Ở Sénégal, với mẫu gỗ mun, người ta có thể tạo ra trăm
nghìn hình tượng nghệ thuật. Trong tranh thủy mạc, chỉ với vài nét, họa sĩ có
thể phác cả vũ trụ càn khôn. Dường như đó là những bí quyết tiết kiệm của nghệ
thuật nhà nghèo và là bửu bối của những ai đã từng chán ngấy xài sang:
Xài sang chất liệu, xài sang thời gian, xài sang chữ nghĩa... Thơ Ðường, với
những chữ tầm thường, số chữ giới hạn mà có thể tạo sinh những biến ảo vô hạn
giữa cảnh và tình.
Lê Ðạt tìm đến nghệ
thuật nghèo -art pauvre- như một phương tiện ngó lời:
Vườn nắng mắt gió bay mùa hoa cải
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay
(Phả Lại, Ngó Lời, trang 18)
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay
(Phả Lại, Ngó Lời, trang 18)
Hai câu tám chữ, tổng cộng 16
chữ. Trong 16 chữ này không có chữ nào bóng bẩy, mạ kền, không có chữ sang, chữ
diện, toàn những chữ tầm thường mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ ngõ ngách nghèo
nàn nào trong chợ chữ. Nhưng nếu thử vài động tác chuyển hoán vị trí của chúng
trong hai câu:
Vườn nắng mắt gió bay
mùa hoa cải
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay
Bóng lá răm ngày Phả Lại đắng cay
thành:
Vườn lá răm gió bay
mùa hoa cải
Bóng ngày phả lại nắng mắt đắng cay
Bóng ngày phả lại nắng mắt đắng cay
hay:
Bóng nắng mắt răm gió
ngày phả lại
Vườn lá bay mùa hoa cải đắng cay
Vườn lá bay mùa hoa cải đắng cay
Vườn mắt bay mùa hoa
ngày phả lại
Nắng bóng răm gió lá cải đắng cay
Nắng bóng răm gió lá cải đắng cay
Mắt ngày đắng cay bay
mùa hoa cải
Phả lại vườn răm bóng lá gió bay
Phả lại vườn răm bóng lá gió bay
Ðắng cay hoa cải nắng
gió Phả Lại
Vườn răm mùa lá ngày bóng mắt bay
Vườn răm mùa lá ngày bóng mắt bay
Ðắng cay lá răm nắng
ngày phả lại
Vườn mùa hoa gió bóng cải mắt bay
Vườn mùa hoa gió bóng cải mắt bay
Tính theo toán học 16 chữ này
có thể hoán vị giai thừa (factoriel) 16 thành một tổng số khổng lồ những câu
thơ khác nhau (1). Khi ấy sự biến hình của 16 chữ có thể trở thành vô tận và như
thế hai câu thơ phả lại trên đây cho ta cái cảm tưởng không
chỉ ngắm một vườn cải, vườn răm trong ngày nắng Phả Lại, mà dường
như ta đứng trước một không gian ảo: thiên nhiên mang tâm cảm và thị giác con
người đang phân thân làm nhiều mảnh, rồi tự xếp lại thành những cảnh khác,
những tình huống khác, cứ như thế, như thế... Từng mảnh cảnh và tình tự do tung
bay như tranh Chagall dưới sự hướng dẫn của một nhà ảo thuật vô hình: Tụ hợp,
ly tan không ngừng trong khoảnh khắc không gian và thời gian
lạc mất và tìm lại trong nhau.
Ðó là sự cách tân mới nhất trong phép tạo hình thơ Lê Ðạt.
Ðó là sự cách tân mới nhất trong phép tạo hình thơ Lê Ðạt.
Dưới dạng tung bay nhẹ nhàng
như đùa nghịch, chơi chữ, thơ haikâu của
Lê Ðạt mang một quá trình tìm tòi sâu xa và cá biệt, một sự bắc cầu giữa xưa và
nay, trong cấu trúc hình thức và triết lý thi ca. Lê Ðạt đã vượt qua những trở
lực của dấu trong tiếng Việt, của trật tự chữ trong câu (dấu có nhiệm vụ phối
âm và nhạc tính trong câu phụ thuộc vào trật tự chữ). Ông đã phá câu,
xé chữ để sáng tạo một lối nói mới một cách
ngó lời , trong cấu trúc cách ly tạo sinh toàn diện.
Nếu ở Bóng
Chữ, đã có những biến ảo chữ (mỗi chữ giấu những bóng mình) trong cách
trượt âm, trượt nghĩa. Nếu ở Bóng Chữ đã xuất hiện cấu
trúc sóng ngang (tức là một câu thơ có thể biến đổi tùy theo những
cách ngắt câu khác nhau). Thì ở Ngó Lời, ngoài biến tấu bóng chữ, biến tấu sóng
ngang, các sóng chéo, xiên, trên, dưới, ngang, dọc, đều có thể giao nhau.
Sự hoán vị trở nên bất kỳ khiến tính cách tạo sinh mở ra toàn diện: Với số chữ
giới hạn (16) nhưng âm, ảnh và ý có thể biến đổi gần như đến vô cùng. Cho nên,
những câu thơ như:
không chỉ có một kiếp sống, mà chúng có thể có những
kiếp sống khác, tùy theo sức tạo sinh của người đọc:
Trang thư ủ tình thu
mùa cốm biếc
Ấp thiên thanh xanh ép tiếc hơi hương
Ấp thiên thanh xanh ép tiếc hơi hương
Biếc trang tình ép thu
xanh mùa cốm
Tiếc hơi hương ủ ấp thu thiên thanh...
Tiếc hơi hương ủ ấp thu thiên thanh...
Lê Ðạt gọi thơ ông là haikâu,
có lẽ để phân biệt với hai câu hiểu theo nghĩa thông thường,
vì ẩn sau mỗi haikâu, còn có những hai câu thơ
khác chưa khám phá. Ngó Lời ẩn cả bóng chữ lẫn bóng
câu.
Trong văn học
hiện đại, người ta thường đề cao vai trò của người đọc như một đối tác văn học
trực diện với tác phẩm. Nhưng thực ra không phải tác phẩm nào cũng cho người
đọc cái quyền liên danh với tác giả. Với những câu thơ cổ điển như:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(Nguyễn Du)
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
(Nguyễn Du)
hoặc hiện đại như:
Vậy sao em lại ngủ
ngủ trong lòng mộ trong nghĩa địa thân thể anh
với áo cỏ may châm da thịt
(Thanh Tâm Tuyền)
ngủ trong lòng mộ trong nghĩa địa thân thể anh
với áo cỏ may châm da thịt
(Thanh Tâm Tuyền)
thì người đọc chỉ có thể nghiêng mình, tiếp nhận cảnh
tình, mà không thể tiếp tục tạo sinh ra những câu thơ mới, như với:
Thê Húc dáng cong bước
chiều ký ức
Trang mây bay Bút Tháp mực xanh ngày
(Hồ chiều, trang 96)
Trang mây bay Bút Tháp mực xanh ngày
(Hồ chiều, trang 96)
Ký ức chiều ngày bước
cong Thê Húc
Mực xanh bay bóng Tháp Bút trang mây
Mực xanh bay bóng Tháp Bút trang mây
Thê Húc mây bay bước
chiều ký ức
Bút Tháp cong trang dáng mực xanh ngày......
Bút Tháp cong trang dáng mực xanh ngày......
Thơ haikâu của
Lê Ðạt không phát sinh từ haiku của Nhật Bản mà gần gụi với
tinh thần phá câu của Mallarmé và tính chất độc lập chữ trong thơ chữ Hán.
Trước khi là một dấu hiệu chỉ định sự vật, chữ Hán đã mô tả sự vật bằng đường
nét: Mỗi chữ là một đồ hình. Bản thân chữ Hán là những bức hoạt họa phối âm, có
khả năng tự túc, độc lập với những chữ khác. Ví dụ câu thơ Thiên địa
phong trần của Ðặng Trần Côn, tức Trời - đất - gió - bụi là
4 chữ độc lập. Ðây không phải là một câu thơ (hiểu theo nghĩa
cổ điển: Câu có chủ từ, động từ, tĩnh từ) mà là nhiều câu thơ vì
ta có thể đảo lộn trật tự 4 chữ : Ðất gió bụi trời, trời
bụi gió đất... không hề gì. Nhưng khi Phan Huy Ích chuyển sang
tiếng Việt thành Thuở trời đất nổi cơn gió bụi thì chỉ
còn có một câu thơ hay và chỉ một mà thôi: câu thơ Việt không thể đảo lộn trật
tự như câu thơ chữ Hán (không riêng gì Phan Huy Ích, mà hầu như bất cứ ai dịch
thơ Ðường, dù là dịch hay, cũng làm mất tính cách độc
lập chữ trong câu thơ chữ Hán).
Lê Ðạt dường như
có ý muốn phá vỡ trật tự này. Ông phá câu tiếng Việt, ông cởi
trói thơ ông khỏi hình thức câu, để đi đến câu bất
định: Một cấu trúc cách ly toàn diện.
Ðương nắng đường rùng
lạnh cũng có thể là: Ðường nắng đương rùng lạnh hay Rùng lạnh đường đương
nắng,vv... Với thủ pháp này, nhà thơ độc lập và dân chủ hóa mỗi
chữ; nói khác đi ông tháo chữ ra khỏi phép đặt câu theo văn phạm cổ điển
(mỗi chữ có một chức vụ cố định trong câu). Ông đưa chữ ra khỏi lãnh vực quan
liêu để đạt tới sự bình đẳng bình quyền: Mỗi chữ đều đắt giá như nhau, đều tự
do đi lại trong kâu. Có thể đó là một hình thức thực hiện dân chủ
và nhân quyền trong trận đồ chữ nghĩa của Lê Ðạt. Chữ trở thành một sinh thể tự
do hành động và di động. Ở mỗi vị trí khác nhau, chúng tạo nên những môi trường
khác, những tình huống khác. Chữ là hóa thân của con người. Mỹ học
bỗng mang đậm một tính đạo đức học sâu nặng.
Có thể xem thơ Lê
Ðạt như những bức họa mang đường nét "thiên di", chuyển từ hữu hình
sang vô thể, từ vô thể trở lại hữu hình. Chuyển từ phong cảnh sang tình cảnh,
từ vật chất sang con người trong luân hồi giữa mơ và thực, phối hợp không
gian, thời gian và khoảnh khắc:
Tháp Gô tích núm đồi trưa thở nắng
Chuông ngân chim thân trắng bướm cựa mình
Lửa gạo thắp hoa đèn soi cỏ lạ
Mây Sơn Tinh nước cả ngã ba tình
(Trung du, trang 25)
Chuông ngân chim thân trắng bướm cựa mình
Lửa gạo thắp hoa đèn soi cỏ lạ
Mây Sơn Tinh nước cả ngã ba tình
(Trung du, trang 25)
Ðây là phong cảnh trung du
trải dài trong không gian và thời gian? Ðây là trận bão tình Sơn Tinh - Thủy
Tinh trong một thời cổ tích? Hay đây là khoảnh khắc khỏa thân hiện hình của
người kiều nữ trong những truyền thuyết muôn đời? Tính chất di động từ thực tại
hữu hình chuyển sang ảo ảnh, từ tâm cảnh sang tâm linh, sang những chuyển biến
vô hình, siêu hình, phải chăng là cuộc hành trình trong vô thức, giữa mơ và
thực, giữa thức và tỉnh, mà có lần Lê Ðạt gọi là hội chứng từ thức:
Khuya mõ đoạn tình,
kinh thoát tục
Thơ trang ngân tâm từ thức lụy trần
Thơ trang ngân tâm từ thức lụy trần
Ai gõ mõ, ai đoạn tình, ai
đọc kinh, ai thoát tục? Ai làm thơ, ai từ thức, ai lụy trần? Ai thanh, ai tục?
Ai tỉnh, ai mơ?...
Chênh vênh giữa
nhiều biên địa, Ngó Lời là sự hiện diện và gặp gỡ của những
vắng mặt: Cổ thi, Ðường thi, ca dao, Nguyễn Du, Mallarmé, Desnos, quá khứ, kỷ
niệm, ước hẹn, bội thề... trong một ngôn ngữ tình đã được giải phóng:
Tàu đắm hẹn bội thề lênh láng biển
Trắng tinh bờ mộng thải nhiễm ô mơ
(Ô nhiễm, trang 139)
Trắng tinh bờ mộng thải nhiễm ô mơ
(Ô nhiễm, trang 139)
Từ một ngoại cảnh thời sự:
tàu đắm, ô nhiễm biển của thời nay, Haikâu như vết dầu loang
dần trên mặt sóng, chuyển sang tâm cảnh của những hẹn biển thề non, của những
giấc mơ ô nhiễm, của những tinh mộng láng lênh, của những bội
ước bội thề...
Hay từ một huyền thoại thời danh:
Hay từ một huyền thoại thời danh:
Tóc phong lan cổ bạch
đàn tích sóng
Mắt thoại huyền sông chén ngấn hò khoan
(Thoại huyền, trang 37)
Mắt thoại huyền sông chén ngấn hò khoan
(Thoại huyền, trang 37)
Người đẹp trong tranh ngập
ngừng bước ra, bỗng vỡ tan như mảnh gương bội ước; như những con chữ bội tình
vừa hội tụ nên hình hài nàng trong giây lát đã vội chia tay để đi tìm những
thoại huyền chưa biết, những tích cổ chưa hay của những lan phong tóc,
những thoại bạch đàn, những sông sóng mắt, những mắt
hò khoan, những cổ ngấn đàn...
Từ hận vạn cổ, trăng Khuất Nguyên xưa, thoát thai:
Từ hận vạn cổ, trăng Khuất Nguyên xưa, thoát thai:
Bóng cá dạ trăng buồn
quẫy nước
Dằng dặc tình tăm chữ giải oan
(Khuất Nguyên, trang 80)
Dằng dặc tình tăm chữ giải oan
(Khuất Nguyên, trang 80)
Hay câu thơ Ðỗ Phủ, biến
thành:
Ðôi bóng câu huyền
cong biếc liễu
Một hàng cười trắng thẳng thanh thiên
(Xuân Ðỗ Phủ, trang 83)
Một hàng cười trắng thẳng thanh thiên
(Xuân Ðỗ Phủ, trang 83)
Nhà thơ hẳn đã nắm bắt được cái "khoảnh
khắc" bây giờ và ở đây, cho nên ông tạo điều kiện gặp
gỡ giữa xưa và nay, để những bóng cá, dạ trăng oan khuất năm
xưa, có dịp giải oan cho những hận tình chưa ngó, để những hàng cười
trắng bây giờ có thể thăng thiên lên bầu trời xanh xưa sau.
Tính cách trữ
tình và lãng mạn không lộ mà như đã nhỏ thành mật tố, ngấm vào chữ rồi
sao lên, khiến các con chữ ráo hoảnh, chúng như chưa hề đẫm lệ bao giờ. Có vẻ
hờ hững, thản nhiên, vô tình, nhưng thực ra chúng đã nhiễm tình từ tâm, lụy
tình từ kiếp trước, đã đam mê hơn một lần đời và đã vượt khỏi nhục cảm đời
thường để đi vào xác thân ái ân đời chữ, khiến mỗi kết hợp hôm nay đều phát ra
một tình trường, một từ trường, tĩnh lặng mà vô cùng đau thương và dậy sóng:
Người đẹp lẩn khe hai hàng chữ tối
Thủ thư mù lần lẻ một lối mê.
(Borges, trang 84)
Thủ thư mù lần lẻ một lối mê.
(Borges, trang 84)
Hành động thơ trong Ngó Lời
chủ yếu là một hành trình vào tình vừa cách ly, vừa hội tụ. Người thơ nhờ cậy
vô thức phát lộ những khoảnh khắc khác nhau của một đời tình,
của nhiều đời tình, của một nền văn hóa, của nhiều nền văn hóa, những ngọn lửa
đam mê,... và cắt ra những hình tượng, những mảnh puzzle ghép lại thành thơ
trong một công nghệ sinh học chữ đặc biệt. Nhưng mỗi yếu tố vẫn còn mang trong
mình những vết thương quá khứ, chưa hết lụy tình mà đã hồi sinh, chúng đem vào
đời mới những niềm đau cũ:
Tim lặng lạnh gốc bồ
đề mưa cũ
Chim gõ mõ kiếp xưa chưa hết rũ lụy tình
(Chim gõ mõ, trang 48)
Chim gõ mõ kiếp xưa chưa hết rũ lụy tình
(Chim gõ mõ, trang 48)
Chúng ta sinh ra
trong cô đơn, gián đoạn và chết đi trong gián đoạn, cô đơn. Mỗi cố gắng
"giao lưu" với kẻ khác dường như chỉ là ảo tưởng. Ở chóp đỉnh của
hạnh phúc, hai cá thể cũng không biết những gì đang xảy ra trong nhau, bởi đau
không thể chia, sướng không thể sẻ, bởi không có cầu "thông thương"
trực tiếp và liên tục giữa con người.
Những bắt gặp cảm thông, nếu có, chỉ là những tíc tắc tức thời, những lóe chớp ngộ tình, như những tia lửa sáng tạo sinh rồi tắt. Bachelard có lần đề nghị: Nếu chúng ta thử nhìn lại tư tưởng của mình, sẽ thấy chúng không ngừng bị xóa theo mỗi khoảnh khắc trôi đi.
Những bắt gặp cảm thông, nếu có, chỉ là những tíc tắc tức thời, những lóe chớp ngộ tình, như những tia lửa sáng tạo sinh rồi tắt. Bachelard có lần đề nghị: Nếu chúng ta thử nhìn lại tư tưởng của mình, sẽ thấy chúng không ngừng bị xóa theo mỗi khoảnh khắc trôi đi.
Mỗi khoảnh khắc
ra đi mang theo những mẩu sinh mệnh tư tưởng chưa kịp thành hình mà đã tàn lụi.
Nhưng thời gian cũng chỉ là một chuỗi dài những khoảnh khắc chết yểu. Thời gian
vừa là nghĩa trang, vừa là cái nôi của những tích tắc tức thời. Thời gian mang
tính chất đứt đoạn của cuộc đời, và mỗi khoảnh khắc là một cô đơn, chia biệt,
giam cõi âm trong lòng, bởi còn đang sống nó đã chết. Khoảnh khắc tựa như định
mệnh của con người: Sống để tiến về cái chết, và nó cũng gắn liền với trực giác
sáng tạo, cũng lóe lên rồi cũng tắt lụi, nếu con người không kịp thời ghi lại
bằng chữ. Chữ chính là thịt xương của những sinh mệnh tư tưởng
lóe lên trong khoảnh khắc.
Chữ chính là
chứng từ của những mẩu tư tưởng đã qua đời :"Heo may từ xao xác nghĩa trang
già" (trang 80). Chữ cũng mang định mệnh gián đoạn và cô đơn của khoảnh
khắc, của đời người, nhưng chữ sống sót, chữ không bị thời gian xóa đi như xác
thân hay khoảnh khắc
Trăng liêu trai hoa cửa trang không ngủ
Tự vị ma về chữ dụ mộng du
(Chữ khuya, trang 85)
Tự vị ma về chữ dụ mộng du
(Chữ khuya, trang 85)
Chữ là thuật cho phép người
sống sống với người chết, cho chúng ta hôm nay sống với Nguyễn Du, Lý Bạch, Tản
Ðà hôm qua, trong những khoảnh khắc đang trôi, kéo theo những chia ly cách
biệt.
Lê Ðạt gắn bó sâu xa với ý niệm thời gian, khoảnh khắc, với tình yêu, sự sống và sự chết, hẳn không khỏi nghiệm suy về những mất mát trong phút giây đang sống.
Hành động cách ly và tạo sinh con chữ, đem nó ra khỏi từ trường liên tục của những câu thơ có văn phạm, phải chăng, ở đây không chỉ là sự cách tân hình thức ngôn ngữ thơ, mà còn là sự thực hiện tự do và cũng là một cách tìm mình, tìm đến tận nguồn của những cô đơn gián đoạn trong sự sống; tìm cách hồi sinh những phút giây sáng tạo hiếm hoi trong đời để kết thành một xâu chữ -tình- thoát khỏi sự hủy diệt của thời gian? Nhà thơ vĩnh viễn là một kẻlang thanh trang lần quê chữ tìm mình (trang 122). Họa hằn cũng có lần nhà thơ du cư kia may kỳ ngộ một khoảnh khắc vĩnh cửu.
Lê Ðạt gắn bó sâu xa với ý niệm thời gian, khoảnh khắc, với tình yêu, sự sống và sự chết, hẳn không khỏi nghiệm suy về những mất mát trong phút giây đang sống.
Hành động cách ly và tạo sinh con chữ, đem nó ra khỏi từ trường liên tục của những câu thơ có văn phạm, phải chăng, ở đây không chỉ là sự cách tân hình thức ngôn ngữ thơ, mà còn là sự thực hiện tự do và cũng là một cách tìm mình, tìm đến tận nguồn của những cô đơn gián đoạn trong sự sống; tìm cách hồi sinh những phút giây sáng tạo hiếm hoi trong đời để kết thành một xâu chữ -tình- thoát khỏi sự hủy diệt của thời gian? Nhà thơ vĩnh viễn là một kẻlang thanh trang lần quê chữ tìm mình (trang 122). Họa hằn cũng có lần nhà thơ du cư kia may kỳ ngộ một khoảnh khắc vĩnh cửu.
Nặng nợ với chữ,
với tình, vỡi chữ tình và tình chữ, thơ Lê Ðạt gánh những kiếp tình, nổi, chìm,
lỡ, mòn, thề, bồi, lầm, lỗi... trong mỗi hóa thân chữ.
Ðất lở đá mòn một hai chìm nổi
Thề bồi lời cát lỗi phải lầm sông
(Thề bồi, trang 125)
Thề bồi lời cát lỗi phải lầm sông
(Thề bồi, trang 125)
Lửa Ngó Lời thầm
thì trong bóng câu bóng chữ, rủ người đọc mộng du trong cõi có có
không không, kết hợp không gian thời gian trong những sát na hò hẹn, chia ly,
bùng lên rồi tắt lịm, khâm liệm một vũ trụ nhớ thương, đắm say, cô đơn, gián
đoạn, phân kỳ, mà hồn chữ thể hiện và hồi sinh những chứng tích của sự sống
tưởng đã chết trong con người.
Thơ Lê Ðạt tỉnh táo mà đam mê, xót xa và hy vọng; dường như bình thản, vô tâm, nhưng đến được chỗ vô tâm có đâu là dễ? Chẳng đã trải bao hành hương trắng mộng?
Thơ Lê Ðạt tỉnh táo mà đam mê, xót xa và hy vọng; dường như bình thản, vô tâm, nhưng đến được chỗ vô tâm có đâu là dễ? Chẳng đã trải bao hành hương trắng mộng?
Ai đốt rừng cho gỗ
tiêu tâm (trang 60)
Cảm ơn chữ đã
không phụ nhà thơ và nhà thơ đa mang đã trả lại cho tim ta những kỷ niệm vùi
nông chân lộ úa tình (trang 164) trong một thoáng ngộ yêu:
Một huệ tình ơn chữ
ngộ thừa yêu (trang 176)
Chú thích
1 hoán vị giai thừa 16! = 1x2x3x ... x16
= 20.922.789.000, gần 21 tỷ.
Thụy Khuê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét