghe qua bài diễn văn khai giảng của ông viện trưởng, Bùi Giáng quay về Quảng Nam và bắt đầu quãng đời được gọi là "Mười lăm năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt".
Tháng năm 1952, Bùi Giáng về Huế thi Tú Tài tương đương và vào Sài gòn ghi danh Ðại Học Văn Khoa. Lần này, sau khi nhìn danh sách giáo sư giảng dạy ở Văn Khoa, Bùi Giáng quyết định chấm dứt việc học ở trường và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục.
Từ 1957 đến
1997, Bùi Giáng có khoảng 55 tác phẩm đã in về thơ, dịch và triết. Như lời Mai
Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tuệ, thơ có đến nghìn bài. Và nội trong một ngày,
có thể ném bịch một vài trăm trang sách. Ðúng là một kỷ lục có một không hai.
Chúng ta thử tìm hiểu bản chất của kỷ lục ấy qua
một vài trang sách của Bùi Giáng trong Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư
Tưởng, do An Tiêm xuất bản lần thứ nhất tại Sài gòn năm 1972, và tái bản
tại hải ngoại.
Có thể nói trong
cuốn sách này, cái gọi là điên của Bùi Giáng phát hiện rõ rệt dưới hình thức
loạn ngôn, ngộ chữ cao độ. Về Heidegger, Bùi Giáng viết: "Tất cả con
đường tư tưởng của Heidegger là mọi lối nhiếp dẫn bước đi về những vùng u kín
trong cổ lục uyên nguyên." (trang 13)
Về Nietzsche, ông viết: "Nietzsche không phải là đại hải
đại dương. Nietzsche đã đón vào lòng mình một dòng sông dơ bẩn. Và từ đó? Từ
đó, Nietzsche biến thành một loại người mạt hậu theo mọi nghĩa thái thậm ly kỳ.
Con người mạt hậu và hư vô chủ nghĩa, con người mạt hậu và sa mạc tinh hoa, con
người mạt hậu và Mạt Hậu "Tử Sinh Môn" Hoạt Tinh Thể, con người mạt
hậu và Siêu Hình Học Lãnh Ðịa, con người mạt hậu và Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch
Tồn Lưu, Ðịnh Mệnh Phối Tiết Sử Lịch Tồn Lưu và Siêu Hình Học theo nghĩa Sử
Lịch chân lý của Hiện Thể như là Hiện Thể, Sử Lịch chân lý của Hiện Thể và Ðịnh
Mệnh Tồn Lưu thoái tàng ư mật, Tồn Lưu thoái tàng ư mật và Hằng Thể bước vào
vòng di vong trầm một, từ di vong trầm một, còn chút hậu tình ân ốc nào sẽ
"trột mầm" cho một trận Dịch Chuyển thông hành của Ðịnh Mệnh hay
không? hay là Siêu Hình Học vẫn mãi mãi kiên trì tồn lập trong cuộc đú đỡn
"trệ lưu ư ngoại" bất khả tư nghì khuyết phạp từ Hoạt Tinh Thể của Hư
Vô? ..." (trang 17)
Và cứ như thế, Bùi Giáng sản xuất 499 trang Con
Ðường Ngả Ba, Bước Ði Của Tư Tưởng.
Ðiểm
thích thú nhất của người đọc trong cuốn sách này là những trích đoạn thơ Bùi
Giáng, phần lớn là những câu thơ hay, tỏa ra những suy tư sâu lắng về bản chất
con người.
Nhưng trong 499 trang chữ ấy, người đọc tìm thấy rất
ít dòng đứng đắn và tỉnh táo bàn về những vấn đề triết học như hiện sinh và bản
thể, tồn tại và thời gian, mặc dù ông rất ngưỡng mộ Heidegger, người thầy hiện
sinh được ông trích, dịch một cách kỳ cục. Ví dụ như câu này, dịch ra từ tiếng
Pháp, tiếng Ðức: "Nhưng mà lời thuyết thoại trì ngự,
trong (khởi từ) Ðịnh Mệnh Phối Tiết mở phơi, sẽ ra sao nếu như cái Sở Khải Khai
trong Song Trùng Tịch Hạp bị Ðịnh Mệnh Phối Tiết (ruồng rẫy) bỏ phó mặc cho
cuộc thể hội vất vơ nhân tuần (dung thường nhật lệ) của con người từ diệt chúng
tử chúng sinh?"
(Con Ðường Ngả Ba Bước Ði Của Tư Tưởng, trang 12-13)
Dù đặc
sệt những tên tuổi triết gia, nặng ký trích dẫn thiên kinh, vạn điển, dù có một
số ý trội lên về vấn đề đọc sách, đọc Nguyễn Du, đọc Bùi Giáng, về sự gặp gỡ
giữa những nhà tư tưởng lớn, đả kích một số nhà xuất bản không tôn trọng văn
bản của tác giả, Con Ðường Ngả
Ba vẫn không phải là cuốn
sách bàn về triết học, hoặc đưa ra một hệ thống tư tưởng mạch lạc; mà có thể
nói đây chỉ là cuốn phiếm luận bí hiểm, ngôn ngữ thần chú, nhại triết
học, nhạo người đọc. Cho nên khi Tạ Tỵ viết: "Bùi Giáng đối thoại với
Nietzsche, Sophocle, Parménide, Khổng Tử, Lão Tử, Sartre, Camus..."
thì e rằng Tạ Tỵ quá lời. Sự tìm kiếm siêu hình nơi Bùi Giáng, như chỉ dừng ở
phần vỏ của ngôn từ: tồn sinh, tồn lưu, hằng thể, hư vô, logos, ... mà không đi
vào nội tâm của suy tưởng. Hoặc có lẽ Bùi Giáng chỉ muốn rỡn chơi. Nếu ông có
nhắc tới Như Lai, Bồ Tát, Heidegger, Parménide, Platon, Socrate cũng chỉ như
ông nói đến Nam Phương Hoàng Hậu, Dương Quý Phi, Marilyn Monroe, đười ươi,
chuồn chuồn, châu chấu v.v... vậy thôi, trong một trạng thái "tẩu hỏa nhập
ma", một tinh thần anarchiste toàn diện. Một "người phá", để nói
theo ngôn ngữ Trần Dần. "Người phá" trong cái nghĩa tiêu cực của nó,
chứ không phải trong cái nghĩa sáng tạo, ít nhất là ở cuốn sách Con Ðường Ngả Ba.
Phải
chăng Bùi Giáng chỉ muốn "hù dọa" người đọc không chuyên môn? Hay ông
muốn nhại, diễu, những hệ thống suy tưởng mà một số trí thức quen dùng như mẫu
mực hoạt động tinh thần? Biến chúng thành một thứ charabia, ngôn ngữ vấn đáp
chuồn chuồn, châu chấu, nói trẹ, nói xàm, nói bá láp và ông có khả năng sản
xuất mỗi ngày vài trăm trang như thế?
Thái
độ anarchiste toàn diện này mở rộng trong đời sống, trở thành một bản năng phản
kháng quẫy đời: Cởi quần áo giữa lớp học, tắm nơi công cộng, ngủ vỉa hè, trở
thành clochard (hành khất say rượu), mặc áo rằn ri lính ngụy, để chỉ
đường..., tất cả những "cơn điên" ấy của Bùi Giáng chứng minh sự sáng
suốt của một Bùi Giáng không điên.
Không
điên vì ông chỉ đẩy đến cùng trạng thái hiện sinh, chứng nghiệm ý thức trần
trụi về bản thể. Cởi dần năm bẩy lớp quần áo chẳng qua chỉ là hình ảnh
"rút gọn hiện tượng", bóc vỏ các tầng lớp bề ngoài của "hiện
tượng" để tìm ra bản chất trong hiện tượng luận Husserl.
Trở thành clochard là một cách thể nghiệm tự do và tự
hủy.
Trong
những đệ tử của hiện sinh thời ấy, Bùi Giáng là người đi xa nhất trong hành
động tự hủy và hành xác. Tự hủy để chứng minh: Cá nhân con người đã chán ngấy
cuộc sống, nó có một quyết định tự do lựa chọn, và sự hủy hoại bản thân là sự
lựa chọn tiến gần nhất đến tự do tuyệt đối.
Sau 75, người ta càng yêu Bùi Giáng hơn, vì trong một
xã hội được bị lồng vào khuôn phép, một xã hội đã ổn
định cơ chế, công chúng yêu mến những gì bất thường, yêu những kẻ ngoại đạo, bất ổn.
Bùi
Giáng là người ngoại đạo duy nhất dám làm lũng đoạn môi trường ổn định bằng
thái độ tự hủy. Cái điên của Bùi Giáng là cái điên sáng suốt trong một tình thế không có cứu cánh nào khác nếu không
tìm về bản thể của con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét