Trong một buổi tọa đàm về bộ truyện Mùa biển động của Nguyễn
Mộng Giác, nhà văn Nhật Tiến đã phát biểu ngoài đề: “Nói về tác phẩm văn nghệ
mà ảnh hưởng rõ nét nhất, tôi nghĩ có lẽ mình chỉ có nhạc Trịnh Công Sơn, nó
gây cái tâm lý phản chiến".
Dùng chữ nhạc phản chiến, theo kiểu anti-guerre, antiwar, là
nói cho gọn, và đã có người phản bác, cho rằng mông lung, vì người nghệ sĩ chân
chính nào mà không chống chiến tranh? Ngoài ra, những ca khúc Trịnh Công Sơn tố
cáo chiến tranh, gào gọi hòa bình còn bày tỏ khát vọng thống nhất đất nước,
tình tự dân tộc, tình yêu nhân loại, niềm tin vào cuộc đời, tình người và hạnh
phúc lứa đôi. Những tình cảm này đan quyện vào nhau. Hơn nữa một số nhạc tính
thuần túy, nội dung không quan hệ gì đến chiến tranh, khi nghe trong đám đông,
cũng tạo nên một cảm giác thời thế, từ một thời phản chiến.
Vì vậy, gọi là nhạc “phản chiến" là nói tắt, trong điều
kiện bất túc của ngôn ngữ. Gọi cách khác, là ca khúc tranh đấu cho hòa bình,
tuy dài dòng mà vẫn không đủ ý....
Nói chung, những ca khúc “phản chiến" của Trịnh Công Sơn
gia tăng số lượng và cường độ dài theo cuộc chiến, đồng thời cũng chuyển mình
theo từng giai đoạn ngắn của thời cuộc thập niên 1963 - 1973. Nhưng là tiếng
nói tự phát, phản ứng tự nhiên của một cá nhân, một công dân không thuộc đảng
phái hay tổ chức chính trị nào. Đây là điều kỳ lạ trong hoàn cảnh chính trị thời
đó và chính nó đã tạo ra hào quang của Trịnh Công Sơn: người ta hát, và yêu Trịnh
Công Sơn, tạo ra hiện tượng Trịnh Công Sơn, một là vì ca khúc của anh đáp ứng lại
những khát vọng của thời đại, hai là người nghe, trực cảm rằng những lời ca ấy
không mang một ý đồ chính trị nào. “Trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh
Công Sơn đã chẳng có toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của
con tim mình (. . .). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm
xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ
chính trị nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói" (Bửu
Chỉ) .
Có lẽ những suy nghĩ về dân tộc, đất nước, số phận con người
trong chiến tranh đã manh nha từ lâu ở Trịnh Công Sơn, và được khơi động từ những
biến cố tại Huế và miền Trung năm 1963, mà bạn bè anh đã tham gia tích cực và sôi
nổi. Bản thân Trịnh Công Sơn không dự cuộc trực tiếp, nhưng khó có thể nói là
không dao động. Sau những bản nhạc tình đã nổi tiếng, thì 1964, Trịnh Công Sơn
đưa vào Lời mẹ ru một vài âm hưởng xót xa, báo hiệu cho những ru khúc đau
thương về sau:
Lời mẹ ru con nghe ra nỗi niềm
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu còn đau, còn đau
Ru con khôn lớn... Con Rồng cháu Tiên
Lối hát ru Việt Nam, như ru con Nam Bộ, thỉnh thoảng cũng có
câu thắt thẻo ruột gan, nhưng ít khi diễn tả buồn đau trong thân phận làm người
như ở Trịnh Công Sơn, càng về sau càng da diết.
Vết lăn trầm, 1965, là một ca khúc đậm đặc phong cách Trịnh
Công Sơn, đau thương và huyền bí:
Vết lăn và lăn trầm
Hằn lên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Người chợt nhớ mình như đá
Đá lăn vết lăn trầm
Từ cơn đau ấy lưu thân mỏi mòn
Ôi mắt thấm van xin lời thánh đêm
Bài ca dao trên cồn đá
Trên ngai vàng quê nhà...
Ca từ rệu rã, u hoài, xa vắng, nhưng cô đọng cả tâm giới Trịnh
Công Sơn, lúc ấy và về sau. Về sau, sẽ có hằng vạn chuyến xe claymore lựu đạn,
hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng, cũng chỉ là âm vang lăn trầm vết đá.
Hoàng Phủ Ngọc Tường, bạn thân Trịnh Công Sơn đã tinh ý nhận xét:
“Vết lăn trầm bắt đầu tiếp cận nỗi bất hạnh của một tuổi trẻ
bị cuốn hút vào cơn lốc của chinh chiến, và đây là bài hát mở đầu nội dung phản
chiến của nhạc Trịnh Công Sơn" .
Chọn 1965 làm thời điểm cho nhạc thời thế Trịnh Công Sơn, còn
có những lý do khác: đó là cao điểm của chiến tranh Việt Nam, thời của những
Người chết trận Đồng Xoài, Pleime... thời người Mỹ đổ bộ lên Miền Nam, bắt đầu
ném bom miền Bắc. Cũng là cao trào tranh đấu miền Trung trước khi bị dập tắt
vào năm 1966.
Thời đó, ca khúc Trịnh Công Sơn, nhạc tình và nhạc tranh đấu,
được in ronéo, chuyền tay. Năm 1966, nhà xuất bản An Tiêm xuất bản tập Ca khúc
Trịnh Công Sơn, Thần thoại quê hương, Tình yêu và Thân phận, 12 bài, ngoài Tuổi
đá buồn làm từ 1961, những bài khác làm vào 1965 - 1966, đều mang nội dung:
thân phận trong chiến tranh.
Cuối năm 1966 và sang 1967, Trịnh Công Sơn đã sáng tác một loạt
ca khúc chống chiến tranh nổi tiếng: Người con gái Việt Nam da vàng, Đại bác ru
đêm, Tình ca của người mất trí, . . . Tác giả tự ấn hành lấy, do đó không ghi
năm xuất bản, thành tập Ca khúc da vàng. Về sau, sau Mậu Thân, 1968, anh thêm 2
bài: Hát trên những xác người và Bài ca dành cho những xác người, ghi là Ca
khúc da vàng 2, dự tính in trong tập Kinh Việt Nam, tự xuất bản 1968. Những bản
in về sau, không thấy 2 bài này. Vậy ta có thể xem Ca khúc da vàng gồm 12 hay
14 bài, tùy phương pháp.
Tập Kinh Việt Nam mở đầu bằng lời tựa, tác giả bày tỏ khát vọng
hòa bình, viết 1968, có lẽ sau Mậu Thân và tin tức về hòa hội Paris; tập nhạc gồm
12 bài, bắt đầu bằng Dân ta phải sống và khép lại với Nối vòng tay lớn.
Trong một tiểu luận Cao học đệ trình tại Đại học Paris 7,
1991, Michico Yoshi, cũng là bạn, được Trịnh Công Sơn giúp đỡ và hướng dẫn, đếm
được 69 bài phản chiến. Trên tổng số 136 bài làm từ 1959 - 1972 mà cô ấy sưu tầm
được, tỷ lệ là 51%. Nếu chỉ tính từ 1965 đến 1972, tỷ lệ còn cao hơn nữa. Nghĩa
là trong một thời gian dài thời gian sáng tác khỏe nhất, rung cảm chính của Trịnh
Công Sơn là thời thế. Và ngược lại, chính những ca khúc kêu gọi hòa bình đã làm
nên danh tiếng Trịnh Công Sơn, đã tạo nên huyền thoại Trịnh Công Sơn, trong một
thời điểm nhất định của miền Nam Việt Nam vào những năm 1966 - 1972.
Tính phản chiến của nhạc anh, chính là tính phản chiến của cả
một miền đất. Nếu chỉ làm nhạc tình, thì Trịnh Công Sơn sẽ là Lê Uyên Phương
hay Từ Công Phụng; nếu chỉ làm nhạc đấu tranh, Trịnh Công Sơn sẽ là Nguyễn Đức
Quang hay Tôn Thất Lập; nếu pha phai tình yêu và thân phận,
Trịnh Công Sơn sẽ là Vũ Thành An. Nếu chỉ phản chiến, e chỉ
hơn Nguyễn Văn Đông.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã tổng hợp một thời đại và xây dựng được
một sự nghiệp riêng, gắn bó với vận mệnh đất nước.
Rào nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn vào một ấp chiến lược, là
không sát với thực tế xã hội. Trong thời gian 1967 - 1972, Sơn sáng tác khoảng
70 bài hát kêu gọi hòa bình, và khoảng một nửa được phổ biến rộng rãi. Nhưng những
ca khúc thuần túy thế sự đó đã được kết hợp với hàng trăm tình khúc khác, cùng
phong cách, trong một hoàn cảnh xã hội và chính trị đặc biệt, đến với quần
chúng thanh niên cùng tâm trạng....
Nghệ thuật Trịnh Công Sơn xét trong toàn bộ, nội dung, hình
thức chủ đề, thể loại, hội với những điều kiện khách quan chính trị, xã hội,
kinh tế, đã tạo danh tiếng Trịnh Công Sơn trong một thời gian kỉ lục, như Phạm
Duy đã nhắc: “Tình khúc Trịnh Công Sơn ra đời, từ giàn phóng là Quán Văn được
hỏa tiễn Khánh Ly đưa vút vào trong phòng trà, rồi vào băng casette và chỉ
trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe. So sánh với
những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc Trịnh Công Sơn rất mới".
Sở dĩ đi nhanh như thế vì nhạc tình yêu đã kết hợp với nhạc đấu
tranh, được hát trực tiếp, hát cộng đồng. Tác giả hòa nhập vào quần chúng rồi
trở thành một hiện tượng phút chốc thành thần tượng.
Hiện tượng Trịnh Công Sơn cũng đã thành hình qua vài yếu tố
phụ: dáng người mảnh khảnh, nho nhã, bạch diện thư sinh làm người ta yêu mà
không làm người ta sợ. Anh chăm sóc kỹ lưỡng cách ăn mặc, “sang” một cách kín
đáo “thang" khi trình diễn. Nói năng nhỏ nhẹ, giọng Huế trung dung, thường
thường là phát âm đúng. Lối sống đơn giản cà kê bạn bè, khề khà quán xá. Thịnh
đời 1967, đêm đi hát, khuya về, kê ghế bố ngủ với bạn bè ở Hội họa sĩ trẻ, sáng
dậy ra quán đợi bạn đãi tách cà phê, mời điếu thuốc lá.
Thêm vào hình ảnh Khánh Ly, “Ôi tóc em dài đêm thần thoại...”,
khi hát đi chân đất - nữ hoàng chân đất, la comtesse aux pieds nus - của một thời
- giọng hát rũ rượi da diết, diễn tả nỗi trầm thống vô vọng: “tin buồn từ ngày
mẹ cho mang nặng kiếp người”.
Ca khúc Trịnh Công Sơn gây được tiếng vang là nhờ giọng hát
Khánh Ly: "Một giọng hát có thể xuống rất thấp rất trầm, mà cũng có thể
lên rất cao, một giọng hát khoẻ, dài hơi, giàu nhạc tính. Khánh Ly bao giờ cũng
hát đúng giọng, đúng nhịp, ngân, láy đúng lúc, cách phát âm tiếng Việt chuẩn
xác - càng về sau càng già dặn thêm - một giọng hát ngay từ thời ấy, tuy vẫn
còn nguyên cái chất tươi mát hồn nhiên của tuổi đôi mươi, nhưng dường như đã
mang nặng sầu đau; một giọng hát vừa có thể lẳng lơ một cách đáng yêu, trong
các bản tình ca lãng mạn, lại vừa có thể phẫn nộ, bi ai, trong các bài ca phản
chiến".
Cuối cùng, Trịnh Công Sơn và Khánh Ly thường đi hát cộng đồng,
nghĩa là hát không công, không lấy thù lao, chủ yếu là cho thính giả trẻ, tại
các giảng đường, giáo đường. Họ tạo, hay tái tạo, một hình ảnh lý tưởng cho nghệ
thuật, nhất là nghệ thuật ca hát - mang theo lý tưởng nhân đạo, tình yêu và
chính trị.
Trịnh Công Sơn sống giữa những tranh chấp chính trị mà không
dính líu đến chính quyền hay đảng phái, giáo phái, phe phái. Mặc dầu anh thích
bạn bè, ưa đàn đúm.
Quần chúng biết. ngay điều đó. Chúng ta ngày nay mất công
nghiên cứu văn bản, khổ tâm truy tầm tư liệu để tìm hiểu, chứ quần chúng thì họ
rất nhạy bén, và nhận ra đâu là tiếng nói vô tư, ngay thật, đâu là tiếng nói có
dụng ý, mưu đồ.
Đây là lý do chính giải thích sự thành công nhanh chóng của
Trịnh Công Sơn một sớm một chiều đã thành hiện tượng.
Ví dụ bài Tình ca của người mất trí, 1967, đã được tiếp nhận
và truyền bá tức khắc:
Tôi có người yêu chết trận Pleime
...chết ngoài Hà Nội
...chết không hận thù
Quần chúng hiểu ra ngay biểu tượng “mất trí”, một bài hát
không có lập trường theo bên này, hay được chỉ đạo từ phía bên kia. Lời ca dội
vang chiến sự, nhưng không có mưu đồ, quả là lời người mất trí. Mất trí là mất
tất cả, không còn gì, ngoài cái trí của mình, của riêng mình. Cái trí xa lìa thực
tại, bị sa thải ra ngoài thực tại. Trí tuệ ấy chỉ yêu Một Người, nhưng người
yêu duy nhất đã chết trên khắp chiến trường, chết mọi kiểu, mọi cách, thậm chí
nằm chết như mơ. Chết như mơ? Người ta thường nói: đẹp như mơ, chứ ai nói chết
như mơ.
Tinh nghịch đổi vài chữ, câu hát vẫn hợp lý, vẫn hay, dù ý
nghĩ bị lật ngược:
Tôi có người yêu gặp tại Ba Gia
Tôi có người yêu vừa mới đêm qua
Yêu thật tình cờ, yêu chẳng hẹn hò
Yêu chẳng thề nguyền hạnh phúc như mơ
Lật ngược hay xếp xuôi, tỉnh trí hay mất trí, tình ca hay chiến
ca, ai biết đâu là đâu.
Cũng như bài sau này: Hát trên những xác người, làm sau Mậu
Thân 1968:
Mẹ vỗ tay reo mừng chiến tranh
Chị vỗ tay hoan hô hòa bình
Người vỗ tay cho thêm thù hận
Người vỗ tay xa dần ăn năn ...
Nói về những oan khốc chiến tranh, Trịnh Công Sơn đã có lời
nhập đề tưng tửng:
Đại bác đêm đêm dội về thành phố
Người phu quét đường dừng chổi đứng nghe
Nghe như là nghe nhạc, nghe quen như câu dạo buồn.
Nhạc không lời, một loại romance sans parole. Thậm chí đại
bác như kinh không mang lời nguyện.
Đại bác như kinh?
Bài hát kết thúc bằng cụm từ có mẹ có em. Cũng như những
thành ngữ: có mẹ có cha, có anh có em, có vợ chồng, có mẹ có em, diễn tả cảnh
sum họp, ấm cúng, nhưng ở đây là một đống xương thịt bầy nhầy:
Hàng vạn chuyến xe claymore lựu đạn
Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành
Từng vùng thịt xương có mẹ có em
Sơn có những lời tưng tửng tàn độc như thế, hay đèn thắp thì
mờ, ám ảnh cả một đời bạn mình là Bửu Ý. Nguyên tác trong bài Đi tìm quê hương
(1967):
Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ...
Dĩ nhiên, trong văn cảnh, câu hát có nghĩa: đèn không đủ
sáng. Nhưng lìa văn cảnh, lời ca dội vào tim: đèn thắp thì sáng, chứ sao đèn thắp
thì mờ?
Nhẫn nhục trong những cơ cực trầm kha truyền kiếp, người phụ
nữ Huế có câu hát não nùng:
Khổ thì em chịu, biết mần răng đặng chừ?
Nhưng cũng không đoạn trường bằng đèn thắp thì mờ. Bây giờ
Sơn đã đi xa, nhớ câu hát xưa mà thương những người bạn cũ, những người còn ở lại,
trong cuộc đời mà Tản Đà đã định nghĩa: đời là cõi bắt con người phải sống....
Năm 1968 là khúc quanh trong thời sự Việt Nam, đồng thời là
bước ngoặt trong nhạc Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn chuyển hướng, làm những ca
khúc có nội dung chính trị rõ rệt, trực tiếp kêu gọi hòa bình, với tập Kinh Việt
Nam (1968) và Ta phải thấy mặt trời (1969).
Thời điểm này, họa sĩ Trịnh Cung, bạn anh, đã vẽ bức tranh nổi
tiếng: Đứa trẻ du ca, tay ôm đàn cầm, có con chim đậu trên mái tóc, ý muốn nói
hòa bình đang về trong thôn xóm. Hòa bình là khát vọng chung của thanh niên và
người dân thời đó, mà ca khúc Trịnh Công Sơn đã vang vọng qua những tiêu đề:
Ngày mai đây bình yên, Cánh đồng hòa bình, Đồng dao hòa bình. Và đặc biệt là Nối
vòng tay lớn.
Trong Kinh Việt Nam, từ 1968, anh tích cực kêu gọi: Dân ta phải
sống, dựng lại người, dựng lại nhà, hãy đi cùng nhau và cụ thể hơn nữa Nối vòng
tay lớn. Hay ít nhất cũng là Chờ nhìn quê hương sáng chói và tra vấn Ta thấy gì
đêm nay? Sao mắt Mẹ chưa vui? Đấy là tên những bài hát, những Hành Ca trong
tham vọng trở thành một hành khúc Việt Nam:
Đoàn người đi miên man
Tìm ánh sáng cho Việt Nam
Tìm quê hương xưa
Giống Tiên Rồng, giống da vàng. . .
Nói cho liền, nối hai miền. . .
“Kinh Việt Nam là những tiếng kêu thương thống thiết khởi sự
từ một thực trạng máu xương. . .
Những bài ca được viết từ những hân hoan lắng nghe được trong
những lòng người. Đó là nỗi hân hoan của đám đông chờ mong ngày hồi sinh...
Đã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay (...)
Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định
hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta
tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn
tiềm lực sáng tạo (...)
Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ được
khai sinh ở phương đông (...)
Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ (...)
Một ước mơ vĩ đại, làm bằng những đau thương nối dài vào
hoang tưởng một ngày mà lòng mình vui sướng hơn muôn nghìn năm".
Bây giờ, nhớ lại mà thương cho một thế hệ thanh niên đã dở sống
dở chết trong hoang tưởng:
Hai mươi năm hận thù đã qua
Hôm nay thấy mặt người đổi mới
Ta yêu nắng hòa bình vừa đến...
Hai mươi năm chờ đợi từng phút giây
Hôm nay tiếng hòa bình đã thấy
Trên môi người trên môi ta, trên môi em
Trên môi những người Việt nghèo khốn
Hai mươi năm chờ đợi đã lâu... (Đồng dao hòa bình)
Hai mươi năm là tính từ 1948, hay từ trước đó nữa, nghĩa là
không kể Điện Biên Phủ, không kể đến hiệp định Genève, dù sao cũng tạo được cảm
giác hòa bình trong đôi ba năm. Nhưng nền hòa bình tạm bợ ấy đã phải mua bằng
cái giá chia đôi Nam Bắc, mầm mống cho một cuộc chiến tranh khác, lâu dài hơn,
thảm khốc hơn, gây nhiều thù hận hơn. Khi Sơn viết hai mươi năm nội chiến từng
ngày, thì hằng triệu người đã hát, từ năm này qua năm khác, dù có lúc bị cấm.
Hai chữ nội chiến nếu không có lý, cũng có cơ sở tình cảm của nó. Và đáp ứng lại
với tâm lý quần chúng không bị chính trị hóa, không bị giáo dục chính trị, những
người dân đau lòng vì cảnh nồi da xáo thịt, mà không truy tầm đến căn nguyên phức
tạp.
Có lúc anh bộc trực, chính xác hơn:
Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam ?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu? (Tuổi trẻ Việt Nam - 1969)
Không dễ dàng gì trả lời câu hỏi vì đâu, nếu không đơn giản lặp
lại luận điệu bên này hay bên kia. Không có cuộc chiến tranh nào mà có lý do
đơn giản, chỉ có những đầu óc đơn giản. Thời Nam Bắc Triều, Trịnh Nguyễn phân
tranh, Nam Hà Bắc Hà, cuộc chiến chưa chắc đã bắt nguồn từ những lý do đơn giản.
Giữa lòng thế kỷ XX, hoàn cảnh càng phức tạp. Chiến tranh Việt Nam, khởi sự là
dân tộc giành quyền tự quyết, chống ngoại xâm, nhưng cũng là chiến tranh ý thức
hệ, nối dài biên giới chiến tranh lạnh, với sự can thiệp của nước ngoài. Nhưng
đồng thời cũng có tính chất nội chiến:
Triệu người đã chết, hãy mở mắt ra
Lật xác quân thù, mặt người Việt Nam trên đó
Đi trên những xác người: bao năm tháng những ai?
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không nghị luận chính trị, vì nghị luận
sẽ không thành bài hát; anh chỉ nói lên cảm xúc:
Ôi bom đạn cày trên những xác
Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng
(Đêm bây giờ, đêm mai – 1967)
Từ 1968, trong những gào gọi hòa bình, thêm một ý tưởng hiện
ra rõ nét, là thống nhất đất nước. Hòa bình là một ước vọng của nhân sinh, ai
ai cũng chia sẻ. Thống nhất là một đòi hỏi chính trị, người muốn thế nọ, kẻ muốn
thế kia, đại khái qua hai câu hỏi: thống nhất bằng cách nào; và ai chủ động thống
nhất? Trịnh Công Sơn nói lên niềm mơ ước công dân, và không trả lời hai câu hỏi
chính kiến, cũng như nhiều nhạc sĩ khác: Phạm Đình Chương viết Hội trùng dương,
Phạm Duy viết Con đường cái quan, đều chia sẻ một nguyện vọng.
Khát vọng thống nhất đã bàng bạc trong những bản nhạc của Sơn
trước đó:
Đêm sông Hương nhung nhớ
Ngày Cửu Long mơ, mơ thấy gì
Mơ một ngày Hồng Hà góp Hội trùng dương
Đây quê hương trông ngóng và mẹ chờ mong (Lại gần với nhau -
1966)
Nhưng phải đợi đến Kinh Việt Nam (1968), yêu sách ấy mới được
diễn đạt chính xác:
Chờ ngày Việt Nam thống nhất (Chờ nhìn quê hương sáng chói)
Reo vui cờ thống nhất
Chân bước đi trên ba miền
Những ai còn là Việt Nam
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương (Chính chúng ta phải nói)
Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền (Huế, Sài Gòn, Hà Nội)
Năm 1968, bài hát thành công nhất là Nối vòng tay lớn:
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà (...)
Thành phố nối thôn xa vời vợi
Người chết nối linh thiêng vào đời....
Nhạc điệu phong phú, hào hùng, phóng khoáng và lời ca vừa nhẹ
nhàng vừa súc tích, nối liền con người với nhau, với đất nước, thành phố với
thôn quê, quá khứ với hiện tại, người chết với tương lai.
Năm 1969, Bửu Chỉ kể lại: "thỉnh thoảng người ta lại
nghe phong phanh đâu đó về một giải pháp hòa bình cho Việt Nam, rồi lại tắt ngấm...
Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt",
nhạc khúc Trịnh Công Sơn gắn bó với hoàn cảnh, mang một nét mới: chính chúng ta
phải nói: chính người dân Việt Nam phải có quyền quyết định về vận mệnh dân tộc,
trên cơ sở hòa bình - thống nhất:
Khi tim người rực lửa cầu mong
Chính chúng ta phải có mọi quyền
Đứng lên đòi thống nhất quê hương
Quyết chối từ chém giết anh em
Chính chúng ta phải nói hòa bình
Trịnh Công Sơn kêu gọi Ta đi dựng cờ, Đừng mong ai đừng nghi
ngại. Lời ca hùng hồn, khẩu hiệu, có lúc đại ngôn: đã đến lúc cách mạng tiến
lên. Bài Ta quyết phải sống:
Còn sống xin các anh quyết còn cách mạng
Đời ta ta lo, xin xếp vũ khí...
Cách mạng, trong mơ ước Trịnh Công Sơn là cuộc đổi đời triệt
để, từ bóng tối ra ánh sáng, từ xương máu ra hòa bình “một rạng đông mới sẽ được
khai sinh. Nhựa mới sẽ luân lưu cuồn cuộn trong những thân thể Việt Nam":
Những giọt máu đến ngày trổ bông
Nở hòa bình cho đêm vắng xôn xao tiếng người
Ngày dân ta đi dành lấy hòa bình
Ta phải thấy mặt trời (Những giọt máu trổ bông)
Và mặt trời là biểu tượng ánh sáng, hơi ấm, sự sống và phương
hướng: phương Đông, phía mặt trời mọc:” “Tuổi trẻ Việt Nam, trời sáng phương
Đông“. "Một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Đông". Sơn
có lần giải thích: người phương Tây, khi định hướng, dùng chữ orientation,
nghĩa là nhắm hướng orient, phương Đông. Việt Nam là chiến trường giữa những thế
lực mê chấp đến từ phương Tây. Trong khi đó, phương Đông nguồn cội của đức tin,
là quê hương của hòa bình, hòa giải và hóa giải.
Tư tưởng Phật giáo tiềm ẩn nơi Trịnh Công Sơn, có lẽ đã khởi
sắc từ ý thức chính trị, xã hội và văn hóa, trong một thời điểm nhất định.
Phật tính là mạch nước ngầm trong tâm hồn Trịnh Công Sơn, gặp
một hố bom, nó chợt thấy mặt trời, và tuôn trào thành Nguồn thơ suối nhạc.
Nhìn dưới ánh sáng nào đi nữa, sự nghiệp Trịnh Công Sơn cũng
là một khối tài tình. Tài và tình sinh ra nhau, nuôi dưỡng lấy nhau bằng lương
thực một trần ai khổ ải. Chữ tài, phần nào là của trời cho; chữ tình là khối
đau thương khổ luyện trong khổ nạn. Và chính khối đau thương qua những lời ca
phản chiến - đã vinh danh Trịnh Công Sơn trong khổ nạn, vinh danh bên ngoài ý
muốn của nhiều quyền lực thế trị; và sau này nữa bên ngoài những mê chấp sân
si.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét