Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2017

Trịnh Công Sơn, người tình vĩnh cửu

 Trịnh Công Sơn, người tình vĩnh cửu 
Gần đây, thỉnh thoảng tôi nhận những cú điện thoại hỏi về tình hình sức khỏe của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, thậm chí người ta còn nghe tin đồn là anh đã mất. Và chiều nay, một người bạn từ Sài Gòn điện ra báo tin Trịnh Công Sơn đã vĩnh biệt cõi đời lúc 12giờ 45 phút. Vẫn biết là anh có thể ra đi bất cứ lúc nào, vậy mà tôi vẫn hy vọng đấy chỉ là một cái tin của "ngày nói dối” (ngày l-4).
Ngay cả khi anh không còn trên cõi đời, tôi vẫn cứ tin rằng anh không chết. Bởi Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tài hoa, một Con - Người - Thơ - Ca (theo cách gọi của nhạc sĩ Văn Cao), một cuộc đời hoá thân vào nghệ thuật xưng tụng thân phận và tình yêu của mọi kiếp người. Âm nhạc của anh mang sức mạnh và sự mềm mại của Nước, len lỏi vào tận tâm hồn sâu thẳm của người Việt đánh thức tình yêu quê hương xứ sở, đồng thời anh cũng là "Người tình lãng du của nhiều thế hệ"(*)
* chữ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Không có một nhạc sĩ Việt Nam nào được hát nhiều như Trịnh Công Sơn. Anh cũng là nhạc sĩ chiếm kỷ lục về số lượng băng (ra phát hành trong cả nước và nước ngoài suốt hơn 40 năm qua kể từ bài hát đầu tiên mang tựa đề Ướt mi (NXB An Phú - Sài Gòn 1959). Năm 1972, bài hát Ngủ đi con trong tập Ca khúc Da Vàng của anh được Đĩa vàng ở Nhật với số lượng trên 2 triệu bản. Tên tuổi Trịnh Công Sơn luôn hiện diện trên những trang báo hút hồn bạn đọc. Âm nhạc của anh vang lên từ các tụ điểm ca nhạc, trên sân khấu lớn, trong quán hàng, trên xe ôm, len lỏi vào tận giường ngủ của mỗi nhà, dầm dề như mưa Huế quê anh, bất tận như điệu thơ lục bát không bao giờ chấm dứt. Tên những bài hát của anh biến thành những tên quán của yêu thương và hâm mộ: Biển nhớ, Hạ trắng, Diễm xưa, Mưa hồng, Nguyệt ca, Ru tình, Ướt mi, Tình nhớ, Quỳnh hương, Nối vòng tay lớn, v..v.. Còn tên anh thì được ghi trong bộ từ điển Bách khoa Pháp: Encyclopédie de tous les pays du monde.
Nhiều khi tôi tự hỏi, vì sao mà Trịnh Công Sơn được công chúng hâm mộ đến thế? Có lẽ chính anh là một nhà thơ được hát lên. Ca từ của anh không chỉ giàu chất thơ như người ta thường nói, mà đấy là những bài thơ thực sự, những bài thơ thấm đẫm triết lý về cuộc sống, về tình yêu, về sự sinh ra và trở về Cát Bụi của phận người ngắn ngủi. Nhưng đấy là những bài thơ riêng biệt phong cách Trịnh Công Sơn, luôn vặn lùi thời gian để được sống hết mình. Nếu đem in 500 bài hát của anh, ta sẽ có một tập Thơ Trịnh Công Sơn dày ngót nghìn trang. Và ta không ngạc nhiên rằng khi được nhờ chọn một số bài thơ tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc tiến cử lời ca Đêm thấy ta là thác đổ của Trịnh Công Sơn. Nhưng khi những lời thơ ấy được hát lên bằng nhạc của chính tác giả, thì nó bỗng trở thành những câu kinh bất hủ. Và người ta nói rằng, âm nhạc của anh là những bài kinh cầu bên vực thẳm về thân phận và tình yêu.
Nhưng không chỉ có thơ có nhạc, Trịnh Công Sơn còn có cả một kho báu về hội họa với bút pháp thật tài hoa. Anh vẽ trong các cuộc rượu với bạn bè. Khi mà linh hồn đã ngấm men, anh vẽ thật nhanh, thật đẹp những chân dung mà anh yêu mến. Vẽ. Rồi đề tặng. Rồi ký cái chữ ký thật quen thuộc. Bạn bè được anh vẽ, mang về lồng khung treo lên tường lưu giữ một tình cảm, lưu giữ hồn anh. Nhưng dù chỉ là cuộc chơi hội hoạ, Trịnh Công Sơn đã tạo ra nhiều phòng tranh sơn dầu gây ấn tượng không ngờ với hội họa chuyên nghiệp. Có phòng tranh của anh đến khi kết thúc, không còn một bức nào để mang về. Người ta mua tranh vì yêu thương, lại cũng vì khâm phục. Hàng trăm bức tranh của anh lưu lạc khắp thế giới. Điều đó thêm một lần mách bảo rằng, Trịnh Công Sơn vẫn sống!
Tôi đã nhiều lần nghe nhạc Trịnh Công Sơn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, nhưng mãi đến năm 1976 mới được gặp anh. Lúc ấy tôi đóng quân ở vùng núi Lệ Kỳ (Quảng Bình), Trịnh Công Sơn cùng với bạn bè văn nghệ đã đạp xe leo núi đến thăm và anh ôm đàn hát Nối vòng tay lớn. Cả đoàn nghệ thuật của tôi đã vỗ tay hát cùng anh. Tôi cũng đã cùng anh đến nghĩa trang dưới chân núi Ngự Bình (Huế) thăm mộ ông cụ thân sinh của anh, và tôi được biết ở chính nghĩa trang này vào năm 1974 anh đã sáng tác bài Một cõi đi về với những chiêm nghiệm thật sâu sắc về phận người: “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm một cõi đi về". Và lần gặp anh cuối cùng là trước Tết Tân Tỵ ở Sài Gòn, lúc ấy anh cùng vợ chồng người em gái ngồi ở một quán trà thật tĩnh lặng để dưỡng bệnh chốc lát. Anh khoe với tôi là tăng được hai ký. Vẫn nụ cười lộ chiếc răng khểnh hiền lành, dễ thương, và anh hy vọng sẽ viết được một cái gì đó ngay sau lần ốm nặng này.
Nhưng Trịnh Công Sơn đã không chống nổi số phận. Âm nhạc, thơ ca và hội họa của anh sẽ lãnh trách nhiệm sống tiếp đời sống của anh, đúng như anh ước nguyện lúc sinh thời: "Sống giữa đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu, để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá Đời".
Hà Nội đêm 1-4-2001
Nguyễn Trọng Tạo
Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn
Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là Nhạc Sĩ chứ chưa thấy ai gọi anh là Nhà Thơ dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi anh là "Người thơ-ca" hay "Người hát thơ", nghĩa là anh là người tác hợp giữa thơ và nhạc.b Nhưng với tư cách là một nhà thơ, tôi đã khảo sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định rằng, anh chính là một Nhà Thơ đích thực. Cho dù khi sáng tác ca khúc, Trịnh Công Sơn có thể viết lời và nhạc cùng một lúc, hoặc có đoạn lời viết sau khi đã có nhạc, hay trước khi “phổ nhạc”, thì mỗi lời ca của anh đều là những bài thơ hoàn chỉnh kể cả về ý, tứ, cấu trúc, ngôn từ và cảm xúc.
Mà Trịnh Công Sơn không phải là một nhà thơ bình thường - nhà thơ như Từ điển tiếng Việt định nghĩa: là người chuyên sáng tác thơ và đã có tác phẩm có giá trị được công nhận - mà anh là Nhà Thơ vô cùng độc đáo ôm chứa tư tưởng nhân sinh và thời cuộc với một thi pháp khá riêng biệt trong thơ Việt.
Trịnh Công Sơn rất nhuần nhuyễn trong các thể thơ truyền thống như lục bát, đồng dao, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn, bát ngôn và thơ tự do; và nhiều khi anh kết hợp rất tài tình nhiều thể thơ trong một bài thơ mà hết sức trôi chảy nhờ nhạc điệu và lối gieo vần đầy cảm hứng trong âm nhạc. Ngay từ lần đầu tiên nghe ca khúc “Ở trọ”, tôi đã phát hiện ra đấy là một bài thơ lục bát rất tài hoa, nếu bỏ đi những âm đệm "i a í a" thì nó chỉ còn lại những câu thơ lục bát. Từ cái chuyện ở trọ bình thường trong đời, anh đã đẩy liên tưởng tới các "cõi tạm" chốn trần gian trong triết lý của Đạo Phật với một cách nói thoải mái, thông minh và hóm (humor). Anh nhìn thấy con chim ở trọ trên cành cây, con cá ở trọ trong nước, cơn gió ở trọ giữa đất trời... rồi đẩy tới một khái quát bất ngờ:
Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tôi ở trọ chung quanh nỗi buồn.
Có những liên tưởng còn bất ngờ hơn khi nói tới vẻ đẹp ở trọ trong thân thể, hay tâm hồn của người phụ nữ:
Môi xinh ở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thúy Kiều.
Vì thế mà có câu:
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành.
Và khi con người đã ở trọ vào nhau bằng tình yêu thì dù có phải xa rời cõi tạm vẫn mãi mãi khăng khít cùng nhau:
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về chốn xa xôi cũng gần.
Với Bài thơ "Ở trọ", Trịnh Công Sơn đã làm cho thể thơ lục bát trở nên sinh động và tươi mới hẳn lên.
Nhiều bài thơ phỏng theo nhịp đồng dao (bốn chữ) khá thành công nhờ cách lập tứ và chọn từ như “Em đi qua chiều”, "Cũng sẽ chìm trôi", "Nhật nguyệt trên cao - ta ngồi dưới thấp", nhưng có lẽ "Ngụ ngôn mùa đông" mới là một bài thơ 4 chữ gây ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc. Bài thơ nói về “Một người Việt Nam - Đi ra dòng sông - Nhớ về cội nguồn. . . Đi lên đồi non - Nhớ về cội nguồn" thật tươi đẹp, thật máu thịt, rồi bỗng:
Một ngày mùa đông
Trên con đường mòn
Một chiếc xe tang
Trái mìn nổ chậm
Người chết hai lần
Thịt da nát tan...
Người Việt ấy đã chết lại còn bị giết một lần nữa bởi "trái mìn nổ chậm" của chiến tranh. Cái tứ thơ này không chỉ chia xẻ với cái chết đau thương tang tóc của con người mà còn có sức mạnh tố cáo chiến tranh thật sâu sắc:
Súng từ thị thành
Súng từ ruộng làng
Nổ xé da con phố chợ thật buồn
Cuộn giây gai chắn
Chắc mẹ hiền lành
Rồi cũng tủi thân.
Nhịp thơ 5 chữ trong thơ Trịnh Công Sơn cũng xuất hiện không ít, và lặng lẽ tuôn chảy trong veo buồn thương, ngơ ngác. Khi thì khao khát hồn nhiên: "Môi nào hãy còn thơm - Cho ta phơi cuộc tình - Tóc nào hãy còn xanh - Cho ta chút hồn nhiên", khi thì hoang vắng, lạnh câm: "Như đồng lúa gặt xong - Như rừng núi bỏ hoang - Người về soi bóng mình - Giữa tường trắng lặng câm", khi thì tuyệt vọng ngậm ngùi: “Không còn, không còn ai - Ta trôi trong cuộc đời - Không chờ không chờ ai" (Ru ta ngậm ngùi), và có lúc đầy mộng mơ khao khát giữa ưu phiền: "Tôi con chim thanh bình - Mơ được sống hồn nhiên - Như hoa trên đồng xanh - Một sớm kia rất hồng” (Như chim ưu phiền). Nhịp thơ 5 chữ vốn rất bình dân trong đối đáp dân gian, nhưng với Trịnh Công Sơn, nó bỗng trở nên lồng lộng, thênh thang và quý phái:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều.
hoặc:
Một người về đỉnh cao
Một người về vực sâu
Để cuộc tình chim mau
Như bóng chim cuối đèo . . . (Tình nhớ)
cùng với những ý thơ bất ngờ đến từ trong vô thức:
Trăng muôn đời thiếu nợ
Mà sông không nhớ ra.
hoặc:
Cây trưa thu bóng dài
Và tôi thu bóng tôi
Tôi thu tôi bé lại
Làm mưa tan giữa trời... (Biết đâu nguồn cội)
Ít thấy nhịp thơ 6 chữ ở Trịnh Công Sơn, nhưng không phải là không có. Câu thơ 6 chữ xuất hiện đan xen trong nhiều bài thơ của anh thường tạo được hiệu quả lạ, như một dấu nhấn của cảm xúc và ý tưởng. Ví dụ như trong bài "Nhìn những mùa thu đi", sau mỗi câu 5 chữ là câu 6 chữ khá hay:
- Em nghe sầu lên trong nắng
- Nghe tên mình vào quên lãng
- Tay trơn buồn ôm nuối tiếc
- Hai mươi sầu dâng mắt biếc
- Anh nghe buồn mình trên ấy
- Đơn côi bàn tay quên lối
- Công viên chiều qua rất ngắn
- Anh ghi bằng nhiều thu vắng (Có người đã nhầm "công viên chiều qua rất ngắn" thành ra "rất vắng" và giải thích về sự "vắng vẻ của công viên buổi chiều là sai. ở đây phải hiểu là buổi chiều rất ngắn, vì chiều qua nhanh quá, như người ta vẫn nói "ngày ngắn đêm dài" vậy. Thế mới đúng cách tư duy của Trịnh Công Sơn. Hơn nữa câu sau đã có chữ vắng rồi!). Bài "Ru em" là một bài thơ lục ngôn từ đầu đến cuối:
Ru em ngủ những đêm khuya
Ru em ngủ những âm u
Ru em cùng những u mê
Ru em dù đã chia xa . . .
Thơ 6 chữ hợp với nhịp ru (võng đưa). Trong âm nhạc, các bài ru thường được viết theo nhịp 6/8, nhưng ở bài "Ru em", tác giả lại viết theo nhịp 2/4 có chùm 3, cũng có thể hát theo nhịp Slow Rock chậm (6/8) rất hợp. Trong bài này có 2 câu thơ rất thú vị:
Yêu em yêu thêm tình phụ
Lòng chợt từ bi bất ngờ.
(Nhân nói đến thơ lục ngôn, bỗng nhớ đến một bài thơ nhịp 3 hết sức đặc biệt của Trịnh Công Sơn. Đó là bài “Mưa hồng":
Trời ươm nắng
Cho mây hồng
Mây qua mau
Em nghiêng sầu
Còn mưa xuống
Như hôm nào
Em đến thăm
Mây âm thầm
Mang gió lên . . .
Điều đó nói lên sự đa dạng và tài hoa của Trịnh Công Sơn khi sử dụng thi điệu, bởi nhịp thơ 3 thường tươi vui nhí nhảnh, mà ở đây lại tả cái tâm trạng thương nhớ xa xăm: "Người ngồi xuống/xin mưa đầy/trên hai tay/cơn đau dài...”
Nhịp thơ thất ngôn là một sở trường của Trịnh Công Sơn. Dường như anh thẩm thấu Đường thi, nhưng hơi thở thì đã khác. Những câu thơ 7 chữ vào thơ anh rất tự nhiên. Nhiều bài thơ (bài hát) đã mở đầu bằng câu thơ 7 chữ thật nhẹ nhàng như chẳng có một cố ý nào. Có thể dẫn ra nhiều trường hợp như vậy:
- Một đêm bước chân về gác nhỏ
- Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
- Trên đò người trổ nhánh hoang vu
- Người đi quanh thân thể người
- Vẫn thấy bên đời còn có em.
- Ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
- Em còn nhớ hay em đã quên
- Hai mươi năm xin trả nợ đời.
- Không có em còn tôi với ai
- Em đứng lên gọi mưa vào hạ
- Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
- Màu nắng hay là màu mắt em
vân vân và vân vân...
Cũng là thơ thất ngôn, nhưng cách gieo nhiều vần bằng liên tiếp theo cảm hứng âm nhạc, đã khiến cho thơ anh không bị gò ép vào khuôn thước cổ thi, mà thoát ra, phong quang và mềm mại hẳn lên. Có những đoạn thơ chỉ gieo toàn vần bằng:
Màu nắng hay là màu mắt em
Mùa thu mưa bay cho tay mềm
Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm
Rồi có hôm nào mây bay lên
Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xôn xao đón ưu phiền
Ngày xưa sao lá thu không vàng
Và nắng chưa vào trong mắt em
Chiều đã đi vào vườn mắt em
Mùa thu qua tay đã bao lần
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng
Để nắng đi vào trong mắt em
Để nắng bây giờ trong mắt em
Cũng có khi, thơ thất ngôn của anh được gieo vần trắc:
Em đi biền biệt muôn trùng quá
Từng cơn gió và từng cơn gió
Em đi gió lạnh bên xa bờ
Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ
Lại có khi thơ thất ngôn được tổ chức theo từng khổ ba câu với những hình ảnh thật đẹp, thật lạ như: "lòng như khăn mới thêu”, "lòng như nắng qua đèo", chỉ đọc một lần là bâng khuâng xao xuyến mãi:
Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu.
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo....
Mười năm khi phố khi vùng đồi
Nhìn nhau ôi cũng như mọi người
Có một dòng sông đã qua đời...
Các thi ảnh vừa tươi mới vừa lạ lùng cứ nối tiếp nhau hiện lên trong thơ Trịnh Công Sơn để đẩy tứ thơ đến tận cùng bất ngờ: "Có một dòng sông đã qua đời". Tại sao dòng sông lại qua đời? Phải chăng, đấy chính là dòng sông biểu tượng cho tình yêu đã cạn!
Trịnh Công Sơn thuộc thế hệ những người mê đắm Thơ Mới, và thể thơ 8 chữ mà các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đã có công cải hóa và Việt hóa từ thơ Pháp có một nhịp điệu dễ mê hoặc lòng người. Trịnh Công Sơn tiếp thu nhịp điệu này, và chính âm nhạc đã thêm một lần nữa làm mới thơ 8 chữ:
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe (tiếng) rất nhu mì
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ.
Đường nào dìu tôi đi đến cơn say
Một lần nằm mơ (tôi) thấy tôi qua đời
Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy
Giật mình tỉnh ra: ồ nắng lên rồi. (Bên đời hiu quạnh)
Hoặc dùng lại đúng cái nhịp Thơ Mới vẫn thường dùng, nhưng tinh thần thì đã khác:
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông,
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em,
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai (là ai là ai) mà yêu quá đời này! (Tôi ơi đừng tuyệt vọng)
Một thi sĩ với rất nhiều cung bậc trong điệu nhạc tâm hồn, Trịnh Công Sơn thả sức bay lượn trong các nhịp thơ tự do đầy phóng túng. Những câu thơ dài ngắn khác nhau cứ tung tẩy trong các bài thơ tự do của anh. Khi thì triết lý: “Tình yêu như trái phá con tim mù lòa”, khi thì lộng lẫy: “Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay”, khi thì trùng điệp: "Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta", khi thì gập ghềnh mệt mỏi: “Ngựa buông vó/ Người đi chùng chân đã bao lần/Nửa đêm đó/Lời ca dạ lan như ngại ngùng/vùng u tối/Loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng", và có khi nhịp điệu trôi xa như sông bỗng quay về gần gũi như mưa:
Từng người tình 
bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ
Lời hẹn thề là những cơn mưa.
Dù là phóng túng trong thơ tự do, những vần điệu và ý tưởng lạ và đẹp ở thơ anh giống như chiếc neo thuyền, neo vào lòng người để nó chẳng bao giờ trôi đi vô vọng.
Có lẽ Trịnh Công Sơn là nhà thơ được người ta thuộc nhiều nhất. Điều đó không lạ, bởi anh luôn có sự truyền tải diệu vợi bằng âm nhạc của chính anh. Nhưng cũng có thể nói ngược lại, âm nhạc của Trịnh Công Sơn luôn được đôi cánh của thơ cứu rỗi, như thiên sứ mang tin yêu đến với lòng người. Quả thật, nhiều khi ngồi một mình, tôi không nhớ nhạc của anh mà nhớ những câu thơ thấy hay này:
- Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi!
- Làm sao em biết bia đá không đau
Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau.
- Bao nhiêu năm làm kiếp con người
Chợt một chiều tóc trắng như vôi.
- Mùa xanh lá
Loài sâu ngủ quên trong tóc chiều.
Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.
- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không
Bàn im hơi bên ghế ngồi
Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người.
- Một hôm bước qua thành phố lạ,
Thành phố đã đi ngủ trưa.
Đời ta có khi tựa lá cỏ
Ngồi hát ca rất tự do,
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố kia tôi về.
Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa.
- Áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau
- Mẹ là nước chứa chan
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan.
- Hà Nội mùa thu
Cây cơm nguội vàng cây bàng lá đỏ nằm kề bên nhau
Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu....
Đi giữa mọi người để nhớ một người. . .
Có một tập ca khúc thời trẻ của Trịnh Công Sơn mang tên là "Kinh Việt Nam” phải chăng, trong sâu thẳm lòng mình, anh khao khát sáng tạo ra những bài kinh cầu cho dân tộc này, cho tình yêu này và cho thân phận này? Đấy chính là bài kinh cầu bên bờ vực linh hồn cần được cứu rỗi. Những bài kinh ấy chính là những bài thơ còn lại của Trịnh Công Sơn với một niềm yêu tin gần như là tuyệt vọng" đã vượt lên số phận chia sẻ với đương thời và hậu thế, đấy là lòng tin vào con người khởi nguồn từ dòng cảm xúc tự nhiên, vượt qua cả tôn giáo và định kiến, bởi vì ,”hương thơm đã sẵn đốt trong hồn" (chữ của Chế Lan Viên). Cũng với một lòng tin như vậy, tôi xin mạn phép đổi một chữ trong câu thơ của anh để tạm kết thúc bài viết này:
Ngày sau sỏi đá cũng cần có THƠ!
Hà Nội, ngày giỗ đầu Trịnh Công Sơn, 2002
Diễm Xưa
(Cho Trịnh Công Sơn)
Có thể tóc nàng bạc trắng
Vô tình sỏi đá thành vôi
Có thể cơn mưa đã tạnh
Trái tim chẳng mọc thêm chồi.
Chàng trai yêu nàng đã khuất
Bên tầng tháp cổ rêu mờ
Cánh chim thiên di mỏi mệt
Bay ngoài câu hát ngu ngơ.
Bọn trẻ như chàng ngày trước
Thả hồn trong quán cà phê
Ở đó có nàng kiều diễm
Vai thon ôm mái tóc thề.
Thì thầm chợt nghe gió nói
Nàng là con của Diễm xưa!.
Theo http://kilopad.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị

Sợi thơ vút lên vỡ ráng chiều mộng mị Đèo Prenn ngun ngút sắc trời// Hờ hững ngang chiều dải lụa nàng tiên rơi mùa hội trẩy/ Lả lướt theo ...