Vũ trụ Phạm Tăng
Hội họa và thi ca, hai ngành nghệ thuật có những
tương quan mật thiết, nhưng hiếm hoi là những nghệ sĩ làm sáng tỏ được mối
tương quan đó trong tác phẩm của mình, từ Vương Duy.
Họa sĩ Phạm Tăng vào thơ, theo lời ông "chỉ để trò chuyện tâm sự với mình". Ông làm thơ tài tử. Sau hành trình hội họa dài của một họa sĩ Việt Nam, gây nhiều tiếng vọng bên trời Tây, tập thơ Phạm Tăng đầu tiên ra đời, như một món quà muộn.
Thơ kèm phụ bản: hai bức tranh tiêu biểu Phạm Tăng, tượng trưng quan niệm sống và sáng tạo nghệ thuật. Bức thứ nhất, họa sĩ đặt tên là Vũ Trụ, và bức thứ nhì, xin tạm gọi là Hữu Hình Vô Thể.
Người đọc sẽ không tìm thấy ở thơ Phạm Tăng những khám phá mới lạ về hình thức. Ông nói những chuyện đã cũ, cũ như trái đất, như hành tinh, như vũ trụ, như hạt cát, hòn sỏi, con người. Nhưng thơ ông có những tia "mắt sao"dõi buồn về một cố nhân xa:
Họa sĩ Phạm Tăng vào thơ, theo lời ông "chỉ để trò chuyện tâm sự với mình". Ông làm thơ tài tử. Sau hành trình hội họa dài của một họa sĩ Việt Nam, gây nhiều tiếng vọng bên trời Tây, tập thơ Phạm Tăng đầu tiên ra đời, như một món quà muộn.
Thơ kèm phụ bản: hai bức tranh tiêu biểu Phạm Tăng, tượng trưng quan niệm sống và sáng tạo nghệ thuật. Bức thứ nhất, họa sĩ đặt tên là Vũ Trụ, và bức thứ nhì, xin tạm gọi là Hữu Hình Vô Thể.
Người đọc sẽ không tìm thấy ở thơ Phạm Tăng những khám phá mới lạ về hình thức. Ông nói những chuyện đã cũ, cũ như trái đất, như hành tinh, như vũ trụ, như hạt cát, hòn sỏi, con người. Nhưng thơ ông có những tia "mắt sao"dõi buồn về một cố nhân xa:
Quê nhà từng mảnh con con
Khâu khâu vá vá đã mòn đường kim.
Khâu khâu vá vá đã mòn đường kim.
Hiếm có hình ảnh nào xa xót
quê hương đến thế. Mảnh đất Việt Nam, nhìn từ máy bay xuống, rất khác nhiều
nơi: làng xóm, ruộng đồng san sát, lỗ mỗ như ô ăn quan, không khác gì những
mảnh vá trên tấm áo nâu của người làm ruộng. Ngày đi, Phạm Tăng đã chụp tấm
hình kỷ niệm ấy, đem may thành áo. Quê hương không còn xa xôi nữa, mà trở thành
lớp da thứ nhì, đắp lên mình, mang theo cùng trời, cùng đất. Ở những bước dừng,
chiếc áo da vàng đã sứt chỉ, sờn vai, người nghệ sĩ lại tìm kim, vá thêm lần
nữa, khâu những đường mòn vụn rách, ráp những thửa ruộng, mảnh vườn, bờ tre,
bụi nước... Từ tấm áo da nhầu nát quê hương, ông sống, ông đi....
Thơ ông vẽ con
đường nghìn trùng hải lý về những chuyến đi "nửa phiêu lãng, nửa
lưu đầy". Không hành khách. Không hành lý. Không cả con người:
Hành trang đến cả linh hồn cũng dư
Hành trang hữu cơ và tâm cơ
không cần thiết, nhưng hành trang thơ có họa. Họa làm sáng thơ và thơ khơi mạch
cho họa. Cả hai giao ứng trong đồng thuận và nghịch lý như một trắc họa nghiệm
sinh những triền miên trăn trở của con người: Từ cái không đến cái có, cái
riêng đến cái chung, cái hữu hình đến cái vô thể.
Từ niềm đau riêng
của một Phạm Tăng lưu vong gần trọn cuộc đời, toát ra cái đau chung của cõi
người lưu vong trong chính bản thân mình. Từ nỗi đau riêng của một mối tình đứt
đoạn, rạng nở bình minh những mối tình miên viễn, thực thụ hiện hình sau cái
chết. Những đối cực ấy, Phạm Tăng thể hiện song song trong họa và thơ. Dường
như trong thơ đã có họa và trong họa đã có thơ như lời Tô Ðông
Pha nói về Vương Duy ngày trước.
Phạm Tăng họa như
thế nào?
Xé mây làm vải vẽ
Chấm mực nghiên mặt trời
Chấm mực nghiên mặt trời
"Ngông" thì vẽ thế. "Tuyệt vọng"
vẽ rằng:
Năm đầu tay xé rách không gian
Về bức tranh Vũ Trụ, Phạm Tăng đề:
Trông lên thiên thể bao la
Nhìn vào sâu thẳm trong ta mịt mùng
Xác thân: vạch nối đôi vùng
Khoát tay một nét: cuộn vòng càn khôn.
Nhìn vào sâu thẳm trong ta mịt mùng
Xác thân: vạch nối đôi vùng
Khoát tay một nét: cuộn vòng càn khôn.
Một vũ trụ ngông trong
thơ, trong họa, trong chuyển động và tư tưởng. Ngoảnh lên nhìn tranh, người xem
không biết tranh minh họa thơ hay thơ phụ đề tranh. Cả hai tạo thành một chủ
đề, một cơ cấu, một càn khôn ngông, thách đố giữa con người và vũ
trụ, giữa cái nhỏ vô song và cái lớn vô cùng.
Hội họa Phạm Tăng
khởi hành từ những vi phân, vi bản, từ những nguyên tử, những tế bào của sự
sống để đi đến cái vĩ mô trong vũ trụ phổ quát. Tất cả vận hành trong không
gian thiên di, thời gian biến động: Dòng đời cuồng lưu, vũ trụ càn khôn. Giữa
cuồng và càn, con người truân chuyên, vận chuyển, bức tranh Hữu Hình Vô
Thể, phác họa hành trình của luân hồi:
Trăm ngàn vạn ức cái ta
Chết trong lúc trước thành ta lúc này
Ngừng đây nhưng vẫn vần xoay
Nằm đây nhưng vẫn tung bay khắp trời
Chết trong lúc trước thành ta lúc này
Ngừng đây nhưng vẫn vần xoay
Nằm đây nhưng vẫn tung bay khắp trời
Ở Phạm Tăng, người đi trong
vũ trụ như một tinh thể, như tế bào vận hành trong da thịt, và như con người
luân hồi trong dĩ nghiệp tử sinh truyền kiếp:
Ði từ đâu? Ðể về đâu?
Trong vị trí
thiên di ấy, con người tự bản chất đã mang dư vị "lưu vong"
Ði hoài sao? Liệu có chăng đường về
Ðêm đêm ngẩng mặt tìm Quê
Hỏi thầm sao rụng sao về nơi đâu?
Ðêm đêm ngẩng mặt tìm Quê
Hỏi thầm sao rụng sao về nơi đâu?
Lạc loài trong vũ trụ càn
khôn, trạng thái lưu vong gắn liền với số phận, vận mệnh, trở thành một định
mệnh, một thiên thể, một hằng sáng. Trước Phặm Tăng, Thanh Quan đã "lưu
vong" trên đất nước: Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc. Cùng
Phạm Tăng, Ðặng Ðình Hưng đã sống "lưu vong" trong quản thúc suốt
đời: Những chiếc va-li cứ về bến lạ. Lưu vong, do đó, đối với nhà
thơ không phải chỉ là sự "ra đi" hiện thực và lý tính, mà còn ẩn
những viễn du trong tâm linh, trong nội tại:
Nghe trôi, không biết trôi mình về đâu.
Về "lưu vong",
người Việt hải ngoại đã tốn nhiều giấy mực, bàn cãi, sáng tác... Nhưng mấy ai
viết được ngắn gọn và sâu xa như thế?
Nửa trời nửa nước chênh vênh
Thấy mình trôi giữa mông mênh: cũng mình
Thấy mình trôi giữa mông mênh: cũng mình
Lưu vong, đối với Phạm Tăng,
dường như không những là sự vận chuyển con người trên trái đất, trong không
gian tinh cầu, mà còn là hành trình du lịch trong thời gian, từ thuở sơ sinh
đến lúc bạc đầu: Lang thang khắp mặt địa cầu.Thịt xương: áo đã ngả màu
hoàng hôn. Với người lữ hành đặc biệt ấy, những chuyến đi ngoài trùng
lấp những chuyến đi trong: Chỗ đâu chứa cả thế gian trong lòng.Với
người lữ hành đặc biệt ấy, đi nhiều, bụi trần đã ngấm vào lục phủ ngũ tạng:
Trong ta cũng bụi, rũ hoài chưa ra. Ði mòn, đi mãi, nhưng sau mỗi hành trình
hỏi rằng: Chép lại gì chăng? Một chữ: Không. Thế còn tranh? Vẽ
bao nhiêu mộng không đầy khoảng không.
Và như thế, hư
vô trở thành định mệnh thứ nhì mà người nghệ sĩ đem vào cuộc sống lưu
vong trường cửu của mình:
Thôi chuyến đi này, đi tay không
Tội chi tay xách với vai gồng
Thịt xương trút gánh hành trang nặng
Xóa cả linh hồn: con số không
Không cái tôi này, không xác thân
Không sau, không trước, chẳng xa gần
Không đi, không đến, không còn mất
Vũ trụ và tôi, một, bất phân
Tội chi tay xách với vai gồng
Thịt xương trút gánh hành trang nặng
Xóa cả linh hồn: con số không
Không cái tôi này, không xác thân
Không sau, không trước, chẳng xa gần
Không đi, không đến, không còn mất
Vũ trụ và tôi, một, bất phân
Tại đây, vũ trụ quan và nhân
sinh quan của người thơ, người họa đã giao hòa thành một khối hư vô:
Soi gương, bóng ảnh, bóng mình... đều
không.
Phạm Tăng gặp gỡ
lưu vong trong định mệnh, trở thành bạn đời, nẩy sinh quý tử: cô đơn. Cô đơn là
"thế hệ thứ nhì", là con đẻ của nỗi đau thơ và họa. Và là bản thể của
sáng tác:
Sống cô đơn, chết một mình
Trí tâm thác loạn - xác hình quặn đau
Xé từng chữ - nghiến từng câu
Xoáy từng nét bút, khoan sâu từng lời.
Trí tâm thác loạn - xác hình quặn đau
Xé từng chữ - nghiến từng câu
Xoáy từng nét bút, khoan sâu từng lời.
Niềm đau của họa sĩ không còn
là nỗi đau trừu tượng nữa, mà đã trở thành vật thể, một kết tinh máu thịt,
xương da, toát ra từ tinh lực của cây cọ, ngòi bút: Ðục sầu, khoét khổ,
đầu tay. Từ hoàn cảnh riêng tư của tác giả, nỗi đau trở thành một sinh
linh, có tâm thức, tri thức và hành động. Nỗi đau tự tạo: Trăm năm khơi
một nguồn đau tự mình, trở thành đời sống thứ nhì, hướng về căn cước của
sáng tạo: cái chết.
Ði vơ vất giữa đêm trường ngơ ngác
Tìm xương thịt để trở về nhập xác
Ta rùng mình hun hút gió tha ma
Trong mê cuồng ta gặp chính hồn ta.
Tìm xương thịt để trở về nhập xác
Ta rùng mình hun hút gió tha ma
Trong mê cuồng ta gặp chính hồn ta.
Ðã Hàn Mạc Tử, rồi một Ðinh
Hùng, giờ đến Phạm Tăng, kết tinh niềm đau đến mức thượng thừa, thác loạn:
Ôi Thượng Ðế! Tôi vô cùng đau khổ
Sao sinh tôi cùng một thuở sinh em.
Thổi linh hồn, cát bụi chắp nên duyên
Yêu tuyệt đối, nên căm hờn vĩnh viễn.
Sao sinh tôi cùng một thuở sinh em.
Thổi linh hồn, cát bụi chắp nên duyên
Yêu tuyệt đối, nên căm hờn vĩnh viễn.
Từ sự cách biệt âm dương, xa
lìa thân xác, phát xuất niềm đau. Tuyệt đối. Edgar Poe. Nhưng cũng chính từ
niềm đau tuyệt đối đó, người nghệ sĩ khám phá chân lý. Chân lý lóe sáng như một
trực giác, một niết bàn, một Poe-Phật:
Anh chợt hiểu ra
Mộ cũ ngày xưa
Chỉ là nơi em trút bỏ thân hình
Ðể sát nhập vào anh
Kết tình thương làm một.
Chết có nghĩa là thay hình bỏ lốt
Cho tâm linh nhẹ gánh thịt xương
Hình hài ta nay là cát bụi vướng trên đường
Làm mờ ám chân tâm thanh khiết.
Giũ thân xác để linh hồn hợp nhất
Em còn đây
và sát nhập trong anh...
Mộ cũ ngày xưa
Chỉ là nơi em trút bỏ thân hình
Ðể sát nhập vào anh
Kết tình thương làm một.
Chết có nghĩa là thay hình bỏ lốt
Cho tâm linh nhẹ gánh thịt xương
Hình hài ta nay là cát bụi vướng trên đường
Làm mờ ám chân tâm thanh khiết.
Giũ thân xác để linh hồn hợp nhất
Em còn đây
và sát nhập trong anh...
Sự thức tỉnh kể như toàn
diện, vì từ nay, không cần tìm nữa: em chính là Tâm, mà Tâm chính là em: Ði tìm
đâu nào biết ở trong Tâm?
Sự thức tỉnh
không chỉ ở mức độ âm dương sát nhập, giao hòa, mà còn đến cả với vũ trụ vi
tinh, vi thể. Hình ảnh giao duyên "mắt sao" lạ và đẹp. Họa sĩ lồng
sao trong mắt, lồng mắt trong vũ trụ, tỏa cái nhìn phổ quát, hòa đồng tinh thể
và con người, hòa con người với bao la vũ trụ. Trong bối cảnh tâm - thân - vũ -
trụ hợp nhất, không rõ đâu là vật thể, đâu là khách thể. Tất cả bật ra một dấu
hỏi: Sao? Âm vang phiếm định, hư vô, huyền bí, mà chung nhất,
bởi trong - ngoài - có - không, từ thuở tiên thiên vẫn chỉ là một:
Tưởng đâu vũ trụ vô hình
Cớ sao thao thức như mình trắng đêm?
Vòm cao thăm thẳm vô biên
Có sâu hơn chốn u huyền trong ta?
Trong ngoài - cách một lần da
Sao hơi thở vẫn chan hòa chuyển thông?
Bên ngoài lẫn với bên trongMắt sao hay mắt mình trông lại mình?
Ta - sao, đồng cảm đồng tình
Cả hai chung một cái mình bao la.
Cớ sao thao thức như mình trắng đêm?
Vòm cao thăm thẳm vô biên
Có sâu hơn chốn u huyền trong ta?
Trong ngoài - cách một lần da
Sao hơi thở vẫn chan hòa chuyển thông?
Bên ngoài lẫn với bên trongMắt sao hay mắt mình trông lại mình?
Ta - sao, đồng cảm đồng tình
Cả hai chung một cái mình bao la.
Tuy nhiên sự xác định không
có trong thơ. Thơ chỉ là phiếm định và những dấu hỏi. Người nghệ sĩ đặt những
câu hỏi từ đầu đời đến cuối đời. Không lời giải đáp.
Khi chưa xương thịt, nơi nào ngụ?
Ðến lúc tàn tro, có chốn bay?
Ðến lúc tàn tro, có chốn bay?
Mà nghệ thuật cũng chỉ là một
dấu hỏi. Nói thế không sợ phật ý Phạm Tăng, bởi chính nhà thơ báo trước với
chúng ta:
Những lời thơ, thực là thơ
Chưa từng viết, chẳng bao giờ viết nên
Như lời nguyện ước không tên
Ở ngoài sự vật, bên trên cuộc đời.
Chưa từng viết, chẳng bao giờ viết nên
Như lời nguyện ước không tên
Ở ngoài sự vật, bên trên cuộc đời.
Phải chăng đây là một trong
những định nghĩa sâu xa nhất của thi ca nói riêng, và của nghệ thuật nói chung?
Mà chỉ những nghệ sĩ đã "xoáy từng nét bút" "khoan sâu
từng lời" mới cảm thấy những mịt mùng, bấp bênh, chênh vênh, vô
thường trong sáng tạo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét