Đèn thắp thì mờ
Ngồi trên một con tàu sau khi đã bon bon qua các quãng đường
bằng phẳng, rầm rầm rập rập lăn bánh qua mấy đoạn cầu và nay khởi sự rúc vào một
vùng cây rậm ven núi giữa khi bóng tối bắt đầu bủa vây, con mắt của hành khách
phóng ra ngoài trời, giữa cõi mờ mịt, nếu cố tình soi thọc vào bóng tối, thế
nào cũng phát hiện ra vài đốm đen.
Mấy đốm đen ấy, thường khi là đèn dầu, nếu tàu qua sớm hơn, sẽ
chưa được đốt lên, còn nếu tàu qua chậm, biết đâu đã phụt tắt, khi ẩn khi hiện
qua tảng lá, khi bị khuất lấp vì một thân cây, nhưng cứ hiện ra chong chong, nếu
con mắt kiên nhẫn nhìn lui cố tìm cho được một điểm sáng giữa bóng tối mịt
mùng.
Đèn thắp thì mờ.... "
Vang lên đâu đây mấy chứ nhỏ giọt ấy trong bài Người nô lệ da
vàng của Trịnh Công Sơn.
Không "mờ" sao được? Bởi đó là đốm đèn dầu. Mà hà tất
phân biệt đèn mờ với đèn sáng? Miễn sao nó xoi thủng bóng đêm. Miễn sao nó quần
tụ những đầu người bên nồi cơm, hay cùng nói nói cười cười sau một ngày xa cách
nhau mỗi người một nơi vì công việc.
Ngọn đèn ấy trông thật thân quen. Nó đã được thắp lên từ trong
đêm đen của thế kỷ lịch sử xa xăm.
Từ thuở chưa có con đường sắt rạch xuyên rừng, từ thuở chưa
có con tàu ngày ngày rập rình băng qua và chở trên mình nó những con mắt chằm
chặp nhìn vào rừng sâu, những ngọn đèn này, không hẹn mà nên, đều được đốt lên khi
chiều xuống.
Đèn sao, nhà vậy. Nhà sao, đèn vậy. Ngôi nhà lu thu, ánh đèn
cũng lu thu. Ngôi nhà lặng lẽ, ánh đèn lặng lẽ. Ban ngày, ngôi nhà lọt thỏm giữa
rừng. Ban đêm, ngọn đèn lọt thỏm giữa nhà. Không còn thấy ngôi nhà, chỉ còn thấy
ngọn đèn. Đèn đã thay nhà rồi đó.
Đèn là một hiện diện. Không chỉ là hiện diện của chính nó: Nó
không hiện diện suông. Nó nói lên sự hiện diện của ngôi nhà. Và nhất là nó nói
lên sự hiện diện của con người. Đèn đâu, người đó.
Hiềm chẳng phải bao giờ hễ có đèn là có người. Có khi đèn
chong chong chờ đợi mãi. Rốt cục vẫn trơ một đốm đèn cô quả. Đèn đã thay người
rồi đó.
Hình ảnh "đèn thắp thì mờ” hiển nhiên là hình ảnh của
nghèo nàn, vàng vọt, trong đó ánh sáng và bóng tối xen lẫn vào nhau, không ngớt
xô lấn nhau. “Đèn thắp thì mờ “ là một thực tế. Ta đã từng sống trong làng hay
trong rừng sâu. Hoặc nếu không phải là ta, thì đó là cha mẹ, anh em, họ hàng đã
từng sống trong cảnh huống ấy. Làng là như vậy, rừng là như vậy, đêm đêm sáng
lên một đốm đèn, nếu chẳng soi nổi vật dụng, ít nữa cũng đủ soi rõ mặt nhau.
“Đèn thắp thì mờ” là một thực tế lặp đi lặp lại nhiều lần và khắp nơi trong nước
đến nỗi nó có khi trở đi trở lại như muốn nhắc nhở một tình cảnh vây khốn con
người, khó lòng tránh thoát ra khỏi, đến nỗi nó trở thành nhức nhối, nó nhoi
lên trong ký ức, trong tim, nó vang lên và dội lại trong tâm thức của người anh
em dù không trải qua hoàn cảnh ấy vẫn dễ dàng cảm thông.
Người nô lệ da vàng
Ngủ yên, ngủ yên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ....
Ngọn "đèn thắp thì mờ” ấy tất nhiên ở "trong căn
nhà nhỏ" mà chủ nhân là "người nô lệ da vàng": đó là lịch sử.
thỏa hiệp. Và nếu nhìn vào đời sống vật chất của anh, người
ta dễ kết luận rằng anh là con người thích vui chơi, thích ngồi quán tiệm, chỉ
thoải mái trong cảnh ăn sung mặc sướng.
Bình tâm mà xét, trong cõi nhân sinh, không có ai không thích
ăn sung mặc sướng, chẳng qua con người khi chưa có điều kiện và phương tiện
đành sống kham khổ thôi. Sống kham khổ chỉ là một tình trạng sống cần vượt qua;
không phải là một phong cách sống và lại càng không phải là một mục tiêu trong
đời sống. Cùng lắm là phong cách sống của hạng người ẩn nhẫn, của một dân tộc
nhược tiểu không có sức vươn lên hoặc không có khả năng cải thiện đời mình. Ăn
sung mặc sướng cũng không phải là thỏa hiệp với đồng tiền hoặc vong thân theo
những thoái hóa của xã hội. Con đường đấu tranh không phải chỉ có một đường.
Cũng như phương cách đấu tranh không chỉ là cách ly xã hội. (Về tôn giáo cũng tương tự. Việc tu hành không nhất thiết phải tách lìa xã hội. Trái lại, có giáo phái bó buộc giáo đồ sống xen lẫn với người đời, đối mặt với xã hội bằng cách, chẳng hạn, mở hộp đêm, và chung đụng luôn với gái giang hồ. Đó là những thử thách một mất một còn mà con người trải qua. Tồn tại hay không tồn tại được treo lơ lửng trên lưỡi dao cạo ấy).
Cũng như phương cách đấu tranh không chỉ là cách ly xã hội. (Về tôn giáo cũng tương tự. Việc tu hành không nhất thiết phải tách lìa xã hội. Trái lại, có giáo phái bó buộc giáo đồ sống xen lẫn với người đời, đối mặt với xã hội bằng cách, chẳng hạn, mở hộp đêm, và chung đụng luôn với gái giang hồ. Đó là những thử thách một mất một còn mà con người trải qua. Tồn tại hay không tồn tại được treo lơ lửng trên lưỡi dao cạo ấy).
Có người còn đòi hỏi tranh đấu là phải quyết liệt, rạch ròi,
không nhân nhượng. Và quyết liệt ngay từ đầu. Quyết liệt như vậy là không tính
đến đường dài, là quy kết tất cả vào cái nhãn tiền.
Cứ gióng theo những quan niệm ấy, người ta buộc lòng hạn chế
giá trị ca khúc của Trịnh Công Sơn.
Trịnh Công Sơn không ngớt suy nghĩ, dằn vặt về ý nghĩa và
phương thức đấu tranh của mình.
Đấu tranh thế nào để đã phá một tổ chức xã hội và chính trị
đang đặt định một tình trạng nô dịch, thối nát, hòng mong kiến tạo một trật tự
mới dân chủ, ấm no, hạnh phúc, không còn có bất công. Với anh, không có con đường
nào dẫn đến hạnh phúc toàn vẹn cho bằng con đường hòa bình. Trịnh Công Sơn tất
nhiên không phải là người đầu tiên thấy ra điều này. Đó cũng là con đường trong
sạch hơn cả, không chôn giấu mưu đồ, vụ lợi nào cả. Con người lâm chiến có khi
không nhìn ra điều này, vì bản thân vừa bị bưng bít vừa bị trói buộc nhiều mặt.
Con người cần tuyên chiến với áp bức, thối nát, khổ đau và cần tuyên chiến với
chiến tranh luôn nữa. Đó là nhiệm vụ của nghệ sĩ. Đó là nhiệm vụ của Trịnh Công
Sơn. Cho nên anh một mặt vạch ra bộ mặt ghê rợn của chiến tranh, một mặt vớt
vát tất cả những gì chưa bị chiến tranh vùi dập và vẽ lên, nói lên, hát lên những
nhỏ bé tầm thường để cùng nhau chung sức chung lòng gìn giữ và phục hồi.
Cái ưu thế của nghệ sĩ du ca Trịnh Công Sơn chẳng khác nào
anh chàng đu dây. Bên trái là vực thẳm, bên phải là vực thẳm. Con mắt nào chằm
chặp dõi theo người đu dây là con mắt chỉ còn chờ con người ấy ngã xuống, ngã
bên nào cũng được, ngã cho tan xương nát thịt, để được dịp gọi đó là “cái chết
ngoạn mục". Người ta bảo: Trịnh Công Sơn đi giữa hai làn đạn. Miền Bắc
không tán thành lập trường, lập thuyết của anh, xem loại nhạc phản chiến của
anh là một loại "nhạc lậu”, phản tác dụng. Miền Nam phức tạp hơn: trong
khi nhân dân khai thác khía cạnh phản chiến trong nhạc của anh, bộ máy cầm quyền
lên án chính cái tính cách phản chiến ấy đang làm nhụt lòng những người cầm
súng.
Miền Nam trước ngày giải phóng, do hoàn cảnh, tạo dựng lên một
mẫu người riêng biệt: anh chàng phản chiến, kẻ trốn lính.
Kẻ trốn lính là kẻ kỳ dị: sống chui rúc, không có nơi ở,
không có chỗ ngủ, tất nhiên không có địa chỉ. Càng sống chui rúc, càng phải sắm
sanh một vẻ bề ngoài bình thường, hoặc “dễ coi", để đánh lạc con mắt dòm
ngó. Nó luôn luôn thủ trong túi đủ loại giấy tờ có giá trị trái ngược nhau và cả
những giấy tờ không hơn gì giấy loại nhưng đối với nó vẫn có giá trị "cần
âu”. Nó là kẻ ngậm hai ngôn ngừ khác nhau tùy nghi đem ra sử dụng. Nó là kẻ sẵn
sàng tham gia những cuộc hội thảo, vận động cho chính nghĩa nhưng cũng là kẻ
thường xuyên cảnh giác và thủ thế. Đó là một loại “bán công dân”, không sống
như công dân bình thường, mang tâm trạng của kẻ bị truy nã.
Kẻ trốn lính là kẻ thiên tả. Hai là một. Không đi lính ở miền
Nam trước đây là kẻ không chịu cầm súng tiến hành một cuộc chiến bế tắc và tội
lỗi. Thấy như vậy, biết như vậy, nhưng sống như thế nào đây? Kẻ trốn lính sống ở
thành thị miền Nam trước đây, nếu vẫn đi học đi dạy hay đi làm việc như mọi
công dân bình thường, thật không dễ. Tìm cả miếng ăn và chỗ ngủ hàng ngày, đi
qua các ngả đường có lính canh và nút chặn, kẻ trốn lính thường xuyên nơm nớp đề
phòng, chơi trò cút bắt bất đắc dĩ, gần như bôi mặt và giả dạng, sống nơi này
nơi kia và ngủ nơi khác.
Kẻ thiên tả thường là kẻ trí thức. Hoặc đảo lại, hầu hết trí
thức miền Nam trước đây là thiên tả. Không thiên tả toàn phần: thì thiên tả nửa
phần. Không thiên tả trong hành động thì thiên tả trong đầu óc. Thiên tả như là
một sự cứu rỗi linh hồn. Thiên tả như là một hướng - cụ thể hoặc trừu tượng -
thoát ra khỏi bế tắc hiện tại trong đời sống vật chất và tinh thần.
Trịnh Công Sơn là bạn của tất cả mọi người trong chiến tranh,
trong ngưỡng vọng hòa bình, trong hòa bình tìm lại được. Anh là người sống tràn
đầy bi kịch thống thiết của đất nước quằn quại qua các thời kỳ xóa bỏ nhau, đi
ngược chiều với nhau khiến cho cảm xúc của anh vượt lên sự phân biệt chiến tuyến
để chỉ còn nhìn thấy bộ mặt tàn khốc của chiến tranh. Người viết nên Cho một
người nằm xuống trước 1975 và người viết nên Huyền thoại mẹ sau 1975 là một Trịnh
Công Sơn. Công dân "nằm xuống" bên này hay bên kia, công dân còn sống
trong nước hay ngoài nước đều sinh ra từ “huyền thoại mẹ" ấy, đều được định
sẵn trong sách trời.
Một số ca khúc phản chiến của anh không được nhập cảnh ở miền
Nam cũng như ở miền Bắc. Chúng chỉ được "in lậu” hoặc "phổ biến
kín" mà thôi.
Sau 1975, anh có dịp đi ra nước ngoài. Ở Pháp và ở Canada,
anh được đông đảo thanh niên mừng đón, Nhưng ở các nước ấy, vẫn có những nhóm
người Việt “tẩy chay” Trịnh Công Sơn vì "công tác" với chế độ hiện tại.
Anh chưa đặt chân lên đất Hoa Kỳ, không phải là không có dịp, nhưng là vì anh
nghe nói tại đây có làn sóng người Việt phản đối con người chính trị trong anh
một cách khá mạnh có thể gây nguy hiểm cho anh.
Ở trong nước, ngay trước khi qua đời, dù được đa số thính giả
tán thưởng và ái mộ, anh biết vẫn có một số người dè dặt đến với anh, nghi ngờ
anh, muốn cật vấn anh về quan điểm chính trị, gốc gác một số bài, quá khứ của
anh, để từ đó gieo rắc thắc mắc, nghi ngờ và hạ thấp uy tín của anh.
Hội chứng Trịnh Công Sơn không chừa một ai, dù nói sao nghĩ
sao mặc lòng. Đó là điều hiển nhiên. Ngày nay, có người Việt Nam nào không có
ca khúc, băng nhạc, đĩa nhạc Trịnh Công Sơn ở trong nhà? Có máy hát nào không
phát thanh nhạc Trịnh Công Sơn?
Trịnh Công Sơn là bi kịch thu nhỏ của Việt Nam. Đó là con người
của miền Nam. Đó là con người của miền Bắc. Đó là con người của thời trước 1975
và sau 1975, là sản phẩm của chiến tranh và hòa bình trên đất nước Việt Nam, một
sản phẩm trí óc và tâm hồn được kết tinh đến độ trong suốt nhờ tôi luyện qua một
con đường hầm lịch sử dằng dặc mà khởi đầu là:
Đèn thắp thì mờ
...đầy gian nan, bóng tối, để cuối cùng ra đến phía bên kia
hiên ngang rạng rỡ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét