Tô Hoài - Chuyện về văn hóa Việt
Người Việt chơi hoa
Chào và hỏi
Văn hóa quanh mâm cơm
Vừa quen vừa lạ
Lố lăng quen mắt
Không ra mẽ gì
Trò đú nhảy lắc
Biết người để hiểu mình
Chào và hỏi
Văn hóa quanh mâm cơm
Vừa quen vừa lạ
Lố lăng quen mắt
Không ra mẽ gì
Trò đú nhảy lắc
Biết người để hiểu mình
Tô Hoài viết nhiều và để lại được không ít tác phẩm giá trị.
Nhân nhà văn vừa qua đời, chúng tôi tự
hỏi: nhớ cái viết của ông, nhớ nhất những gì?
Hỏi đi hỏi lại, thấy ngoài một số truyện
và ký, lòng mình còn không sao quên được độ chục phát biểu rải rác đó đây nói
lên cảm nghĩ của Tô Hoài về văn hóa Việt Nam truyền thống.
Cái văn hóa cũ của dân tộc ta, nhà văn rất
hiểu nó nên không hề rẻ nó, có khi còn nhẹ nhàng đặt nó lên trên những nền văn
hóa nổi tiếng ầm ĩ. Ông yêu nền nếp Việt nghìn năm tha thiết, nên dĩ nhiên đã
không khỏi "đau lòng" trước "cuộc bể dâu" tinh thần cực kỳ
dâu bể đang diễn ra hết sức gấp rút trên khắp quê hương bắt đầu từ khoảng cuối
thế kỷ 20.(1). Ông ít lời
nhưng bày tỏ minh bạch đánh giá về một số "điều trông thấy". Đọc ông,
hẳn có những người Việt Nam... hả dạ.
Sau đây chúng tôi tập hợp những phát biểu
nói trên của Tô Hoài cùng chút cảm nghĩ của mình về chúng thành tạm gọi nén tâm
hương đưa tiễn.
Người Việt chơi hoa
Đọc Tô Hoài viết về lối chơi hoa xưa kia
của người Việt mà bắt thèm... ngửi.
Liệu những mùi "thơm ngan ngát, thơm
nồng nàn, thơm thoảng" có bao giờ trở lại với vườn hoa Việt Nam nữa không?
Mùi hoa, mà như chính mùi của cái văn hóa
tinh thần một thời...
Hương là đặc điểm vườn hoa Việt Nam (...)
Vườn hoa ta có mùi hoa, "vườn hoa Tây" chỉ chuộng màu, màu sắc không
(...) kém ý nhị (...)
Cánh hồng rụng xuống (...) như tơ hương
bay (...) Hoa ngâu hoa lan tới độ chín đứng gần chỉ thoang thoảng thế mà đằng
cuối gió (...) sực nức mùi hoa mát cả ánh trãng đêm hè (...) Hoa sói thơm ngọt,
hoa nhài thơm gời gợi (...)
Vườn hoa Việt Nam (...) bốn mùa thơm (...)
sáng sớm đêm khuya đưa thơm dậy một vùng (...)
Vừa rồi, vãng cảnh chùa Tây Phương, thấy
bể nước sân chùa, bờ tường, trồng những khóm cây lá đuôi lươn, lá đốm. Hỏi nhà
chùa có biết những cây ấy không? Sư bà cười, trả lời: chỉ biết những cây này
khỏe, dễ trồng. Chùa chiền - những am thanh cảnh vắng vốn xưa thơm nhẹ nhàng
mùi hoa mộc, hoa ngâu, hoa móng rồng... -, nay người ở chỉ nghĩ qua loa thế về
hoa và cây, thì còn ra thế nào (...)
Trong các công viên hiện nay mùi hoa chưa
được chú trọng xứng đáng (...) Công viên Việt Nam (nên) là kiểu vườn (truyền
thống) đã có màu đẹp hợp mắt, lại có mùi thơm ngan ngát, thơm nồng nàn, thơm
thoảng, khác với công viên kiểu Pháp, kiểu Anh chỉ chú trọng có màu.
(Trong Bút ký và Chuyện
cũ Hà Nội)
Chào và hỏi
Nền nếp Việt Nam nghìn năm đấy, cao kém gì
ai.
Cái nền mới của ta, nó sẽ ra sao nhỉ?
Một khối liền lạc, chặt chẽ, chứa chủ yếu
là chất Việt với một số yếu tố ngoại nhập đã được Việt hóa đến nơi đến chốn?
Hay một đống lổn nhổn những cục, những
mảnh, những vụn nền Tàu nền Tây?!
Câu tục ngữ "tay bắt mặt mừng" ý
rằng lâu không gặp nhau, vẫn nhớ nhau nên mừng rỡ nhìn mặt nhau nắm tay nhau
(...) không giống "bắt tay" theo phép chào hỏi của người châu Âu
(...) Tuy nhiên, việc bắt tay như một thói quen ngoại nhập đã được Việt Nam hóa
và phổ biến hợp với "tay bắt mặt mừng" của ta (...)
Phong tục chắp tay chào hỏi của ta đã có
từ lâu (...) đón khách hay tiễn khách, chủ nhà bước ra, hai bàn tay úp chắp nhẹ
nhàng vào nhau, hơi cúi đầu (...) Hai chữ chào và hỏi nghĩa là: chào người
trên, người ngang vai, và hỏi người dưới. Không chào người dưới, nhưng thường
ngỏ lời: Thế nào, hồi này con (chú, cháu) có khỏe không, vẫn đi học chứ? (...)
Chào hỏi là bước giao tiếp đầu tiên và quan trọng vì người gặp sẽ nhớ mãi, cho
nên đã có câu "lời chào cao hơn mâm cỗ" (...) Ngoài đường, trong làng
hay trong phố cũng thế (...) họ hàng, láng giềng và quen biết (...) đều chào
hỏi nhau. Với các cụ ông cụ bà, các vị cao tuổi (...) miễn là biết mặt, biết
tiếng, đều lễ phép chào. đương đi nhanh, bước chậm lại, dừng lại, chắp tay (trẻ
con, học sinh thì khoanh tay) cất tiếng chào (...) Khi chào, khi hỏi, không nói
cộc lốc, trống không. Nói như thế, thà không nói (...)
Bây giờ chểnh mảng nhiều (...)
(Trong Chuyện cũ Hà Nội)
(Trong Chuyện cũ Hà Nội)
Văn hóa quanh mâm cơm
Bữa cơm là một dịp cả nhà sinh hoạt với
nhau, tất nhiên đầy nền nếp.
Bấy nhiêu nền nếp thể hiện cái tinh thần
"hòa nhã". Mọi người "hòa" với nhau, từng người thì
"nhã".
Ngồi ãn thế, dù không miếng ngon lòng cũng
thấy vui.
Mâm cơm (...) mỗi thứ bày ra đều có chỗ
nhất định. Bát nước chấm đặt giữa. Không để bát cà, bát dưa, những thức ãn kém
giá trị trước mặt người cao tuổi, người trên. Hai bát canh không đặt liền nhau
(...)
Ông bà, cha mẹ ngồi trên, anh chị em ngồi
giữa, lẫn với trẻ con, cũng có khi ông bà hay cha mẹ chiều chuộng, cho con bé
cho cháu ngồi cạnh, vợ chồng ý tứ không ngồi bên nhau, nàng dâu và con gái giữ
chân đầu nồi xới cơm cho cả nhà. Trẻ con lấy đũa so cho mọi người, đặt đầu đũa
to ra ngoài (...)
Vào mâm thì ai cũng mời ăn. Ông bà bề trên
nhất thường nói một câu vui: "Cả nhà ăn cơm nào". Mọi người lần lượt
mời bậc cao tuổi trước. Không phải mời người dưới thứ bậc mình (...)
đưa bát cơm vừa xới cho người vai trên,
đưa hai tay. Gắp thức ãn thì tránh gắp chen đũa (...) Không chãm chắm chỉ gắp
liền một món - nhất đấy lại là đĩa thịt gà nhất mâm (...) Gắp thức ãn chấm nước
mắm không đưa thẳng lên miệng, mà đặt thức ãn vào bát đã, rồi mới và (...)
đừng tưởng chỉ người châu Âu mới chú ý
nhai kín miệng, nhai không thành tiếng. Người Việt Nam nhã nhặn không nhai nhồm
nhoàm, nhai tóp tép và không vừa miệng lúng búng nhai vừa nói chuyện (...) Cũng
không gõ đũa cả, đũa con canh cách, không cắm đũa vào giữa bát cơm mới xới,
không vét nồi cơm cồn cột, không cầm thìa húp canh xùm xụp (...)
Ãn xong, đặt bát đã sạch xuống, để ngang
đôi đũa, nói: "Cháu (con) xin phép ạ" rồi mới đứng dậy. Ra rửa miệng
(hoặc lau miệng) và lấy tãm, uống nước. Không hếch môi xỉa quèn quẹt như chải
răng.
(Trong Chuyện cũ Hà Nội)
Vừa quen vừa lạ
Ấy, bây giờ cái bánh tẻ Sơn Tây thỉnh
thoảng "về", còn có "người ăn đông tíu tít", chứ độ mươi
nãm nữa dịp nào đấy nó lại về, e quang cảnh sẽ... tẻ hơn nhiều.
Cái bánh cái kẹo thế, cái thơ cái nhạc
v.v. cũng y như thế. Cũng "tràn lan các nơi" những thứ từ nước nọ
nước kia, trong khi những thứ "vốn quen thuộc quanh ta thì mất hút chẳng
thấy đâu".
Món ngoại thì món Tây được người Việt Nam
quý nhất, bất kể mới hay cũ. Ta đang hết sức nhanh chóng lạ quá khứ của mình và
hết sức nhanh chóng quen cả hiện tại lẫn quá khứ của Tây!
Thua vật chất, mất tinh thần (khiếp), bỏ
tinh thần (của mình đi), rước tinh thần (của người về)!
Bây giờ tràn lan các nơi những kẹo và
bánh. Bánh Trung Quốc, bánh Thái-lan, bánh Ma-lai-xi-a, lại có cả bánh quy bơ
Hy-lạp nữa. Những cái bánh cái kẹo vốn quen thuộc quanh ta thì mất hút chẳng
thấy đâu.
Trong hội ẩm thực Hà Nội ở Bách Thảo tháng
trước nhà hàng bày bán các bánh tẻ Sơn Tây gạo ngon (...) người ãn đông tíu
tít, vừa quen vừa lạ miệng.
Cái quen và cái lạ ấy, các nhà giỏi về cái
ăn cái uống nên nghiên cứu, nó là cái ngon quen thuộc lâu năm của ta, nó khác
với cái kẹo, cái bánh xanh đỏ bọc giấy bóng ở đâu mang về.
(Trong Giấc mộng ông thợ dìu)
Lố lăng quen mắt
Tô Hoài viết mấy dòng này muộn nhất là vào
năm 2000. Lúc ấy "mọi cung cách" còn "đương lan dần đến các làng
xóm xa".
Bây giờ, nãm 2011, coi như đã lan xong đâu
đấy cả rồi, các làng xóm xa nhất cũng đã thấm thực kỹ rồi.
Người Việt Nam vốn có trang phục đẹp đẽ
kém gì ai, thế mà cởi hết, tụt hết, để rước hết của người về!
Tiếc, nhục, buồn quá, ta ơi!
Váy năm tầng trắng toát, mặt trùm chàng
mạng (...) (Trang phục cưới) như thế là bắt chước phim ảnh nước ngoài, đầu tiên
bị xì xào là lố lăng, thế mà rồi cũng quen mắt (...)
Hiện nay mọi cung cách quần áo tân thời ở
thành thị đáng chê cười đương lan dần đến các làng xóm xa.
(Trong Chuyện cũ Hà Nội)
Không ra mẽ gì
Người Việt Nam bắt đầu mặc Tây đã được
hàng trăm năm, đàn ông đi tiên phong... Nhưng mãi đến gần cuối thế kỷ 20, không
kể trong thời chiến ở ngoài Bắc, vào ngày cưới đông đảo phụ nữ Việt Nam còn
chọn mặc trang phục truyền thống. Hết rồi, bây giờ cô dâu ở ta trông y hệt như
cô dâu bên Tây.
Chỉ thua súng, mà rồi mất khăn mất áo mất
quần, mất tận yếm, khố, mất trong ngày thường, mất luôn trong cái ngày nói
chung đặc biệt nhất của một đời người!
Tất nhiên "không ra mẽ gì" là
cả... nút Á Đông, chứ chẳng riêng ta.
Người Việt Nam mặc Tây không ra mẽ gì.
Trò đú nhảy lắc
Trước kia người Tây phương khiêu vũ trông
văn minh (và "vệ sinh"). Thế rồi họ "tiến" từ van xờ v.v.
qua đú nhảy lắc. Người Việt Nam không có truyền thống khiêu vũ. Khi ta mới gặp
Tây, Tây còn van xờ, ta bắt chước van xờ, sau đó Tây "tiến" đến đâu
ta "tiến" theo sát sạt đến đấy...
Trông "đú nhảy lắc", rồi xem lại
hát quan họ, khó tin là vẫn cùng một giống người!
(Cái từ ấy gợi ghê. Không biết có phải
sáng tạo của Tô Hoài?)
Vẫn có nhảy đấy. Nhưng cái đó là trò đú
nhảy lắc mất vệ sinh và thiếu văn minh.
(Trong Giấc mộng ông thợ dìu)
Biết người Để và Để...
đọc hay đi là để gặp cái có thể gợi ý cho
mình làm ra cái mới của mình.
đọc hay đi cũng là để có cái mà so cho dễ
biết mình hơn.
đáng ra thì thế. Nhưng luôn sẵn những
người hễ đọc vãn thơ Tây xong thì bắt đầu viết vãn thơ Tây... giả cầy, mà hễ đi
Tây về thì bắt đầu kêu ở quê hương có lắm chuyện khó hiểu!
đọc ngàn vạn đông Tây cũng chỉ để tham
khảo. Những ý lớn có thấm vào ta cũng chỉ để phát triển ý của ta. Một người
từng đi nhiều nơi, khi trở về quê hương, chỉ càng thấy sâu sắc được nhiều mặt
quê hương mình hơn.
(Trong Sổ tay viết văn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét