Xuất hiện giữa công chúng như một ẩn sĩ, với lời lẽ hư hư thực
thực, đầy giằng xé, phủ nhận, nghi hoặc, và tự khoác cho mình một tấm áo choàng
chấm gót cách biệt, gần đây, gặp một Trịnh Công Sơn khác: trầm lặng về ban
ngày, nhiều hội hè, gặp gỡ về đêm. Một Trịnh Công Sơn triết lý xa xôi, nói năng
bóng bẩy, như bù trừ cho một Trịnh Công Sơn giản dị, khép kín, ưa lãng du ngày
nào. Song cái tôi than thở hồn nhiên của anh thì vẫn thế, không giấu được gốc
tích nỗi buồn riêng. Khi cơn cớ thở dài "Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt",
cũng là khi anh đang ở đỉnh cuối vô nghĩa của vinh quang, nổi tiếng và...hư
danh. "Ba mươi năm ca hát mộng mị giữa đời, ngoái nhìn: giấc mộng của người
khác" (Trịnh Công Sơn) . Nghĩa là sự giằng xé bao năm qua vẫn sống, giữa
cuộc đời và thân phận; quá khứ và hiện tại; tuyệt vọng và tự tái tạo niềm tin;
cảm giác không tìm thấy mình giữa dòng đời và lắng nghe mọi va đập, tìm cái tôi
ẩn khuất trong chốn "đô thị nát tan của hồn mình". ám ảnh về thân phận,
tình yêu ẩn hiện trong ca khúc của Trịnh Công Sơn. Hơn 600 ca khúc của anh là sự
giãi bày với mọi người, giãi bày mà người nghe không thấy chán.
Dường như bởi từng góc tâm trạng đều có mặt ta ở đấy. Nỗi buồn
của Trịnh Công Sơn đã đặc trưng hoá cho những mảnh tôi "tự mình liếm vết
thương". Ấy nên, người trẻ hay già đều yêu thích hoặc chấp nhận ca khúc của
Trịnh Công Sơn ở mức khá phổ cập. Cái tôi ấy từng thổ lộ: "Chúng ta đã đấu
tranh như một người trẻ tuổi và đã sống mệt mỏi như một kẻ già nua. Tôi đang muốn
quên đi những trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ. Ở đó có hai con đường:
Một con đường dẫn ta về ca tụng sự vinh quang của đời sống. Con đường còn lại dẫn
về sự băng hoại".
Âm nhạc Trịnh Công Sơn dẫn người ta đến bờ vực để rồi buộc phải
có một giải đáp: sụp đổ hay vượt lên.
Một nỗi đau đã theo đuổi Trịnh Công Sơn từ thuở nhỏ đến khi
trưởng thành: cái chết của người cha - ông Trịnh Xuân Thanh. Cả cha và mẹ là gạch
nối Trịnh Công Sơn với thơ ca (cả nhà mê thơ phú, đàm đạo). Và cũng chính họ là
hai hình ảnh liên kết rõ ràng nhất về thân phận con người. Người cha bị tù đày ở
lao Thừa Phủ nhiều năm vì tham gia kháng chiến chống Pháp. Sau đó, cha ông chết
trong một tai nạn dọc đường. Người mẹ tần tảo buôn bán nuôi 8 con trong thời kỳ
người chồng bị giặc bắt và ở vậy cô quạnh một đời. Chỗ dựa tinh thần của Trịnh
Công Sơn ngay từ bé đã khá chông chênh. Không có gì níu kéo anh ở lại với những
dằn vặt nhỏ mọn, những nỗi lo cơm áo trì trệ . . . , nhìn thấy cái chết và nhận
chân nó cũng là để khỏi vướng bận trước cuộc đời hữu hạn. Anh đi tìm một cõi
riêng, cõi của trí tưởng tượng, của những ánh sáng đẹp đẽ hơn mà mắt thường
không nhìn thấy, mải mê trong cuộc du ca của ước vọng và nghiền ngẫm, xâu kết về
đời sống: anh và những người xung quanh đang tồn tại vì lẽ gì. Trịnh Công Sơn
nhớ lại: “Trong giấc ngủ hằng đêm tôi thường nhìn thấy cái chết của ba tôi. Nỗi
ám ảnh ấy chắc chắn không bắt nguồn từ lớp bụi tro dày của vô thức làm nên từ
những cái chết của tổ tiên mà có lẽ từ những năm tù tội tra tấn chết đi sống lại
của ba tôi trong kháng chiến chống Pháp. Rõ ràng là cái chết ấy được báo động
qua một tâm hồn quá nhạy cảm của tuổi thơ. Ba tôi mất đi khi tôi mười lăm tuổi.
Rất nhiều bài hát đầu đời của tôi đã phảng phất cái không khí vắng lặng của sự
mất mát. Càng về sau, lúc tiến dần về tuổi trưởng thành, giữa những bức xúc của
cuộc sống, giữa những ngày tháng buồn vui, nỗi ám ảnh ấy đã trở thành lúc nào
không hay ngọn nguồn của một nỗi âu lo thường trực về sự vắng bóng con người .
. . ".
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-2-1939 tại Đắc Lắc, lúc nhỏ sống ở
Huế, trưởng thành ở Đà Lạt, Quy Nhơn và Sài Gòn. Có thể nói, Đắc Lắc cho ra một
tính cách cô đơn, mãnh liệt; Đà Lạt nuôi thơ và tâm hồn mộng mị; Quy Nhơn là điểm
gấp khúc của biến động hai miền đất nước; Huế quyện vào không gian buồn bã, chậm
rì trong lời ca. Ngay từ thuở nhỏ ông đã ham mê ca hát, mười tuổi chơi măng đô
lin và sáo trúc, 12 tuổi lần đầu tiên có cây đàn guitare trong đời... Ở Huế, Trịnh
Công Sơn theo học các trường Lyceè Francais, Provindence Huế, sau vào Sài Gòn học
triết ở trường Tây Lyceé J. J Rousseau Sài Gòn. Triết học là chìa khoá duy nhất
giải mã cho tâm hồn người thanh niên non nớt này về cuộc sống, bản thân. Ca
khúc đầu tiên được sáng tác từ năm 17 tuổi Sương đêm và Sao chiều mang rõ những
nét chấm phá này. Nhưng kể từ khi Ướt mi được Nhà xuất bản An Phú in và phát
hành (1959), Trịnh Công Sơn mới chính thức rong ruổi vào mảnh đất tình ca. Đó
là cảm xúc được ghi lại từ những giọt nước mắt của một ca sĩ nữ sinh vừa rời ghế
nhà trường, hát để kiếm tiền nuôi mẹ đang hấp hối trên giường bệnh. Tuổi hai
mươi phơi phới, với ý đồ hiệp sĩ, Trịnh Công Sơn đã dùng số tiền nhuận bút đầu
tiên (5 ngàn đồng) để tặng ca sĩ và chia cho anh em cùng trọ. Nhưng cũng kể từ
đó, thành hình một nguồn cảm hứng khác: "Như một khu vườn mùa thu yên tĩnh
được một cơn gió thổi bùng lên đánh thức lớp lá vàng dậy, tâm hồn tôi đã bắt đầu
biết xôn xao theo những tín hiệu dù nhỏ nhất của cuộc sống. Tôi không còn nhìn
ngắm cuộc sống một cách lơ đãng nữa mà càng lúc càng thấy mình bị cuốn hút về
phía những tình cảm phức tạp của con người".
Cái nhìn chăm chú vào sự chết đã xua đi nỗi sợ hãi tột cùng của
mất mát: đằng sau cái chết và nỗi khiếp sợ liệu có một ý nghĩa nào, một sự tái
sinh nào? Một kiếp người, ngẫu hứng là cuộc rong chơi để lại trở về hình hài
cát bụi, hay còn lẽ gì lớn hơn? Vì sao sinh ra con người đã phải tuyệt vọng? Chống
chọi với tất cả những nỗi hoài nghi trên, ca khúc Trịnh Công Sơn giăng mắc rất
nhiều cái bẫy, cho mình và cho mọi người, để rồi tìm cách thoát khỏi đó.
Năm 1961, Trịnh Công Sơn bắt buộc phải trốn lính, nên thi vào
trường Sư phạm Quy Nhơn để có hai năm yên ổn. Khoa anh học: Tâm lý giáo dục trẻ
em. Thật buồn cười, thực ra, trong đầu óc chàng trai trẻ ưa phiêu bạt ấy, học
thêm cũng chẳng để làm gì. Tốt nhất là tự chiêm nghiệm và trải qua cuộc đời - vốn
dĩ không có gì mới. Không gian biển cả và tâm trạng chớm yêu của gã trai mới lớn
đã làm nên những rung động đầu mùa: Diễm xưa, Nhìn những mùa thu đi, Biển nhớ.
. . Tất cả dồn nén buồn quay quắt. Tình yêu là một chùm quả chỉ để ngắm nhìn,
dĩ nhiên, nhiều hư ảnh nhưng cũng đầy than trách, tiếc nhớ, bị nhấn chìm trong
cách xa và chia lìa, trong sự tan hoang của ký ức. Mối tình với Bích Diễm, rụt
dè và thầm kín, một thoáng cháy bùng để rồi sớm tắt ngay trong chính nỗi ngơ
ngác của gã trai kia. Nhưng khi nhìn ngắm lại kỷ niệm thì "Làm sao em biết
bia đá không đau!”. Lần đầu tiên, anh cày xới trên nỗi yêu một thứ triết lý muộn
màng. “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Và cũng chính lúc đó, khái niệm “đau”
trong tình yêu mang nghĩa lớn hơn, cái đau của một kiếp người được mở rộng ra
nhiều kiếp, nỗi thiệt thòi khi cảm nhận được mất mát không gói trong ngần ấy
câu chữ mà thôi. Anh lân la trong tuổi trẻ của mình, để thấy cái gì là phù du,
cái gì lay động, cái gì không thể mất. Lãng du vào hồn mình, thay vì đi qua mãi
những mảnh đất khác nhau, vào cõi gốc của lòng khát sống. Ví mình như hạt bụi,
như loài sâu ngủ quên, như lau trắng, mưa, nắng, như những phận tầm gửi nhưng lại
biết hát lên khúc ca cuối cùng. Lúc nào cũng vội: nắng tắt, rừng khô héo, vội
vàng thêm những lúc yêu người; người đã đến, và người sẽ về bên kia núi... Các
vật thể được truyền vào một đời sống khác - đời sống của tâm trạng: Đường phố
cười, đường phố hao mòn, tay nhanh lấp đầy hố tuyệt vọng... Dần dà, chính Trịnh
Công Sơn cũng tự đi đến trạng thái vô thức lúc nào không hay: Các ca từ được nạp
điện giàu sức gợi cảm hơn. Kiểu như: "Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều”,
“Nghe tiền thân về chào tiếng lạ”, “Chập chờn lau trắng trong tay”, “Dưới mặt
trời ngồi hát hôn mê". Và đó chính là thơ. Thơ dẫn nhạc theo gót vào chốn
không tưởng, rũ mọi tạp âm để có thể cất lên những giai điệu hồn nhiên nhất, da
diết nhất, cho dù đôi khi chỉ là tiếng thở dài... rất Việt.
Khu vườn siêu thực đưa Trịnh Công Sơn nhanh chóng đến đỉnh
cao của mọi cảm nhận âm thanh. Vị giác: “Môi ốm o lời thề"; xúc giác: “Lời
cỏ cây hát trên da người"; thính giác: “tiếng hát xanh xao của một buổi
chiều”; thị giác: “Nắng thủy tinh”; khứu giác: "Lời ca dạ lan như ngại
ngùng” và một giác quan nữa - vùng tâm thức đổ bóng "hồn xanh buốt”,
"vùng u tối của loài sâu...” Hay là những tiếp nhận hình tượng tưởng như rất
vu vơ: “Ta thấy em trong tiền kiếp, với cọng buồn cỏ khô", (Rừng xưa đã
khép)... Sự vật, hoặc siêu hình, hoặc thật mong manh (tình mong manh, gió mong
manh, nụ cười mong manh, cỏ lá mong manh, sống chết mong manh, môi rồ dại. . .
) cuối cùng cũng được mặc áo tâm trạng của một thời kỳ muốn sống vội, yêu vội
lĩnh hội mọi điều bí ẩn của tâm linh. Dấu chân địa đàng là dòng xiết của siêu
thực: âm điệu như nước cuốn trôi, không kìm nén nổi, rồi phá tung mọi kìm hãm,
rồi tạm lắng, rồi như đất khát. . . là sự nổi loạn chống chọi thời gian, định mệnh,
lãng quên, mà cuối cùng vẫn vô định. Nhũng ca khúc ấy in đậm vũ trụ quan và thế
giới quan của Trịnh
Công Sơn, một kẻ ngạo mạn sáng tạo ra một cõi, rồi lại bối rối
bởi không chạy thoát được cái xô ngã của đời sống, sực tỉnh giữa mê.
Nếu như Diễm xưa mở ra một không gian hoài niệm, câu thúc
trong sự thoái thác của mưa, với cánh cửa ngôn từ giàu tượng hình, thì Lời buồn
thánh đi vào tâm trạng cô đơn, không lối thoát trong tình yêu với những khuấy đảo
vô vọng, lặp lại vùng không gian - thời gian trong sự đổ vỡ, tàn hoang của tâm
hồn đồng vọng. Viết về ca khúc Trịnh Công Sơn, nhà phê bình Bửu ý từng nhận định:
"Nhạc của Trịnh Công Sơn không tuyền là nhạc, bài hát không chỉ là bài
hát. Mỗi bài là một truyện ngắn. Mỗi ca khúc là một chương khúc của truyện dài
không có kết thúc, vẫn mở ra như một vết thương - một vết thương người, một vết
thương thời đại...".
Nhưng vì sao tình yêu lại là một cuộc leo dốc và trượt dài
không sao cứu vãn nổi? Đằng sau tình yêu là gì? Phải là cõi “mê", là một
thế giới của mất mát? Là con đường tàn lụi?
Điều đó tuỳ thuộc vào thân phận hay đúng hơn là khuôn khổ một
đời người. Đi ra khỏi mọi giới hạn, để rồi không trở về được nữa, cũng là một
bi kịch?
Đây cũng chính là thời điểm chín rộ của tài năng. Trước đó,
Trịnh Công Sơn trải qua một giai đoạn tìm tòi để lột xác. Vào những năm 1956 -
1957, thời của những “giấc mộng ngổn ngang, của những viễn tưởng phù phiếm non
dại. . . " lúc này, Trịnh Công Sơn chưa có ý trở thành nhạc sĩ hay sáng
tác ca khúc. Trằn trọc đêm này qua đêm khác vì tự dằn vặt "cái trò lãng mạn
viết lách", "xướng ca vô loài". Nhưng ca khúc đã nhập hồn vào Trịnh
Công Sơn. Trở thành phương tiện giúp anh tỏ tình với cuộc sống. Những năm về
sau, hình thành một quan niệm sống rõ rệt: "Sống là sống với người khác,
và muốn có cảm thông thì phải bộc lộ mình". Anh hiểu rằng anh được tự do
trên mảnh đất (ca khúc) này.
Hoạ sĩ Đinh Cường, bạn thân của Trịnh Công Sơn, nhớ lại: vào
thời kỳ này, Sơn thường mặc độc nhất một chiếc áo kaki bạc màu, khắc khổ. Anh
là một trong những người thầy dạy học ở miền núi sớm nhất. Sống hoang vu nhất.
Căn phòng Sơn ở với chiếc mùng rủ sẵn quanh năm, chim sẻ làm tổ đầy trên trần
nhà, mùi rơm và phân chim ẩm mốc, xác những bao Bastos xanh chất thành đống. Có
lần, người em trai của Sơn đến thăm, không gặp, ra ngoài quán, thấy Sơn đang
chơi bi da một mình trong ánh đèn tù mù. Sơn cô đơn đến như vậy. Thời của tuổi
trẻ tự tìm đến với những nỗi cô đơn khốc liệt để bùng lên những sáng tạo cần
thiết.
ca khúc là sự lựa chọn "bất khả kháng" của Trịnh
Công Sơn, bởi như đã nói, đó không chỉ là nhu cầu tự thân, mà còn là cửa mở duy
nhất để nhạc sĩ tìm thấy tự do, sự an ủi, những "câu hỏi buốt trí não của
đời sống", để giết chết nỗi buồn của mình. Với Trịnh Công Sơn, quan niệm
sáng tác khá rõ ràng, chính anh không hề úp mở: "Hàng trăm ca khúc viết
xong có thể gom lại thành một cuộc đời thu nhỏ.
Viết cả trăm bài càng thấy thiếu. Bởi vì con đường tình yêu
đi mãi không cùng. Con đường số phận đi hoài không tận.nBằng ca khúc, tôi muốn
mang đến những quà tặng cho anh em bằng hữu tôi trong cuộc liên hoan trên đất
đai xứ sở này. Ca khúc là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc".
Dường như đặt bút vào Ướt mi, Trịnh Công Sơn đã nghiệm ra được chân lý riêng của
mình: cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang đến cảm thông giữa mọi
người bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những âu lo, chờ đợi của con người
khi đối diện với chính mình trước cuộc sống, cũng như thông điệp tình yêu và
nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa bình và những con tim đang bị ngộ
độc bởi ngòi thuốc nổ.
Trong dòng ca khúc của Trịnh Công Sơn, có thể thấy rõ quan niệm
sáng tác qua từng giai đoạn: dòng ca khúc trữ tình, dòng ca khúc chống chiến
tranh (phản chiến) và dòng ca khúc âm ỉ thứ ba: giải thoát bản ngã.
Giữa thập niên 60 là thời kỳ sáng tác sung sức nhất của Trịnh
Công Sơn. Trong số các khuynh hướng sáng tác âm nhạc ở miền Nam (1954 - 1975)
(bao gồm khuynh hướng âm nhạc chống cộng, khuynh hướng âm nhạc lành mạnh,
khuynh hướng âm nhạc yêu nước và cách mạng), sự xuất hiện các bản tình ca của
Trịnh Công Sơn mang một vị thế nhất định, một sức sống mới. Đối tượng với tình
ca Trịnh Công Sơn có dòng nhạc "tiền chiến" được phục hưng và phổ biến
mạnh mẽ trở lại. Bên cạnh đó, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn đối lập với
nhận thức một chiều về chiến tranh theo kiểu tâm lý chiến.
Ca khúc trữ tình là phần nghiêng trong sáng tác của Trịnh
Công Sơn, đặc biệt là thời kỳ trước 1975, trong số 400 bài hát được xuất bản và
phổ biến. Ở giai đoạn đầu, âm hưởng chính là nét trữ tình lãng mạn. Trịnh Công
Sơn vẽ ra những bầu trời có cánh bướm, cánh chuồn, cánh vạc, màu môi hồng ngọc,
những "bóng tối ở đó tẩm liệm hồn người" (lời Trịnh Công Sơn). Anh mơ
một tiếng hát hân hoan như ngọc chảy trên tay một người con gái, mỗi viên ngọc
chứa tâm hồn đá núi ngàn năm. Có thể, đó là ước vọng thơ ngây của tuổi trẻ, của
trí tưởng tượng đi theo vệt mòn các bậc “tiền bối" thuộc dòng ca khúc lãng
mạn trữ tình trước và sau 1945. Một chút cô đơn sầu nhớ, một ít tuyệt vọng, sự
than thở của cây thụ cầm nhiều âm trầm, ảo tưởng tình yêu đuổi bắt chập chờn...
"Gọi em cho nắng chết trên sông dài”, “Thương ai buồn kiếp người, lạnh
lùng ánh sao rơi"... Một kiểu tình yêu gần như đơn phương, phảng phất vị
tiếc nuối, có phần hơi kể lể, trong một không gian hồi tưởng không mấy xê dịch,
biến chuyển, trong điệu thức âm u của tâm trạng. Ở những ca khúc đầu tay, thời
gian được xoá nhoà trong cõi mộng, gờn gợn thứ âm nhạc "liêu trai"
nhiều hư ảnh. Tóm gọn lại, chỉ là một góc cạnh đa cảm của nhạc sĩ trẻ mà thôi.
Nhưng vào thời kỳ bỏ dạy học ở Blao (Lâm Đồng) về Sài Gòn, guồng
xiết của không gian đô thị đã lần lượt bóc đi lớp vỏ uỷ mị, hiền lành trong những
ca khúc tương tự như thế. “Cơn gió lãng mạn trữ tình của một thời niên thiếu”
như Trịnh Công Sơn từng gọi đã được thay thế bằng những "cơn lốc dằn vặt
trên thân phận con người" trong chiến tranh. Cuộc sống nhiều cọ xát đã xua
đi các ảo tưởng. Những ca khúc trữ tình của Trịnh Công Sơn sâu sắc hơn, gập ghềnh
hơn: “Những ngày ngồi rủ tóc âm u, nghe tiền thân về chào tiếng lạ”, “Một ngày
còn sống, chiếc bóng lung linh, một đời về không, hai tay quy hàng”, “Ngủ yên đời
đi con như vết thương đau ngủ buồn như trùng dương mắt thâm còn nghe ngóng, tôi
một hôm chợt thấy hoang vu quanh mình"...
Thậm chí dửng dưng “Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời...
lòng không buồn mấy..” Triền mạch hoang mang và thấu suốt, tô và xoá, lồng quá
khứ trong hiện tại. Tình yêu siêu thoát, tưởng đã gục ngã, nhưng không phải,
không bi lụy hay khóc than khô khốc mà vạch một nét nhân bản sâu xa. Những linh
cảm về đổ vỡ, huỷ diệt làm "Nhói lên những con âm tha thiết và tha thiết
là vũ khí duy nhất của con người để kháng cự huỷ diệt" (Hoàng Hưng).
Rất có thể, Trịnh Công Sơn đã lạm dụng chữ "tình",
“sầu” , “buồn" trong nhiều bài hát. Nguồn khơi mạch này dễ dẫn người ta đến
triền dốc buông thả, quy hàng trước nghịch cảnh. Nhưng đó chỉ là nỗi ám ảnh
không gian và thời gian, nỗi ám ảnh của Định mệnh. Còn không là một cõi hư vô.
Đến một cường độ nào đó, người ta bỗng thôi tuyệt vọng, mà tự mình trồi lên thở
như cá. Đấy là phần kết "có hậu” trong những nỗi tuyệt vọng mà Trịnh Công
Sơn tự đánh đắm tàu mình. Thường tự ví là "phận cỏ hèn"; “Đời ta có
khi tựa lá cỏ, ngồi hát ca rất tự do. . .”, ít nhiều họ Trịnh chịu ảnh hưởng
Albert Camus. Tự đầy đoạ mình trong "mối yêu thương con người”. Ngỡ
"Thiền" mà lại không, mọi nỗi đau quá biến động trong cái vỏ ngôn từ
có thể gọi tên được. Tin vào kiếp luân hồi: “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để
một mai tôi về làm cát bụi”. Vào hư không: "Chiều hôm thức dậy, chập chờn
lau trắng trong tay". Vào hoá thân: “Ta thấy em trong tiền kiếp". Cứ
như thế, thế giới nội tâm của Trịnh Công Sơn tự loại bỏ mâu thuẫn, săm soi từng
khoảnh khắc hiện tại, nhìn lùi quá khứ xa xăm, tìm cứu cánh ngoài bản thân
mình. Trịnh Công Sơn từng thú nhận: "Nỗi sầu muộn lớn nhất là không bao giờ
nói hết được lòng mình. Tôi tập cho tôi biết sững sờ trước những điều dung tục,
đồng thời tôi cũng tập cho tôi biết giữ lòng bình an trước những hiểu nhầm”.
Chiến tranh đã xáo trộn tất cả. Một loạt mâu thuẫn nội tại
trong tiềm thức Trịnh Công Sơn bị dội sang một bên. “Bây giờ ta nhìn khói trời
mênh mông. Ta nhìn ta về giữa trời hư không. Tên em là vết thương khô” (Khói trời
mênh mông). Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn. Những
bài hát trong hai tập Ca khúc da vàng và Kinh Việt Nam trưng dụng những màu sắc
hoàn toàn điên đảo, không nhằm miêu tả tường thuật chiến tranh, mà vẽ ra những
phóng xạ chiến tranh. Với tư cách nhân chứng, Trịnh Công Sơn ghi lại tất cả nỗi
đau đớn "viết trên xác người" và nỗi đau đớn đó trào dâng thành uất hận
ngùn ngụt khi được hát trên môi.
Thái độ đầu tiên phản kháng chiến tranh là trốn lính. Để được
miễn quân dịch, Trịnh Công Sơn bỏ lên sống ở Lâm Đồng, sâu trong vùng núi heo
hút. Sau đó, anh quyết định về lại Sài Gòn. Để có được hai năm trời sống thong
dong hợp pháp, Trịnh Công Sơn phải nhịn đói tuyệt đối 60 ngày (mỗi năm 30 ngày)
trước khi ra trình diện. Cộng thêm uống thuốc điamox (loại thuốc rút bớt nước
trong tế bào ra) để xuống ký nhanh. Một thời gian sau, anh không phải ra trình
diện nữa vì người anh gầy còm y như dân xì ke, sức khoẻ suy sụp thực sự. Như một
kẻ vô gia cư, Trịnh Công Sơn lang thang cùng một số sinh viên trong những căn
nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất sau Đại học Văn khoa. Ngủ trên ghế bố
hay nền xi măng, đến đánh răng ở các quán cà phê quen biết.
Sống trong thời kỳ bấp bênh đó, Trịnh Công Sơn vẫn viết và
hát. Đó là thời kỳ sôi động nhất trong đời người nhạc sĩ trẻ. Những ca khúc của
anh được in ra từng tờ rời và tuyển tập. Dần dà, việc in ấn cũng khó khăn vì bị
cảnh sát truy lùng, phải rải ra in ở bốn nhà in khác nhau. Vì tính chất phản
chiến của ca khúc Trịnh Công Sơn nên chính quyền ra lệnh tịch thu. Các báo
trong và ngoài nước đổ xô tìm gặp Trịnh Công Sơn phỏng vấn. Nhưng quan trọng
hơn, cái không khí chết chóc, đau thương của chiến tranh đã ngấm dần vào tâm hồn
nhạy cảm của Trịnh Công Sơn, và anh đã viết nên những bài hát như đùa chơi với
ma quỷ, chết chóc, mà thực ra là nỗi đau thương nước đến bàng hoàng. Bài ca
dành cho xác người: "Hàng vạn chuyến xe mang vô thị thành, từng vùng thịt
xương có mẹ có em" (Đại bác ru đêm). Hay “Mẹ vỗ tay reo mừng xác con, mẹ vỗ
tay hoan hô hoà bình”, (Hát trên những xác người), “Người già co ro ngồi nghe
tiếng nổ, em bé loã đồ khóc tuổi thơ đi” (Người già và em bé).
Là người quan sát, nhưng Trịnh Công Sơn không dấu nổi tâm trạng
đau đớn khi đối diện với sự chết chóc của đồng loại. Anh khóc cho những thân phận
con người, thân phận đất nước trong chiến tranh: "Giọt nước mắt thương
dân, dân mình phận long đong". "Ôi quê hương đã lầm than sao còn còn
chiến tranh, mẹ già hết chờ mong đã ngủ yên" (Du mục). Dù khai thác cái bi
thương nhưng những bài ca trong Ca khúc da vàng vẫn toả ra tình yêu thương quê
hương. Cái cảm giác trải qua chiến tranh làm con người già đi, nhưng lại lớn
hơn trong nhận thức: “Đường phố nào còn nằm che giấu, cho tôi đi giữa nhân loại
đớn đau” (Có những con đường). "Khi tôi đứng bên một xác người", - Trịnh
Công Sơn thổ lộ, - tôi không nghĩ đó là ta hay là địch, mà đó là một thân phận
chịu đựng sự vô nghĩa của chiến tranh". Anh có một ước muốn duy nhất và
đơn giản: "Khi đất nước tôi không còn giết nhau, trẻ con đi hát đồng dao
ngoài đường". Hay "Đường tương lai không ai thù ghét ai”. Mặc dù quan
niệm về chiến tranh còn chưa rạch ròi, nhưng những khúc đoản ca bi phẫn của Trịnh
Công Sơn đã đẩy âm nhạc lãnh một sứ mệnh: kêu gọi hoà bình. Vào thời kỳ này, ca
khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn được phổ biến rộng rãi ở nước ngoài. Bài Ngủ
đi con trong tập Ca khúc da vàng đã đoạt giải Đĩa hát vàng ở Nhật vào năm 1972,
qua giọng hát Khánh Ly (trên hai triệu đĩa). Kể từ đó, tên của Trịnh Công Sơn
có trong cuốn Tự điển Bách khoa Pháp . Không chỉ mở ra vết thương người, vết
thương nhân loại trong chiến tranh, ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn còn
vươn tới một tầm cao hơn - là tiếng kinh cầu cho linh hồn đau khổ siêu thoát,
là sự bất lực hoá thành ăn năn. Chính vì thế, dòng ca khúc phản chiến của Trịnh
Công Sơn hé mở nhân cách của người nghệ sĩ trước thời cuộc và chuyển tải vào đó
tiếng nói phẫn nộ của hàng triệu con tim. Ảnh hưởng loại ca khúc này với công
chúng miền Nam khá sâu rộng. Trước ngày 30-4-1975, chính Trịnh Công Sơn đã cùng
với một số nhạc sĩ khác hát vang ca khúc Nối vòng tay lớn trên đài phát thanh của
chế độ cũ, truyền loan tin thống nhất đất nước cho mọi nhà.
Sau 1975, một thời kỳ thử thách lại đến với Trịnh Công Sơn -
thử thách về lòng kiên nhẫn, ý thức dấn thân vào đời sống. Trải qua hai năm học
tập ở Cồn Tiên, vùng đất hoang vu đầy bom đạn, Trịnh Công Sơn có được một thời
kỳ yên tĩnh để nhìn lại mình trong các biến động lịch sử. Suốt một thời gian
dài hầu như anh không sáng tác. Đó là lúc anh tìm "chân dung của nỗi khát
khao", đi tìm cái chưa bao giờ viết được.
“Tiếng hát từ đó sẽ giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, mọi trì kéo"... (Trịnh Công Sơn). Lần lượt đi thực tế nông trường theo anh em thanh niên xung phong. Gặp 20 người con gái Thanh niên xung phong ở nông trường Nhị Xuân. Hôm sau nghe tin các cô đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Ca khúc bấy giờ cất lên tiếng nói của mình: soi tỏ hơn nữa số phận con người. Hàng loạt ca khúc mới ra đời, là băn khoăn đời thường, ý chí vượt qua tuyệt vọng để sống và thèm sống: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại Mẹ, Đoá hoa vô thường, Em còn nhớ hay em đã quên, Em ở nông trường, em ra biên giới, Ru đời đi nhé, Sóng về đâu... Vẫn là một Trịnh Công Sơn than thở, ví mình là cỏ, thích ca hát, rong chơi. Nhưng đã là một Trịnh Công Sơn đã thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng sự cân bằng nội tại. "Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh sấm bay rền vang, bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn, nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối...” (Đoá hoa vô thường). Hay tự khuyên nhủ mình "Tôi là ai mà yêu quá đời này” (Tôi ơi đừng tuyệt vọng), “tôi đang lắng nghe im lặng đời mình", (Im lặng thở dài), “Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi, chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời”, (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Nhưng nhìn chung, càng về sau, ca từ Trịnh Công Sơn thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng tình, kể lể nhiều hơn. Chất bi thương giảm hẳn, bù lại là một gắng gỏi tồn tại không vô nghĩa. Vẫn là triết lý về thân phận, tình yêu, nỗi cô đơn, nhưng ở một góc nhìn khác, một nỗi buồn khác. Yếu tố siêu thực trở nên nhạt nhoà so với sáng tác trước 1975. Cô đơn và trầm tư, nhạc sĩ đào sâu vào bí mật của tồn tại, vào việc giải thoát bản ngã. "Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời không hết tình đâu”. Những triết lý có phần yếm thế, dù đã gắng vui nhưng không mấy hồn nhiên. Và chẳng bao giờ giải thoát nổi cho mình ra khỏi sự rối rắm của ý muốn. "Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thử rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh. Mỗi ngày sống tới, tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm", "Nhưng khỏi phải e ngại rằng Trịnh Công Sơn định làm triết lý thay vì âm nhạc" - nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bình luận. “Điều khiến cho tình ca Trịnh Công Sơn sống mãi trong lòng người chính là ở đây. Dù những trầm tư của tác giả đi xa đến đâu, âm nhạc Trịnh Công Sơn vẫn là cõi riêng dành cho tình yêu. Nó chứa đựng tất cả tâm trạng lo âu của con người nhạy cảm nhìn ra thế giới hiện đại".
“Tiếng hát từ đó sẽ giải thoát mình ra khỏi mọi ràng buộc, mọi trì kéo"... (Trịnh Công Sơn). Lần lượt đi thực tế nông trường theo anh em thanh niên xung phong. Gặp 20 người con gái Thanh niên xung phong ở nông trường Nhị Xuân. Hôm sau nghe tin các cô đã hy sinh ở biên giới Tây Nam. Ca khúc bấy giờ cất lên tiếng nói của mình: soi tỏ hơn nữa số phận con người. Hàng loạt ca khúc mới ra đời, là băn khoăn đời thường, ý chí vượt qua tuyệt vọng để sống và thèm sống: Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Tuổi đời mênh mông, Huyền thoại Mẹ, Đoá hoa vô thường, Em còn nhớ hay em đã quên, Em ở nông trường, em ra biên giới, Ru đời đi nhé, Sóng về đâu... Vẫn là một Trịnh Công Sơn than thở, ví mình là cỏ, thích ca hát, rong chơi. Nhưng đã là một Trịnh Công Sơn đã thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng sự cân bằng nội tại. "Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh sấm bay rền vang, bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn, nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối...” (Đoá hoa vô thường). Hay tự khuyên nhủ mình "Tôi là ai mà yêu quá đời này” (Tôi ơi đừng tuyệt vọng), “tôi đang lắng nghe im lặng đời mình", (Im lặng thở dài), “Mỗi ngày tôi chọn một lần thôi, chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời”, (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui). Nhưng nhìn chung, càng về sau, ca từ Trịnh Công Sơn thấu hiểu cuộc đời, tự điều chỉnh mình bằng tình, kể lể nhiều hơn. Chất bi thương giảm hẳn, bù lại là một gắng gỏi tồn tại không vô nghĩa. Vẫn là triết lý về thân phận, tình yêu, nỗi cô đơn, nhưng ở một góc nhìn khác, một nỗi buồn khác. Yếu tố siêu thực trở nên nhạt nhoà so với sáng tác trước 1975. Cô đơn và trầm tư, nhạc sĩ đào sâu vào bí mật của tồn tại, vào việc giải thoát bản ngã. "Hai mươi năm xin trả nợ người, trả nợ một đời không hết tình đâu”. Những triết lý có phần yếm thế, dù đã gắng vui nhưng không mấy hồn nhiên. Và chẳng bao giờ giải thoát nổi cho mình ra khỏi sự rối rắm của ý muốn. "Tôi không bao giờ nhầm lẫn về sự khổ đau và hạnh phúc. Nhưng tôi thử rơi vào cơn hôn mê trước giấc ngủ. Ở biên giới đó tôi hoảng hốt thấy mình lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Những giây phút như thế vồ chụp lấy tôi mỗi đêm. Và tôi đau đớn nhận ra rằng, có lẽ cuộc đời đã cho ta lắm ngày bất hạnh. Mỗi ngày sống tới, tôi thấy đời sống nhỏ nhắn thêm", "Nhưng khỏi phải e ngại rằng Trịnh Công Sơn định làm triết lý thay vì âm nhạc" - nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bình luận. “Điều khiến cho tình ca Trịnh Công Sơn sống mãi trong lòng người chính là ở đây. Dù những trầm tư của tác giả đi xa đến đâu, âm nhạc Trịnh Công Sơn vẫn là cõi riêng dành cho tình yêu. Nó chứa đựng tất cả tâm trạng lo âu của con người nhạy cảm nhìn ra thế giới hiện đại".
Ca từ trong ca khúc Trịnh Công Sơn, như đã nói, là thơ. Ở đó
đầy rẫy những hình tượng biểu cảm: “Tóc em từng sợi nhỏ, rớt xuống đời làm sóng
lênh đênh”, hay “Vai em gầy guộc nhỏ như cánh vạc về chốn xa xôi”. Sự tìm tòi,
sáng tạo chữ nghĩa ở Trịnh Công Sơn luôn hướng về cái lạ, sự liên tưởng đột biến
để rơi vào cõi vô thức. Nhà thơ Nguyễn Duy từng nhận xét: "Quỷ thật, giai
điệu ấy, lời ca ấy tự nhiên ghim lại trong tâm tưởng tôi ngay từ phút bất chợt ấy.
Cái đẹp từ câu nhạc, cái đẹp trong ca từ cả xác chữ lẫn hồn thơ, lảng bảng, lờ
mờ, khó phân định đúng nghĩa, nhưng rõ ràng đẹp làm sao và cũng hơi ma quái thế
nào...” Chất mê muội nhiều xáo trộn của ngôn từ Trịnh Công Sơn làm nên sự kết
dính của liên tưởng. “Trí óc và cảm xúc của Trịnh Công Sơn phù hợp với tổng hợp
hơn là phân tích, nghiêng về kết hợp hơn là phân chia. Hình ảnh chiếc cầu đối với
anh là một lời mời gọi cất bước sang bên kia, đồng thời chuyển biến sang bên
này và ngược lại. Băng qua cầu là để sống với bên kia và nhớ sang bên này.
Trong nỗi sống đã tượng hình nỗi nhớ. Người đi trên cầu không những nhìn ôm cả
hai phía mà có thể nhìn cút bắt với những khuỷu sông thấp thoáng ẩn hiện, cấu tạo
dần dần trong tâm khảm cái dư cảm lìa xa, mất mát" (Bửu ý).
Nhịp điệu chậm rãi, quay tròn, đều đều, hễ bài hát cất lên là
người ta nhận ngay ra gương mặt Trịnh Công Sơn. Lúc là giai điệu buồn tẻ của
mưa, vòng xoay của hoài niệm, khi là tiếng nói âm u từ một cõi khóc, trầm khô.
Những khi dòng nhạc không làm chủ được giai điệu, cứ như xô lấn để dệt nên một
nỗi tuyệt vọng. Cũng có khi là tiếng thét, là nỗi hờn héo úa... Vui trong buồn,
buồn trong vui, những giai điệu quyến rũ là ở chỗ không biết nên phân loại vào
cấp độ tâm trạng nào. Người viết cứ than thở, giai điệu theo sau tán thưởng bằng
sự chơi vơi - đó là những nỗi buồn "không chân" bay rải rác la đà
trên mặt đất, trong một phút ngẫu hứng, Trịnh Công Sơn xâu chuỗi lại thành một
mê khúc mang âm hưởng những điệu hát Chàm ru hời về một vương quốc đã mất. Hay
là một chút réo rắt của nhạc cung đình Huế. Nhưng có một điều lạ, là cho dù âm
nhạc Trịnh CôngSơn luôn rủ rê người ta buồn rũ ra, không cười được, cũng không
khóc được, cũng chính là khi rệu rã nhất, người ta phải tự nạp năng lượng để
không rệu rã thêm và thoát ra khỏi cái mê cung buồn sầu ấy lúc nào không hay.
Cũng có khi nỗi buồn đó của giai điệu quấn quýt không rời và làm nên một niềm
an ủi vô cớ. Có phải là vì "Trịnh Công Sơn nắm bắt được tiết tấu bản chất
của Định mệnh kiểu phương Đông, đặc biệt Việt Nam trong nhịp bốn và năm âm tiết"
chăng? (Hoàng Hưng) . Hay nỗi buồn của con người cũng có giới hạn, như những âm
trầm khi đã chạm đến đáy sâu trầm nhất thì tất yếu phải dội lên, phải phản hồi
những cung bậc cao hơn?
Nói về cuộc gặp gỡ "tri âm" với âm nhạc Trịnh Công
Sơn, nhạc sĩ Văn Cao viết: "Tôi gọi Trịnh Công Sơn là người thơ ca
(Chantre), bởi ởSơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là
chính, cái nào là phụ. Và nơi Sơn đã hát về quê hương đất nước bằng cả tấm lòng
của một dứa con biết vui tận cùng những niềm vui và đau tận cùng những nỗi đau
của Tổ quốc mẹ hiền... Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc
cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc
thơ nó trào ra. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi “Trịnh
Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra”. Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công
Sơn có lẽ là ở chính chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một
triết học nào mà vẫn thấm vào lòng như suối tưới. Với những lời ý đẹp và độc
đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca
hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không
chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa. Và nếu không lầm thì dấu ấn
của Sơn đã ít nhiều in trên tác phẩm của một số nhạc sĩ thời kỳ sau 1975".
***
Sẽ không công bằng nếu như nhắc đến sự nghiệp của Trịnh Công
Sơn mà lại không nhắc đến một giọng hát thở than điêu luyện và vào bậc nhất cho
ca khúc Trịnh Công Sơn: Khánh Ly. Người ta không ai thoát ra khỏi những ám ảnh
mà không chỉ do nhạc, do lời ca mà do cả cái giọng khàn khàn trầm ấy cuốn hút.
Khánh Ly hát như thở, không uốn éo, làm duyên, nhưng lạ kỳ thay, tiếng hát làm
nên sinh khí cho ca khúc Trịnh Công Sơn, như cỏ và sương đêm vậy. Từ ca khúc phản
chiến đến ca khúc trữ tình, tất cả làm thành một không gian - Khánh Ly.
Không gian khói sương, cánh hạc bay vút, và đôi khi chán chường
ê chề, không thể khác. Tiếng hát Khánh Ly mà đã bủa vây thì không để lại một lối
thoát nào ra khỏi những gì mà lời ca đang than thở.
Hít một hơi thở sâu không khí tươi mát để thay vào những lời ca thán khí, đó là chất mới ở Khánh Ly. Đó là giọng hát từ quá khứ dội lại, đê mê và đầy liên lụy, không ảo tưởng nhưng lại đầy ẩn dụ. Có một thời bao nhiêu đồn đại, cho rằng Khánh Ly và Trịnh Công Sơn hẳn phải là một cặp tri âm tri kỷ kiểu như "Bá Nha - Tử Kỳ" mới cho ra những ca khúc và giọng hát ăn khớp nhau như thế. Nhưng theo Trịnh Công Sơn thì ngày trước, anh và Khánh Ly như hai người bạn thân. Mối giao cảm tinh thần chỉ dừng lại trong những khoảnh khắc xuất thần nhất của câu hát và bài hát. Còn hiện tại? Mỗi người ở một phương, nghĩ về nhau cũng như những nốt nhạc tuổi trẻ.
Hít một hơi thở sâu không khí tươi mát để thay vào những lời ca thán khí, đó là chất mới ở Khánh Ly. Đó là giọng hát từ quá khứ dội lại, đê mê và đầy liên lụy, không ảo tưởng nhưng lại đầy ẩn dụ. Có một thời bao nhiêu đồn đại, cho rằng Khánh Ly và Trịnh Công Sơn hẳn phải là một cặp tri âm tri kỷ kiểu như "Bá Nha - Tử Kỳ" mới cho ra những ca khúc và giọng hát ăn khớp nhau như thế. Nhưng theo Trịnh Công Sơn thì ngày trước, anh và Khánh Ly như hai người bạn thân. Mối giao cảm tinh thần chỉ dừng lại trong những khoảnh khắc xuất thần nhất của câu hát và bài hát. Còn hiện tại? Mỗi người ở một phương, nghĩ về nhau cũng như những nốt nhạc tuổi trẻ.
Song nếu nói rằng những mối tình đi qua đời Trịnh Công Sơn đều
nhàn nhạt để tàn phai là không phải. Thời trai trẻ, không chỉ một hình bóng Diễm
xưa, mà còn rất nhiều hình bóng khác đi vào ca khúc chàng lãng du họ Trịnh. Người
em của Bích Diễm là một kỷ niệm sâu đậm trong anh. Mối tình cuộn lên trong Biển
nhớ, Nắng thủy tinh dành cho Ngô Vũ Dao Ánh. Người con gái có đôi môi đỏ rực,
đôi môi hồng ngọc, là nỗi thảng thốt đầu đời của Trịnh Công Sơn trước cái đẹp của
người con gái. Khi Diễm đi lấy chồng, cô chị còn gửi lại lời than trách cho em:
"Em biết chị vẫn yêu anh Sơn, sao lại viết thư tỏ tình với anh ấy?"
Hoá ra cả hai đều say mê chàng lãng du họ Trịnh cùng một lúc. Về sau, Dao Ánh lấy
một người đàn ông thành đạt, sang sống ở Canađa. Một mối tình khác trong Nhìn
những mùa thu đi là dành cho Phương Thảo, cô gái Huế duy nhất trong đời Trịnh
Công Sơn. (Hầu như Trịnh Công Sơn thường phải lòng những cô gái miền Bắc, giọng
nói nhỏ nhẹ, tóc dài, dáng cao cao mảnh mai...). Thuở đó, anh làm gia sư tiếng
Pháp cho Thảo. Một mối tình với cái hôn đầu đời "luống cuống không biết đặt
vào chỗ nào". Rồi sau đó có nàng Phùng Thị với đôi khoen tai to tròn mà họ
Trịnh nhìn thấy trên cao nguyên Đà Lạt: “Ta thấy em đang ngồi khóc, khi rừng
chiều đổ mưa”...Những mối tình như nắng, bùng lên mãnh liệt rồi lại nhạt nhanh,
nhưng để lại không ít nỗi ngậm ngùi trong tâm hồn gã trai đã bán cho ca khúc mất
rồi...
Nhật Lệ
Nguồn: Trích từ Những người lao động
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét